Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Học thuyết kinh tế mác là học thuyết khoa học và cách mạng, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.63 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Học thuyết C.Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ
mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã khẳng định được sự chiến
thắng của nó đối với phương thức sản xuất phong kiến. Qua đó cho thấy,
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản và giai cấp vô sản, ngày càng gay gắt sâu sắc, phong trào của giai
cấp vô sản chống lại chế độ bóc lột áp bức tư bản chủ nghĩa ngày càng lên
cao, điển hình là khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyon nước Pháp, phong trào hiến
chương ở Anh trong những năm 30, 40 của thế kỷ XIX.
Từ thực tế cho chúng ta nhận thấy, đòi hỏi bức thiết phải có một lý
luận Cách mạng tiến bộ làm vũ khí tư tưởng sắc bén cho giai cấp vô sản và
học thuyết C.Mác đã ra đời. Học thuyết ra đời, có ý nghĩa, giá trị thiết thực,
cấp thiết to lớn, gây một tiếng vang lớn trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Sự xuất hiện của học thuyết C.Mác, đã "giải đáp những vấn đề,
những mâu thuẫn do xã hội loài người đặt ra". Trong khi đó, các nhà kinh
tế học trước C.Mác, như Willam Petty (1623 – 1687), Adam Smith (1723 –
1790), David RiCardo (1772 – 1823),... chưa giải quyết được một cách triệt
để và khoa học.
Thực tế, C.Mác thật sự là một nhà khoa học vĩ đại và thiên tài, với
"bộ óc thiên phú" của nhân loại. Ông sáng tạo một học thuyết hoàn chỉnh,
chặt chẽ, chính xác với tính khoa học rất cao và tính cách mạng triệt để.
Tuy nhiên, có những người bài bác học thuyết C.Mác thường cố tình tìm
cách phủ nhận tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết Mác; họ cố
tình chứng minh rằng: "C.Mác là nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không
tưởng". Đây rõ ràng là một luận điệu xuyên tạc học thuyết Mác.
Thực tiễn ngày nay chứng minh được rằng, học thuyết C.Mác là hệ
thống tư tưởng, lý luận của giai cấp công nhân, có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính cách mạng và tính khoa học. Cơ sở của sự thống đó là thế giới

1



quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Lý luận này luôn luôn gắn
bó với thực tiễn sinh động; coi thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý,
nó không chỉ giúp chúng ta nhận thức thế giới mà còn quan trọng hơn là cải
tạo thế giới như C.Mác đã nói.
Đề tài "Học thuyết kinh tế Mác là học thuyết khoa học và cách
mạng, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với sự phát triển kinh
tế ở nước ta" được tác giả nghiên cứu, có sự kế thừa nhất định.
Hiện nay, công tác nghiên cứu học thuyết kinh tế C.Mác được rất
nhiều cá nhân, tổ chức trong nước và trên thế giới quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu "học thuyết kinh tế Mác là học thuyết
khoa học và cách mạng". Tuy nhiên, để đánh giá, nhận định cống hiến vĩ
đại của học thuyết kinh tế C.Mác một cách tương đối đầy đủ thông qua "Bộ
tư bản" đòi hỏi phải có kiến thức sâu, rộng hơn. Đồng thời vì mới tiếp cận
môn khoa học "Lịch sử các học thuyết kinh tế", nên tầm hiểu biết về "Lịch
sử các học thuyết kinh tế" của tác giả chưa sâu, rộng; do đó trong quá trình
nghiên cứu cũng không thể tránh thiếu sót và hạn chế. Rất mong, quý thầy
cô thông cảm giúp đỡ em hoàn thành tốt bài tiểu luận hơn.

2


NỘI DUNG
Chương I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Về mặt kinh tế
Điểm nổi bật về kinh tế trong giai đọan này diễn ra cuộc Cách mạng
công nghiệp ở một loạt nước tư bản, mở đầu ở Anh vào những năm 70 của

thế kỷ XVIII và kết thúc những năm 20 của thế kỷ XIX, khi đại cơ khí
được xác lập.
Cuộc cách mạng công nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản như:
Biến lao động thủ công thành máy móc và làm cho chủ nghĩa tư bản
từ giai đọan công trường thủ công lên giai đọan đại công nghiệp cơ khí.
Làm cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng hòan tòan chế độ xã hội phong kiến
và làm cho giai cấp vô sản phụ thuộc vào giai cấp tư sản cả về kinh tế lẫn
kĩ thuật. Làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển trên cơ sở vật chất kĩ thuật
của chính bản thân nó. Do vậy, đến đây chủ nghĩa tư bản bọc lộ đầy đủ
những mâu thuẫn và bản chất cơ bản của nó như thất nghiệp,...
1.1.2. Về mặt chính trị – xã hội
Với nền đại công nghiệp cơ khí ra đời dẫn tới sự xuất hiện một giai
cấp mới – giai cấp vô sản hay giai cấp công nhân công nghiệp. Giai cấp
này cùng với giai cấp tư bản hình thành nên giai cấp cơ bản trong xã hội tư
bản.
Giai cấp tư sản là giai cấp nắm toàn bộ tư liệu sản xuất là giai cấp
nắm quyền thống trị toàn xã hội. Nó dựa vào nền đại công nghiệp cơ khí và
sự tiến bộ kỹ thuật để tăng cường bóc lột giai cấp vô sản.

3


Giai cấp vô sản là giai cấp mất hết tư liệu sản xuất phải làm thuê cho
giai cấp tư sản. giai cấp vô sản được phát triển nhanh chóng cả về số lượng
và chất lượng cùng với sự phát triển của đại công nghiệp.
Do bị áp bức và bóc lột nặng nề nên giai cấp vô sản đã từng bước
đứng lên đấu tranh với giai cấp tư sản và đã trở thành phong trào rộng lớn
như phong trào đấu tranh của công nhân ở Lyon (Pháp), phong trào hiến
chương ở Anh...nhưng tất cả các phong trào này đều mang tính tự phát, nên

một yêu cầu khách quan phải có một lý luận khoa học để dẫn đường, nhằm
đưa phong trào tự phát lên tự giác.
1.1.3. Về mặt tư tưởng
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có nhiều phát minh khoa học làm
cơ sở lý luận cho việc lý giải các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc
biệt, trong lĩnh vực tư tưởng xuất hiện ba trào lưu lớn, đó là: Triết học cổ
điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp.
Các trào lưu tư tưởng này có nhiều thành tựu khoa học, song cũng
còn nhiều hạn chế. Các nhà kinh tế học Macxit đã kế thừa có phê phán
những trào lưu tư tưởng này để xây dựng nên học thuyết kinh tế của mình,
được thể hiện qua:
Về triết học cổ điển Đức: Mác đã khắc phục mặt duy tâm và mặt siêu
hình, máy móc của F.Hegel và Feuerbach, đồng thời kế thừa phép biện
chứng và chủ nghĩa duy vật của các ông đã xây dựng nên phương pháp
luận khoa học của mình, đó là phép duy vật biện chứng.
Về kinh tế chính trị cổ điển Anh: C.Mác kế thừa những thành tựu
khoa học của trường phái tư sản cổ điển về lý luận giá trị, tiền tệ, tiền công,
lợi nhuận, địa tô...đồng thời khắc phục những hạn chế, từ đó bổ sung, phát
triển làm cho lý luận trở nên hoàn chỉnh và khoa học.
Về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: C.Mác đã khắc phục tính
không tưởng của họ là dựa vào nhà nước tư sản và lòng từ thiện của các
4


nhà tư bản để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới. Từ đó, đưa
chủ nghĩa xã hội không tưởng trở thành khoa học.
2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của học thuyết Mác
2.1. Một số học thuyết kinh tế cơ bản tác động đến sự ra đời của
học thuyết kinh tế C.Mác.

a. Học thuyết kinh tế trọng thương:
Chủ nghĩa trọng thương ra đời và tồn tại ở Tây Âu vào thế kỷ XV
đến thế kỷ XVII chiếm vị trí quan trọng và là nét nổi bật trong đời sống
kinh tế các nước Tây Âu trong giai đoạn này. Nó là hình thái đầu tiên của
hệ tư tưởng kinh tế tư sản trong giai đoạn tích lũy nguyên thủy tư bản nhằm
chống lại tư tưởng phong kiến và tìm nguồn gốc giàu có từ thương nghiệp,
tuyệt đối hóa vai trò của thương nghiệp, bảo vệ lợi ích của tư bản thương
nghiệp.
* Tư tưởng kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương:
Điểm xuất phát của chủ nghĩa trọng thương là tiền: Tiền là nội dung
căn bản của của cải. Là tài sản thật sự của một quốc gia. một nước càng có
nhiều tiền (vàng) thì càng giàu có. Còn hàng hóa chỉ là phương tiện làm
tăng thêm khối lượng tiền tệ mà thôi.
Để tích lũy tiền phải phát triển thương nghiệp, trước hết là ngoại
thương. Chỉ có ngoại thương mới là nguồn gốc đích thực của sự giàu có, là
phương tiện để tạo nhiều tiền. Các hoạt động khác không làm tăng thêm
của cải. Montchretien (1575 – 1629) – Nhà kinh tế Pháp, cho rằng: "Nội
thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng của cải
phải có ngoại thương nhập của cải qua nội thương".
Tuy nhiên, học thuyết còn mang tính phiến diện, chỉ nghiên cứu
quan hệ kinh tế trong lĩnh vực lưu thông, tuyệt đối hóa vai trò của lưu
thông mà không quan tâm đến sản xuất phân phối và tiêu dùng. Những luận
điểm của chủ nghĩa trọng thương mới dừng ở phân tích thực tiễn để đưa ra
những lời khuyên về chính sách kinh tế, rất ít tính lý luận. Chưa biết đến
5


các quy luật kinh tế. Họ coi thương trường là chiến trường, người này được
thì người kia mất, dân tộc này làm giàu thì dân tộc khác phải hy sinh.
b. Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển:

Kinh tế chính trị học cổ điển là một trường phái đặc biệt có vai trò và
ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển kinh tế chung của nhân loại. Nó xuất
hiện vào cuối thế kỷ XVII, trong thời kỳ phương thức tư bản chủ nghĩa đã
hình thành và bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở phương Tây; đặc biệt là ở nước
Anh và nước pháp.
Trường phái này phát triển trong một thời kỳ dài, trải qua nhiều giai
đoạn, đạt tới đỉnh cao rực rỡ vào cưối thế kỷ XVIII, đấu thế kỷ XIX và sau
đó dần dần xa rời nguyên tắc truyền thống trước khi chấm dứt sự thống trị
tuyệt đối của mình vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Kinh tế tư sản cổ điển là một trường phái khoa học có nhiếu đóng
góp cho lịch sử tư tưởng chung của loài người. Đó là phương pháp nghiên
cứu khoa học, sư dụng phương pháp trừu tượng hóa; nhũng người cổ điển
đã phát hiện và đi sâu nghiên cứu, vạch rõ nhiều vấn đề có tính quy luật nội
tại của phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, lý luận kinh tế cổ
điển được phân tích trên cơ sở một hệ thống các phạm trù và khái niệm
kinh tế vẫn còn nguyên giá trị cho đến nay.
Những đóng góp to lớn của trường phái này về lý luận gồm lý luận
giá trị – lao động, lý luận về tiền tệ, tiền công, lợi nhuận và địa tô. Chủ
nghĩa kinh tế tư sản cổ điển được coi là người thực hiện những bước cách
mạng quan trọng nhất trong việc phân tích các quy luật của nền kinh tế thị
trường nói chung và cơ chế thị trường nói riêng trong chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, trường phái cổ điển trong kinh tế học còn những hạn chế
lịch sử nhất định. Đó là tính chất hai mặt trong phương pháp luận nghiên
cứu – vừa sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, khách quan để
phân tích bản chất của phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản, lại vừa bị

6


ràng buộc bởi tính chất phi lịch sử trong việc đánh gía phương thức sản

xuất của chủ nghĩa tư bản.
c. Học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Chủ nghĩa xã hội không tưởng xuất hiện vào cuối thế kỷ XVI và trờ
thành phổ biến vào nửa đầu thế kỷ XIX ở Pháp và ở Anh. Đại biểu chủ yếu
là Saint Simon, C.Fourier, R.Owen. Nó là kết quả của cuộc đấu tranh giữa
các lực lượng tiền thân của giai cấp vô sản hiện đại với giai cấp tư sản và
chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã đưa ra những tư tưởng
về một xã hội mới công bằng, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng kịch liệt phê phán chủ nghĩa tư bản
theo quan điểm lợi ích kinh tế chứ không phải tuân theo quan điểm luân lý,
đạo đức. Các nhà xã hội không tưởng cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã kìm
hãm sự phát triển của các lực lượng sản xuất, do đó cần phải thay thế bằng
xã hội mới. Họ vạch rõ, chủ nghĩa tư bản chỉ tồn tại trong một giai đoạn
lịch sử nhất định, từ đó chống lại các quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản
tồn tại vĩnh viễn, chẳng hạn như:
C.Fourier là người phê phán chủ nghĩa tư bản gay gắt, toàn diện và
sâu sắc nhất. Ông cho rằng: Trong xã hội tư bản, mỗi cá nhân nằm trong sự
cạnh tranh với tập thể và xã hội. Có nhiều người không lao động, không
sản xuất, người lao động thật sự thì bóc lột thậm tệ, làm họ không hứng
thú làm việc.
Saint Simon cho rằng: Xã hội có tính ích kỷ, bạo lực và của sự lừa
đảo.
R.Owen khẳng định: Chủ nghĩa tư bản đem lại tai họa cho xã hội,
gây cạnh tranh vô chính phủ, bóp méo quan hệ giữa người với người. Chế
độ tư hữu là nguyên nhân của sự vô vàn tội lỗi.
2.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế Mác
Học thuyết kinh tế Mácxít do Mác – Ăngghen sáng lập và có sự bổ
sung phát triển của V.I.Lênin sự xuất hiện của học thuyết kinh tế Mácxít
7



đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của lịch sử các học thuyết
kinh tế. Học thuyết kinh tế Mácxít:
a. Học thuyết kinh tế Mác – Lênin là sự kế thừa những tinh hoa
của nhân loại.
Những tư tưởng kinh tế xuất hiện từ thời cổ đại và nó không ngừng
được phát triển qua xã hội phong kiến. Đến chủ nghĩa tư bản, những tư
tưởng kinh tế đã trở thành những học thuyết kinh tế: đầu tiên là học thuyết
kinh tế trọng thương tiếp đó là học thuyết kinh tế tư sản cổ điển, học
thuyết kinh tế tiểu tư sản, học thuyết kinh tế không tưởng... Những học
thuyết kinh tế này, đã đạt được những thành tựu khoa học, tuy nhiên vẫn
còn nhiều hạn chế. Chính C.Mác – Lênin đã kế thừa tinh hoc của họ, đồng
thời khắc phục những mặt hạn chế, trên cơ sở đó bổ sung, phát triển đưa
khoa học kinh tế Mácxít lên đỉnh cao của nhân loại.
b. Học thuyết Mác – Lênin dựa trên phương pháp luận khoa học.
Các nhà kinh tế trước C.Mác không thành công trong việc phân tích
chủ nghĩa tư bản, gì họ thiếu một phương pháp luận khoa học, phần lớn họ
còn dừng lại ở phương pháp quan sát hoặc phương pháp duy vật máy móc
và siêu hình còn đối với học thuyết kinh tế C.Mác – V.I.Lênin đã dựa trên
phương pháp luận khoa học đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đồng thời C.Mác còn sử dụng một loạt các phương pháp khoa
học khác như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgíc và
lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp...
Với những phương pháp nghiên cứu như trên học thuyết kinh tế
Mácxít đã nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình kinh tế tự trong quá
trình sản xuất vật chất, quá trình vận động phát triển và trong mối quan hệ
tác động qua lại với nhau.
c. Học thuyết kinh tế Mác là sự khái quát sinh động của chủ nghĩa
tư bản.


8


Phương thức sản xuất của chủ nghĩa tư bản là phương thức sản xuất
nảy mầm từ trong lòng xã hội phong kiến do đó quá trình hình thành và
phát triển của nó phải trải qua các giai đoạn. Xét về mặt công nghiệp thì
chủ nghĩa tư bản trải qua ba giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ
công và đại công nghiệp cơ khí.
Các đại biểu điển hình của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển như:
A.Smith và D.Ricardo điều là những nhà kinh tế tài giỏi nhưng các ông lại
sống trong công trường thủ công và giai đoạn đầu của đại công nghiệp cơ
khí - giai đoạn chủ nghĩa tư bản đang có chiều hướng tiến bộ, nên chưa bộc
lộ những mâu thuẫn và chưa bọc lộ đầy đủ bản chất của nó.
Chính vì thế, trong học thuyết kinh tế của các ông còn nhiều mặt hạn
chế nhất định, trong khi đó C.Mác – Ăngghen sống trong thời kỳ chủ nghĩa
tư bản đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và quá trình công
nghiệp hóa. Từ thực tiễn đó, cho phép C.Mác và tiếp đó là V.I.Lênin đã
phân tích một cách sâu sắc nhất, đầy đủ nhất về bản chất và quá trình vận
động của chủ nghĩa tư bản.
d. Học thuyết kinh tế Mác xít là nội dung cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin gồm ba bộ phận cấu thành: Triết học Mácxít,
kinh tế chính trị học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học với mỗi bộ
phận có vị trí vai trò và nội dung riêng, trong đó kinh tế chính trị là một
khoa học nghiên cứu mặt xã hội của quá trình sản xuất, nghĩa là nghiên cứu
mặt quan hệ sản xuất trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất và kiến trúc
thượng tầng, để tìm ra bản chất và các phạm trù, các quy luật kinh tế của
mỗi phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử, từ đó chỉ ra đường lối
đấu tranh cách mạng cho giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới.

Chính vì vậy, học thuyết kinh tế Mácxít là nội dung căn bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
9


Chương II
HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC LÀ HỌC THUYẾT
KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG
2.1. Gía trị khoa học và cách mạng của học thuyết kinh tế Mác.
2.1.1. Hoàn thiện lý thuyết giá trị – lao động:
Trong Học thuyết kinh tế của C.Mác, lý thuyết giá trị – lao động có
vị trí quan trọng. Công lao to lớn và điểm mấu chốt đã giúp C.Mác đưa lý
thuyết giá trị – lao động tới đỉnh cao là đã phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa, đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Ông
viết: "Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa và khoa kinh tế chính trị học xoay quanh điểm này".
Theo C.Mác, lao động của người sản xuất có tính hai mặt. Một mặt
là lao động cụ thể, mặt khác là lao động trừu tượng. Lao động cụ thể là lao
động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn
nhất định. nó có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng, thao
tác riêng và kết quả riêng. Như vậy, xét về lao động cụ thể, thì lao động của
người sản xuất của những hàng hóa khác nhau là khác nhau
Theo C.Mác, trong lĩnh công nghiệp, thời gian lao động xã hội cần
thiết là thời gian trung bình xã hội, do thời gian của những người sản xuất
có năng suất trung bình, cường độ sản xuất trung bình quyết định. còn
trong nông nghiệp, thời gian lao động xã hội cần thiết do thời gian lao động
sản xuất trên ruộng đất khó khăn nhất như đất xấu nhất, vị trí khoảng cách
là xa xôi nhất so với thị trường quyết định.
Qua sự trình bày, phân tích, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, Mác vạch ra trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể bảo tồn và di

chuyển giá trị cũ (c) vào trong sản phẩm mới, lao động trừu tượng tạo ra
giá trị mới (V + M). Và toàn bộ giá trị hàng hóa gồm C + V + M. Điều này,
David Ricardo không vượt qua được.

10


Với những cống hiến một cách khoa học như vậy, có thể nói rằng
C.Mác đã đạt tới đỉnh cao trong lý thuyết giá trị – lao động. Cho đến nay,
chưa có một sự phát triển thêm nào trong lĩnh vực này.
2.1.2. Lý thuyết giá trị thặng dư – viên đá tảng trong Học thuyết
kinh tế của Mác:
Trên cơ sở trình bày phân tích lý thuyết giá trị – lao động, Mác giải
quyết hệ thống các phạm trù và qui kuật kinh tế khác. Trước hết, Ông xây
dựng lý thuyết về giá trị thặng dư, vạch rõ nguồn gốc, bản chất của giá trị
thặng dư (m).
Nội dung cơ bản của giá trị thặng dư là gì ? Để hiểu rõ vấn đề này có
thể xem xét một ví dụ sản xuất giá trị thặng dư qua quá trình kéo bông
thành sợi. Giả sử để sản xuất 10kg sợi cần 10kg bông, giá 10kg bông là
10đôla. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6
giờ và hao mòn máy móc là 2đôla; giá trị sức lao động trong một ngày của
một công nhân là 3đôla; trong 1 giờ lao động người công nhân tạo ra một
giá trị là 0,5đôla; cuối cùng, ta gỉa định trong quá trình sản xuất sợi đã hao
phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như trên, nếu như quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái
điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6giờ), tức là bằng thời gian
lao động cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, trong thực tế quá trình lao động không dừng lại điểm đó.
Nhà tư bản dã trả tiền mua sức lao động trong ngày. Vậy thời gian sử dụng
sức lao động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản

Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công
nhân mà được bảo tồn và di chuyển vào sản phẩm mới để hình thành giá trị
sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình
lao động gọi là giá trị mới. Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó
bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
11


Vậy, giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
2.1.3. Lý thuyết tiền lương:
Người công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó sản
xuất ra một lượng hàng hóa nào đó thì nhận được một số tiền trả công nhất
định. Tiền trả công đó gọi là tiền lương hay tiền công. Các nhà kinh tế học
tư sản gọi tiền lương hay tiền công là giá cả của lao động.
Dựa trên lý thuyết giá trị – lao động, Mác chỉ ra là, sự thật thì tiền
công không phải là giá trị hay giá cả của lao động. Vì sao lao động không
phải là hàng hóa và không thể là đối tượng mua bán. Nguyên nhân do:
Nếu lao động là hàng hóa thì nó phải có trước, phải được vật hóa
trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động có thể "vật hóa"
được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản
xuất thì họ sẽ bán hàng hóa do mình sản xuất, chứ không bán "lao động".
Chính vì vậy, lao động không phải là hàng hóa, nó không thể có trước khi
người công nhân bán cho nhà tư bản. Công nhân không thể bán cái mà
mình không có.
Việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới một trong hai mâu thuẩn
về lý luận sau đây: Nêu lao động là hàng hóa thì nó phải được trao đổi
ngang giá. Nhưng nếu được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không thu
được lợi nhuận (giá trị thặng dư). Điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của

quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Còn nếu hàng hóa lao động được trao đổi không ngang gái để có giá
trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị trong nền kinh
tế hàng hóa.
Nếu lao động là hàng hóa thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị.
Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy giá trị của lao động
lại được đo bằng lao động là một điều luẩn quẩn, vô nghĩa.

12


Vì thế lao động không phải là hàng hóa. Cái mà công nhân bán cho
nhà tư bản và cái nhà tư bản mua của người công nhân chính là sức lao
động. Do đó, tiền công nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao
động.
Qua đó cho thấy, C.Mác chỉ ra bản chất của tiền công dưới chủ nghĩa
tư bản là gí trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài
thành giá trị hay giá cả của lao động. Và nhờ mua được sức lao động, nhà
tư bản mới chiếm được một phần giá trị mới do người công nhân tạo ra
trong sản xuất tương ứng với phần giá trị thặng dư.
2.1.4. Lý thuyết về tư bản:
Các nhà kinh tế trước C.Mác thường nói rằng, mọi công cụ lao động,
mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. C.Mác cho rằng, định nghĩa tư bản như
vậy nhằm mục đích che dấu thực chất nhà tư bản bóc lột công nhân làm
thuê, coi chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi trong hết thảy
mọi hình thái xã hội.
C.Mác chỉ rằng, thật ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư
bản, nó chỉ là điều kiện cần thiết của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư
liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản
và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì

tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Chính vì vậy, tư bản không phải là
vật mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người trong
quá trình sản xuất có tính chất lịch sử.
Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã thay đổi về
lượng, thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà lớn lên
trong quá trình sản xuất, tức là biến đổi về lượng. C.Mác gọi bộ phận này
là tư bản khả biến, ký hiệu là (v). Theo C.Mác tư bản khả biến là điều kiện
không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có
vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn
lên. C.Mác, ví tư bản bất biến như cái bình cổ cong đựng phản ứng hóa
13


học. Bản thân bình cổ cong không tham gia vào phản ứng hóa học, không
tạo ra chất hóa học mới. Nhưng không co bình cổ cong sẽ không có điều
kiện để thực hiện phản ứng hóa học, không có điều kiện cho chất hóa học
mới được tạo thành.
2.1.5. Quy luật chung của tích lũy tư bản:
Một trong những cống hiến khoa học vĩ đại to lớn của C.Mác là đã
xây dựng lý thuyết tích lũy tư bản chủ nghĩa và chỉ ra xu hướng chung của
tích lũy tư bản. Chính phát hiện này của Mác có tác động rất lớn tới sự điều
chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của
phương thức sản xuất này.
Trước hết, C.Mác làm rõ thực chất của tích lũy tư bản là tư bản hóa
giá trị thặng dư, là quá trình biến giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
hay là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa. Chúng ta có thể,
minh họa tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ sau:
Nếu cấu tạo hữu cơ của tư bản là 4C: 1V và tỷ suất giá trị thặng dư là 100%
thì một tư bản là 100 đơn vị tiền tệ sẽ tạo một lượng giá trị là 80c + 20v +
20m. Giả định nhà tư bản không tiêu dùng tất cả 20m cho cá nhân, mà

được phân tán thành 10m1 + 10m2 (trong đó 10m2 dành cho tiêu dùng cá
nhân của nhà tư bản, còn 10m1 dùng để tích lũy). Phần giá trị thặng dư
10m1 dùng để tích lũy được phân thành 8c1 + 2v1. Khi đó, quy mô sản
xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu tỷ suất giá trị thặng dư vẫn là
100%).
Qua quá trình nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản
chủ nghĩa, C.Mác rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa như sau:
Thứ nhất là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy giá trị thặng dư
và tư bản tích lũy chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.
C.Mác cho rằng tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong một dòng sông
của tích lũy mà thôi. Trong quá trình sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn
14


càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại
trở thành phương tiện mạnh mẽ để bóc lột chính người công nhân.
Thứ hai là, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản
xuất hàng hóa biến thành quyền chiếm đọat tư bản chủ nghĩa. Trong sản
xuất hàng hóa giản đơn, người lao động là người chủ những tư liệu sản xuất
và sản phẩm do họ sản xuất ra. Sự trao đổi giữa họ với nhau theo nguyên
tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới việc người này chiếm đoạt lao động
không công của người kia. Trái lại, trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự
trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản
chẳng những chiếm một phần lao động của người công nhân mà còn là
người sở hữu hợp pháp những lao động không công đó. Khi lao động
không công trở thành tư bản phụ thêm, họ lại tiếp tục sử dụng nó để chiếm
đoạt lao động không công. Vì vậy, quyền chiếm hữu trong nền sản xuất
biến thành quyền tư bản chủ nghĩa.
C.Mác chỉ ra động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư

bản chủ nghĩa là quy luật kinh tế của tư bản chủ nghĩa. Mục đích sản xuất
của tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không ngừng của giá trị. Để thực hiện
mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy và tái sản xuất mở rộng.
Mặt khác, do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc không ngừng làm cho
tư bản của mình tăng lên, bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Nói như
vậy, dường như có mâu thuẫn giữa phần tiêu dùng của nhà tư bản và phần
tích lũy. Thực ra, trong buổi đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ham
muốn làm giàu của các nhà tư bản thường chi phối tuyệt đối, nhưng đến
một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng hoang phí của các nhà tư bản
ngày càng tăng lên theo sự tích lũy tư bản. C.Mác chỉ ra các nhân tố quyết
định quy mô của tích lũy tư bản. Theo Mác, với một khối lượng giá trị
thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia
khối lượng giá trị đó thành tích lũy và tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu tỷ lệ
phân chia đó là ổn định thì tư bản tích lũy sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá
15


trị thặng dư quyết định. Do đó, những nhân tố quyết định quy mô của tích
lũy tư bản chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị
thặng dư. Những nhân tố đó là:
Một là, mức độ bóc lột sức lao động. Mức độ náy do cắt xén vào tiền
công của công nhân, do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội. Theo C.Mác, năng suất
lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn,
lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thức có ích mới, chúng làm chức
năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đo quy mô tích lũy tư bản
càng lớn. Đây là nhân tố quan trọng quyết định quy mô của tích lũy.
Ba là, sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản
tiêu dùng. Mác gọi nhân tố này là sự phục vụ không công của máy móc. Sở
dĩ như vậy là vì, trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành của

máy móc đều hoạt động, tức là máy móc tham gia toàn bộ vào quá trình sản
xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển
dần từng phần vào trong sản phẩm. Vì vậy, có sự chênh lệch, giữa tư bản sử
dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù, đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong
suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị.
Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sàn phẩm
trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực
lượng tự nhiên. Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng
hiện đại, phần giá trị của nó chuyển vào trong từng thời gian càng ít, thì sự
chênh lệch tư bản sử dụng và tư bản bị tiêu dùng càng lớn. Do đó, tư bản
lợi dụng những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều.
Bốn là, quy mô của tư bản ứng trước. Với trình độ bóc lột không đổi
thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết
định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến,
càng lớn thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích lũy càng lớn.
C.Mác đã phân tích quy luật chung của tích lũy tư bản và xu hướng lịch sử
16


của sự tích lũy tư bản. Ông cho rằng, trong quá trình tích lũy, tư bản lớn
lên về lượng thông qua tích tụ và tập trung tư bản, đồng thời cấu tạo hữu cơ
của tư bản cũng tăng lên. Đây là vấn đề có tính quy luật kinh tế của tư bản
chủ nghĩa.
C.Mác chỉ ra là, trong điều kiện cấu tạo hữu cơ của tư bản nâng cao,
tích lũy tư bản dẫn đến nạn nhân khẩu thừa tương đối. Dưới những hình
thức khác nhau như nhân khẩu thừa lao động, nhân khẩu thừa tìm tàng,
nhân khẩu thừa ngưng trệ, nạn nhân khẩu thừa tương đối khi tăng, khi giảm
tùy theo các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, là một tất yếu trong điều kiện
kinh tế thị trường phát triển.
Cùng với nạn nhân khẩu thừa tương đối, quá trình tích lũy dẫn đến

bần cùng hóa giai cấp vô sản. Thực ra Mác không phải là người phát hiện
ra bần cùng hóa giai cấp vô sản. Trong lịch sử, người đầu tiên đề cập đến
hiện tượng này là SiSmondi. Sự cống hiến của Mác về vấn đề này là ở chỗ,
Ông chỉ ra nguyên nhân sâu xa, hình thức và xu hướng vận động của tình
trạng này. Theo Mác, tốc độ và quy mô tích lũy ngày càng tăng, thì giai cấp
tư sản giàu lên nhanh chóng, còn giai cấp vô sản càng bị bần cùng và thất
nghiệp.
C.Mác phân biệt hai hình thức bần cùng hóa giai cấp vô sản là hình
thức bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa giai
cấp vô sản biểu hiện ở tỷ trọng thu nhập của giai cấp công nhân trong thu
nhập quốc dân ngày càng giảm xuống, còn tỷ trọng thu nhập của các giai
cấp các nhà tư sản tăng lên không ngừng. Sự bần cùng hóa tương đối không
phụ thuộc vào thu nhập và mức sống của giai cấp công nhân mà phụ thuộc
vào sự chênh lệch về mức tăng thu nhập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản. Bần cùng hóa tuyệt đối giâi cấp vô sản biểu hiện ở mức sống của họ
giảm xuống do tiền công thực tế giảm xuống, mức tăng lương chậm hơn
mức tăng nhu cầu cần thiết, chậm hơn mức tăng giá trị sức lao động.

17


Các nhà lý luận tư sản cũng không thể phủ nhận bần cùng hóa tương
đối những họ có phủ nhận bần cùng hóa tuyệt đối. C.Mác cho rằng, để hiểu
vấn đề bần cùng hóa tuyệt đối giai cấp công nhân, phải xem xét một cách
tổng hợp, không chỉ xét tiền lương mà phải xét trên toàn bộ điều kiện sống
và làm việc của giai cấp công nhân.
Qua sự phân tích trên, C.Mác đã chỉ rõ xu hướng lựich sử của tích
lũy tư bản... Theo C.Mác chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở dùng bạo lực
để tướt đoạt của những người sản xuất nhỏ đặc biệt là nông dân. Quá trình
đó, đã biến chế độ nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu tư

bản chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biên sản xuất nhỏ lạc
hậu, phân tán sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của
những người sản xuất nhỏ.
Tuy nhiên, khi phân tích sản xuất cơ bản chủ nghĩa tư bản đã hình
thành thì quá trình tích lũy và cạnh tranh dẫn dến tư bản sản xuất được tập
trung ngày càng lớn, do đó sản xuất được xã hội hóa cao hơn, lực lượng sản
xuất được phát triển mạnh hơn. Vì vậy, làm cho mâu thuẩn giữa tính xã hội
của sản xuất dới chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển
của mâu thuẩn này tất yếu dẫn đến sự thay đổi xã hội tư bản bằng xã hội
khác cao hơn. Đó là xu hướng lịch sử của tích lũy tư bản, xu hướng tạo ra
những tiền đề vật chát và tiền đề xã hội cao cho sự phủ định đối với chủ
nghĩa tư bản.
2.1.6. Lý thuyết lợi nhuận và phân phối lợi nhuận:
Các nhà kinh tế trước Mác chỉ chú ý đến các hình thái rieng biệt của
giá trị thặng dư mà không chú ý đến hình thức chung, bản chất của nó. Mác
chỉ ra giá trị thặng dư là cái chung, cái trừu tượng, bản chất. Đó là lao động
không được trả công của công nhân, do lao động sống của người công nhân
tạo ra, và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Song trong thực tế xã hội, giá trị thặng
dư được biểu hiện dưới các hình thức cụ thể của nó như là lợi nhuận tư bản
công nghiệp, lợi nhuận tư bản thương nghiệp, lợi tức cho vay, địa tô tư bản
18


chủ nghĩa. Chúng ta có thể, khái quát tư tưởng của C.Mác về quá trình
chuyển hóa này như sau:
Một là, phân biệt giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận tư bản. Theo
C.Mác, giá trị thặng dư là lao động không công của người công nhân tạo ra
trong quá trình sản xuất. Nó là bản chất. Còn lợi nhuận là hình thái biểu
hiện ra bên ngoài xã hội của giá trị thặng dư. Về mặt thực chất, giá trị thặng
dư và lợi nhuận có cùng một nguồn gốc thống nhất đó là lao động không

công của công nhân. Nhưng về mặt số lượng giữa lợi nhuận và giá trị thặng
dư có thể có sự không ăn khớp tùy theo quan hệ mua bán, trao đổi trên thị
trường.
Hai là, trong quá trình cạnh tranh giữa các ngành sản xuất sự tự do
di chuyển tư bản từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất
lợi nhuận cao dẫn đến xu hướng san bằng tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành,
hình thành nên lợi nhuận bình quân. Đó là lợi nhuận mà tư bản thu được
căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận chung và lượng tư bản đầu tư của ngành. Căn
cứ vào lợi nhuận bình quân các nhà sản xuất bá hàng hóa theo giá cả sản
xuất. Đó là giá cả căn cứ vào chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình
quân. Về lý thuyết, giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị của nó. Nhưng trong
thực tế tự do cạnh tranh kinh tế, giá cả hàng hóa trên thị trường xoay quanh
giá cả sản xuất. Sự hình thành lợi nhuận bình quân với giá cả sản xuất phản
ánh sự phân chia lại giá trị thặng dư và giá trị hàng hóa giữa các ngành đảm
bảo sự bình đẳng trong đầu tư giữa các ngành sản xuất.
Ba là, căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và lượng tư bản đầu tư,
các nhà kinh doanh nhận được lợi nhuận bình quân. Nếu lượng tư bản bỏ
vào kinh doanh là của chủ kinh doanh thì toàn bộ số lợi nhuận đó thuộc về
anh ta. Song, nếu kinh doanh là người phải đi vay vốn để kinh doanh thì lợi
nhuận đó phải được chia thành hai phần, một phần là trả lãi cho người có
vốn cho vay, phần còn lại là thu nhập của chủ kinh doanh.

19


Đối với, các nhà tư bản kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, họ
cũng phải nhận được phần lợi nhuận bình quân, song người có đất cho thuê
phải nhận được địa tô. Về bản chất, địa tô là phần lợi nhuận siêu ngạch
vượt ra ngoài lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp
phải trả cho địa chủ để được quyền thuê ruộng đất để canh tác. C.Mác đã lý

giải bản chất và nguyên nhân lợi nhuận siêu ngạch hình thành nên địa tô tư
bản chủ nghĩa, mà vấn đề then chốt là do đặc điểm khác nhau giữa thời
gian lao động xã hội cần thiết trong nông nghiệp khác với trong công
nghiệp.
Có thể nói rằng, việc phân tích của Mác về cơ cấu chuyển hoá giá trị
thặng dư thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá thành giá cả sản
xuất trong điều kiện tự do cạnh tranh, cũng như sự phân chia lợi nhuận giữa
các chủ sở hữu khác nhau điều có ý nghĩa "khoa học cách mạng". Từ đó
cho thấy, C.Mác đã giải quyết được nhiều vấn đề mà các nhà kinh học
trước ông không vượt qua được như lợi nhuận bình quân, địa tô tuyệt đối.
2.1.7. Lý thưyết tái sản xuất xã hội tư bản
Một trong những cống hiến quan trọng của C.Mác là đã nghiên cứu
quá trình tái sản xuất xã hội tư bản và chỉ ra quy luật chi phối sự vận động
của nền kinh tế trong quá trình tái sản xuất đó. Để nghiên cứu tái sản xuất
của tư bản xã hội, C.Mác đã đề ra năm giả định sau đây:
2.2. Ý nghĩa của học thuyết kinh tế Mác:
Từ chỗ phê phán chủ nghĩa C.Mác, từ đó họ lớn tiếng đòi Đảng ta
"phải từ bỏ học thuyết C.Mác trước khi còn chưa muộn" rằng Đảng cộng
sản Việt Nam hơn ai hết và trước hết nên thẳng thắng những sai lầm của
Đảng, dũng cảm làm cuộc đổi mới chính trị toàn diện và triệt để.
Ở thái độ chính trị của họ rất rõ ràng, Những ai lên tiếng bảo vệ chủ
nghĩa Mác bị họ chụp cho cái mũ "giáo điều, bảo thủ", lãnh đạo uốn nắn la
ầm lên rằng đàn áp những người chính kiến...

20


* Những người bài bác chủ nghĩa Mác – Lênin thường cố tình phủ
nhận tính khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, cố chứng minh rằng
C.Mác không phải là nhà khoa học.

Họ nói dựng đứng rằng: chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ ý thức hệ
hư ảo, một thứ nói dối có ý thức, những võ kịch giả hình, chứa đầy tính
chất huyễn tưởng. Còn V.I.Lênin làm tăng sự huyễn tưởng của C.Mác,
rằng: C.Mác – Lênin là nhà xã hội học duy tâm siêu hình và không tưởng;
chủ nghĩa Mác – Lênin là ảo tưởng, giả tưởng... Đây rõ ràng là một luận
điệu xuyên tạc Mác – Ăngghen – Lênin rất trắng trơn. Có lẽ từ trước đến
nay chưa ai dám ngạo mạn đến thế, nói liều đến như vậy, ngay cả những
người chống C.Mác và V.I.Lênin điên cuồng nhất người ta có thể chê Mác
ở điểm này hay điểm kia hay có thể căm thù Mác, chống C.Mác đến quyết
liệt vì C.Mác tuyên chiến với chế độ tư bản và bênh vực giai cấp cần lao
nhưng tuyệt nhiện không ai có thể phủ nhận được Mác – Ăngghen là
những nhà khoa học.
Trong thực tế chúng ta thấy rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin thật sự là
những nhà khoa học vĩ đại và thiên tài, là những "bộ óc kỳ diệu" của nhân
loại. Toàn bộ học thuyết của Ông là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa
học rất nghiêm túc, là những công trình khoa học đồ sộ, giải đáp được
nhiều vấn đề mà nhân loại đặt ra. Kế thừa những trào lưu tư tưởng tốt đẹp
nhất của loài người đến thế kỷ XIX (Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị
cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp) và tổng kết thực tiễn
trong thời đại của mình, C.Mác cùng Ăngghen đã sáng tạo ra một học
thuyết hoàn chỉnh, chặt chẽ và chính xác, trong đó tính chất khoa học rất
cao, thống nhất với tinh thần cách mạng triệt để.

21


Chương III
GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ TÍNH CÁCH MẠNG CỦA
HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY

3.1. vận dụng học thuyết kinh tế Mác vào nền kinh tế Việt Nam
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường và vai trò lãnh đạo của Đảng:
"C.Mác là một trong những người đầu tiên nhìn thấy khả năng thế
giới trở thành một thị trường toàn cầu không bị hạn chế bởi các đường biên
giới quốc gia"
Có thể nói, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở những điểm sau đây:
Về chế độ sở hữu: Dưới chủ nghĩa tư bản nền tảng là sở hữu tư
nhân.Trong khi đó, ở nước ta hiện nay thực hiện đa dạng hóa các hình thức
sở hữu, nhưng trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ
yếu.
Về các thành phần kinh tế: Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản có nhiều
thành phần (có cả kinh tế quốc doanh, liên doanh, chủ nghĩa tư bản nhà
nước...) nhưng do nhà nước tư sản quản lý và do tư bản tư nhân chi phối.
Còn đối với nước ta hiện nay, cũng có nhiều thành phần, nhưng do nhà
nước xã hội chủ nghĩa - tức là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân quản lý, và do kinh tế nhà nước và tập thể ngày càng đòng vai trò nền tảng,
chi phối.
Về chế độ quản lý: Dưới chủ nghĩa tư bản, thị trường tự phát, tự do
cạnh tranh; nhà nước tư sản tuy cũng có điều tiết nhưng không phải là kinh
tế cơ bản. Đối với nước ta hiện nay, một mặt khuyến khích và tạo điều kiện

22


phát huy tác dụng cả cơ chế thị trường, nhưng mặt khác cần có sự can thiệp
mạnh mẽ và tích cực (bằng kế hoạch, chính sách, luật pháp, sức mạnh kinh
tế...) của nhà nước để điều tiết, hướng dẫn, hạn những mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường.
Về chế độ phân phối: Dưới chủ nghĩa tư bản chủ yếu phân phối theo

tư bản, phục vụ lợi ích của các nhà tư bản ở nước ta hiện nay, áp dụng
nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu; vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc
lợi xã hội cơ bản.
Về chính sách xã hội: chủ nghĩa tư bản ra đời bằng tước đoạt, tích
lũy ban đầu bằng cướp bóc, do đó nó "thấm đầy máu và nước mắt đến tận
lỗ chân lông của nó". Ngày nay, các nước tư bản đi sau có điều chỉnh ít
nhiều, do bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể điều hòa mâu thuẫn
cơ bản, không thể tránh khỏi sự bóc lột tàn tệ người lao động, cũng như sự
phân cực giàu nghèo, sự bất công, bất bình đẳng ghê gớm. Còn ở nước ta
hiện nay, phát triển kinh tế thị trường nhưng phải hạn chế bóc lột; tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích
làm giàu hợp pháp gắn với xóa đói, giảm nghèo; ngay từ đầu, khi kinh tế
phát triển chưa cao, đã phải chăm lo chính sách xã hội, giữ gìn và bản sắc
văn hóa dân tộc.
Tóm lại, chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng
không để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải lãnh đạo,
hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích
của đại đa số nhân dân lao động, vì một xã hội công bằng văn minh. Người
có khả năng và điều kiện làm việc đó không ai khác ngoài Đảng Cộng sản là Đảng phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thật sự và bảo vệ lợi ích
của công nhân và nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng nhân tố quyết
định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường,
cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước ta.
23


3.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin sức sống và ý nghĩa thời đại:
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, chúng ta đã chứng kiến những biến
đổi sâu sắc trên thế giới về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ
thuật trong đó có nhiều chấn động bất ngờ nhiều sự kiện biến hóa khôn

lường, đầy kịch tính. Các nước tư bản chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng
phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa tạm thời thoái trào. Giai đọan mới đặt
ra nhiều vấn đề mới đối với lý luận cách mạng. Trong bối cảnh quốc tế
phức tạp và tình hình trong nước hiện nay, Đảng ta tiếp tục tỏ rõ sự trung
thành của mình đối với chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng xã hội chủ
nghĩa. Trong cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đã khẳng
định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động"
Đảng cũng đồng thời đề ra nhiệm vụ phải bảo vệ, phát triển vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin mặt dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đỗ, khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái
trào, Đảng ta vẫn khẳng định "loài người vẫn đang trong thời đại quá độ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội"
Sự phát triển của khoa học kỷ thuật và những biến đổi xã hội diễn ra
cực kỳ nhanh chóng trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Thời đại
chúng ta rất khác nhiều so với thời đại của Mác và Ăngghen sống. Chính
đây là "căn cứ" mà những người phê phán Mác thường viện dẫn ra để phủ
nhận ý nghĩa của học thuyết Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời trong thời đại máy hơi nước, thời
đại cách mạng khoa học và công nghệ, thời đại điện tử và tin học, thời đại
toàn cầu hóa. Tuy nhiên, cũng có thể nói cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ diễn ra một cách toàn diện, tăng tốc với những công nghệ cao (vật
liệu mới, sinh học, thông tin, vũ trụ...) càng khẳng định nguyên lý maxít về
sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản.

24


Chủ nghĩa tư bản sử dụng được những thành tựu của cách mạng
khoa học công nghệ, do tự điều chỉnh để thích ứng được với thời đại nên đã

mang một số đặc điểm mới. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã khác rất xa so với
chủ nghĩa tư bản cổ điển ở thế kỷ XIX. Trong quá trình phát triển, chủ
nghĩa tư bản hiện đại đã đem lại những thành tựu to lớn cho nhân loại,
nhưng đồng thời cũng đưa lại biết bao nhiêu tai họa cho loài người. Chủ
nghĩa tư bản mặc dù lỗi thời, song vẫn còn khả năng phát triển, nhất là về
kinh tế.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, lực lượng sản xuất mang tính chất
xã hội hóa cao độ, áp dụng rộng rãi kỷ thuật tự động hóa với những phương
tiện hiện đại như máy tính điện tử, trí tuệ nhân tạo, rôbốt, internet... có sự
thay đổi hình thức của quan hệ sản xuất cả về sở hữu, quản lý và phân phối;
sự biến đổi các hình thứcdân chủ; việc áp dụng chính sách xã hội; sự phát
triển các tầng lớp trung lưu; sự xuất hiện nền kinh tế tri thức; sự thay đổi
của giai cấp công nhân về số lượng, chất lượng, mức sống, học vấn, trình
độ kỹ thuật và cơ cấu nghề nghiệp...
Song, những thay đổi đó vẫn không làm mất đi bản chất của chủ
nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ xã hội dựa trên sự áp bức, thống trị
và bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp tư sản đối với nhân dân lao động.
Chừng nào chủ nghĩa tư bản cùng với những mâu thuẩn cơ bản và những
quy luật khách quan vốn có của nó còn tồn tại thì chừng đó chủ nghĩa Mác
– Lênin – lý luận về giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động vẫn còn giá trị nhận thức và giá trị thực tiễn trực tiếp to lớn.
Tuy nhiên, sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện nay
không có nghĩa nó còn là một xã hội tiến bộ, mà nó đang nằm trong vòng
khâu của sự phủ định biện chứng để đưa nó đến sự diệt vong, tuy quá trình
đó diễn ra rất lâu dài.
Trong khi tồn tại và phát triển, bất chấp ý muốn chủ quan của các
nhà tư sản, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một cách khách quan những tiền đề
25



×