A. MỞ ĐẦU
Mua bán hàng hóa ra đời cũng mở ra nhiều cơ chế mới, có thể nói đến
quảng cáo. Quảng cáo đã bắt đầu có từ khi những người bán hàng rao hàng
nhằm thu hút khách mua hàng của mình.
Trong xã hội ngày nay, khi vấn đề cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
ngày càng gay gắt thì yêu cầu đặt ra đối với thương nhân là không chỉ phải tạo
ra mặt hàng mới, có hiệu quả, năng suất cao mà còn phải đưa hàng hóa, dịch vụ
của mình đến với mọi người một cách nhanh chóng, vì vậy quảng cáo là sự lựa
chọn đầu tiên.
Tuy nhiên, hàng hóa, dịch vụ nào được quảng cáo, ai là chủ thể quảng cáo
và các hành vi nào bị cấm quảng cáo thì cần phải có pháp luật can thiệp để điều
chỉnh một cách chặt chẽ. Từ nhu cầu thiết yếu đó, đáp ứng sự cạnh tranh mà
không tiêu cực thì pháp luật nước ta đã cho ra đời Luật quảng cáo, ngày nay luật
quảng cáo 2012 là luật đang có hiệu lực. Bên cạnh đó, quy định về dịch vụ
quảng cáo còn được ghi nhận trong Luật thương mại 2005 của pháp luật nước ta.
Trong bài viết này, tôi xin đưa ra sự phân tích của bản thân về quảng cáo
thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trong quá trình nghiên cứu còn
nhiều thiếu sót kinh mong thầy cô bỏ qua!
1
B. NỘI DUNG
I. Hệ thống lý luận chung
Quảng cáo là một trong những hoạt động của xúc tiến thương mại, bên
cạnh khuyến mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại
thì quảng cáo có một chức năng quan trọng, là sự lựa chọn đầy tiền năng cho các
chủ thể nếu muốn xúc tiến thương mại.
Vậy, xúc tiến thương mại là “hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo
thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm
thương mại.” (theo khoản 10 Điều 3 Luật thương mại 2005).
Có thể thấy rằng, xúc tiến thương mại là hoạt động kinh doanh, theo đó
thương nhân thực hiện một hoặc một số hành vi nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội
thương mại cho thương nhân khác để kiếm lời.
Xúc tiến thương mại là một hoạt động, và khi nào thì thương nhân sử dụng
hoạt động đấy, đó là khi họ muốn tìm kiếm những cơ hội để làm nổi bật tên tuổi
hàng hóa, dịch vụ, để sản phẩm, dịch vụ đến gần hơn với người tiêu dùng, tạo ra
khả năng cao.
Đặc điểm của xúc tiến thương mại:
Thứ nhất, về chủ thể, trong hoạt động xúc tiến thương mại chủ thể là
thương nhân, là những cá nhân, tổ chức kinh tế thành lập hợp pháp thực hiện
hành vi thương mại một cách độc lập, mang danh nghĩa chính mình, mang tính
nghề nghiệp thường xuyên, mang lại thu nhập cho chính mình… Nói chủ thể là
thương nhân thì có hai loại, một là thương nhân tự mình thực hiện hoạt động xúc
tiến thương mại, hai là thương nhân thuê một thương nhân khác thực hiện cho
mình (hay còn gọi là chủ thể kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại). Và trong
bài viết này, tôi sẽ nghiên cứu về chủ thể là thương nhân thuộc loại hai.
Thứ hai, về tính chất, xúc tiến thương mại thực chất là một hoạt động
thương mại, là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi.
Thứ ba, về cách thức thực hiện, có hai cách thức tương ứng với hai loại chủ
thể nói trên, một là thương nhân tự mình thức hiện hoạt động xúc tiến, hai là
thuê thương nhân khác thực hiện.
Thứ tư, về mục đích, tùy vào loại chủ thể mà mục đích khác nhau, nếu
thương nhân tự mình thực hiện thì tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá
2
cung ứng dịch vụ. Còn nếu là thương nhân kinh doanh hoạt động xúc tiến
thương mại thì mục đích là lợi nhuận.
Như vậy, quảng cáo là một bộ phận của xúc tiến thương mại, mang những
đặc điểm của hoạt động xúc tiến thương mại.
Quảng cáo trên thế giới có lịch sử từ khá lâu đời, tính từ cuối thế kỷ XIX
tới nay đã trả qua năm giai đoạn, gắn liến với sự ra đời của các chiến lược quảng
cáo. Ở Việt Nam, theo ghi chép trong các tài liệu thì quảng cáo xuất hiện khi xã
hội có nhu cầu mua và bán. Phương thức hoạt động quảng cáo sơ khai nhất ở
nước ta chính là các lời rao hàng của những người bán hàng rong trên phố.
Còn hoạt động quảng cáo ở báo chí có lẽ xuất hiện sớm nhất trên 2 tờ báo xuất
bản ở Nam Kỳ là tờ Gia Định báo & tờ Nông Cổ mín đàm từ cuối thế kỷ 19.
Một thời gian sau đó, khi nhu cầu ngày một mở rộng cũng như sự phát triển của
khoa học kỹ thuật thì quảng cáo quyền hình cũng phát triển mạnh mẽ. Vậy,
quảng cáo là gì?
Theo Điều 102 Luật thương mại 2005 thì quảng cáo là “hoạt động xúc tiến
thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng, về hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”
Trong khái niệm này, mới chỉ đề cập đến chủ thể là thương nhân tự mình
thực hiện hoạt động quảng cáo, chứ chưa bao quát được cả loại chủ thể kinh
doanh dịch vụ xúc tiến thương mại, chưa thể hiện được bản chất của dịch vụ xúc
tiến thương mại.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật quảng cáo 2012 thì quảng cáo “là việc sử dụng
các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá
nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự;
chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Khái niệm quảng cáo trong luật quảng
cáo này nghiêng về phía đối tượng quảng cáo hơn là chủ thể như khái niệm trên.
Dù có hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì quảng cáo là mong muốn giới
thiệu đến công chúng hàng hóa, dịch vụ, tức là đưa sản phẩm của mình đến với
nhiều người hơn, phạm vi rộng hơn và khả năng kinh doanh cao hơn. Vấn đề
nghiên cứu của bài này xoay quanh quảng cáo các sản phẩm, hàng hóa, nhằm
mục đích sinh lợi.
3
II. Nội dung của pháp luật quy định về quảng cáo thương mại
1. Đặc điểm của quảng cáo thương mại
Vì là một trong những hoạt động của xúc tiến thương mại nên quảng cáo có
những đặc điểm của xúc tiến thương mại, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, quảng cáo thương mại bao gồm hai chủ thể, một là
thương nhân trực tiếp thực hiện quảng cáo cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Hai
là, thương nhân chuyên kinh doanh hoạt động xúc tiến thương mại.
Thứ hai, về cách thức, quảng cáo thương mại sử dụng sản phẩm kết hợp
với phương tiện quảng cáo thương mại để thông tin về hàng hóa, dịch vụ đến
khách hàng.
Thứ ba, về mục đích, tương tự như xúc tiến thương mại, với mỗi chủ thể lại
có một mục đích riêng. Đối với thương nhân trực tiếp thực hiện thì mục đích là
tìm kiếm cơ hội, thời cơ kinh doanh tốt, còn đối với thương nhân kinh doanh
hoạt động xúc tiến thương mại là vì lợi nhuận.
2. Đối tượng của quảng cáo.
Quảng cáo áp dụng đối với hàng hóa và dịch vụ, để đưa sản phẩm của mình
đến với mọi người, với công chúng thương nhân cần sử dụng quảng cáo. Tuy
nhiên, để thực hiện chính sách của nhà nước, mọi hàng hóa, dịch vụ đều được
phép thực hiện hoạt động quảng cáo, trừ những trường hợp quy định tại Điều 7:
Sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo của Luật quảng cáo 2012, bao gồm
các đối tượng sau:
Một là, hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Ví
dụ như vũ khí, thuốc nổ, dịch vụ mại dâm…
Hai là, thuốc lá. Đây là một sản phẩm phổ biến trên thị trường, được buôn
bán rộng rãi và sử dụng thường xuyên. Mặc dù ai cũng biết thuốc lá là có hại
cho sức khỏe, nhưng việc bán và mua vẫn diễn ra hết sức bình thường. Cấm
quảng cáo thuốc là phần nào cũng để ngăn chặn sự ảnh hưởng ấy, tuy nhiên dù
có quảng cáo hay không các loại thuốc lá vẫn được biết đến một cách nhanh
chóng và ít người sử dụng có thể bỏ được.
Ba là, rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên. Rượu là một chất kích thích,
khi sử dụng quá nhiều, con người sẽ không làm chủ được hành vi gây ra những
hậu quả xấu. Rượu có nồng độ là 15 độ trở lên là rượu mạnh, việc cấm quảng
4
cáo sản phẩm này là hoàn toàn hợp lý, nhằm hạn chế sự phổ biến của rượu đến
mọi người.
Bốn là, Sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản
phẩm dinh dưỡng bổ sung dùng cho trẻ dưới 06 tháng tuổi; bình bú và vú ngậm
nhân tạo. Đối với những trẻ em dưới 06 tháng tuổi, thức ăn duy nhất là sữa mẹ,
sữa mẹ đã đủ cung cấp cho trẻ những chất dinh dưỡng cần thiết, nếu quảng cáo
các loại sản phẩm thay thế sữa mẹ, nhiều người biết đến và sử dụng có thể sẽ
gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ. Việc cấm đối
tượng này là để bảo vệ sức khỏe cho trẻ em.
Năm là, Thuốc kê đơn; thuốc không kê đơn nhưng được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khuyến cáo hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của
thầy thuốc. Điều này là dễ hiểu bởi những loại thuốc kê đơn, tùy vào đối tượng,
loại bệnh, tình trạng bệnh mà uống với những đơn thuốc khác nhau, nếu cứ
quảng cáo loại thuốc đó mà sử dụng bừa bãi thì không những không chữa được
bệnh, còn gây ra tác dụng xấu. Đối với những thuốc không kê đơn nhưng bị hạn
chế sử dụng hoặc cần có sự giám sát của thầy thuốc thì cũng tương tự như vậy,
quảng cáo mà người sử dụng không thông qua khám chữa, không có sự theo dõi
thì có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sức khẻ, thậm chí là mất mạng.
Sáu là, các sản phẩm, hàng hóa có tính chất kích dục. Đây là đối tượng cấm
bán trên thị trường nên sẽ không được phép quảng cáo. Hơn thế nữa, hàng hóa
có tính chất kích dục làm cho con người bị mất khả năng làm chủ hành vi của
mình, điều hướng suy nghĩ của con người ta theo một hướng khác, gây ra những
hậu quả rất nghiêm trọng.
Bảy là, Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao và các loại sản phẩm,
hàng hóa có tính chất kích động bạo lực.
Tám là, Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo khác do Chính
phủ quy định khi có phát sinh trên thực tế.
Như vậy, nếu hàng hóa, dịch vụ không thuộc các trường hơp nêu trên sẽ
được quảng cáo.
3. Sản phẩm quảng cáo và phương tiện quảng cáo.
3.1. Sản phẩm quảng cáo
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật quảng cáo 2012, sản phẩm quảng
cáo “bao gồm nội dung và hình thức quảng cáo được thể hiện bằng hình ảnh,
5
âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng và các hình thức
tương tự.”
Khái niệm trên cho rằng, sản phẩm quảng cáo phải bao gồm cả nội dung và
hình thức thể hiện sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đó. Hay nói cách khác trong quy
định Điều 105 Luật thương mại 2005 sản phẩm quảng cáo bao gồm thông tin
bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc,
ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo.
Ví dụ như khi quảng cáo loại trà thảo mộc Dr.Thanh, sản phẩm quảng cáo
bao gồm: Hình ảnh của chai nước đựng trà có màu đỏ, với dáng chai thon thon ở
phía dưới; nước trà có màu nâu, câu slogan là: “trà thảo mộc Dr.Thanh thanh
lọc cơ thể, không lo bị nóng”… ngoài ra còn nhiều dấu hiệu khác.
6
3.2. Phương tiện quảng cáo
Theo quy định tại Điều 106 Luật thương mại 2005, phương tiện quảng cáo
thương mại là “công cụ được sử dụng để giới thiệu các sản phẩm quảng cáo
thương mại”
Bao gồm các loại công cụ sau:
Một là, các phương tiện thông tin đại chúng. Là các phương tiện được sử
dụng để truyền đạt thông tin một cách đại chúng, rộng rãi. Ví dụ như báo in, tạp
chí, phát thanh, truyền hình, sách, internet…
Hai là, các phương tiện truyền tin. Ví dụ như điện thoại, email, fax…
Ba là, các loại xuất bản phẩm. Ví dụ như quảng cáo qua báo chí, tạp chí,
bài viết…
Bốn là, các loại bảng, biển, băng, pa-nô, áp-phích, vật thể cố định, các
phương tiện giao thông hoặc các vật thể di động khác. Ví dụ như khi lưu thông
trên đường, ta sẽ thường bắt gặp ở hai bên xe bus có dán các pa-nô hình ảnh một
loại hàng hóa, dịch vụ nào đó để quảng cáo loại sản phẩm đó.
Năm là, các phương tiện quảng cáo thương mại khác.
Ngoài ra, phương tiện quảng cáo còn bao gồm: Trang thông tin điện tử,
thiết bị điện tử, thiết bị đầu cuối và các thiết bị viễn thông khác; các sản phẩm
in, bản ghi âm, ghi hình và các thiết bị công nghệ khác, bảng quảng cáo, băngrôn, biển hiệu, hộp đèn, màn hình chuyên quảng cáo; hội chợ, hội thảo, hội nghị,
tổ chức sự kiện, triển lãm, chương trình văn hoá, thể thao; người chuyển tải sản
phẩm quảng cáo; vật thể quảng cáo (Điều 17 Luật quảng cáo 2012).
Để thực hiện được quảng cáo, chủ thể phải tiến hành lựa chọn sản phẩm và
phương tiện phù hợp với sản phẩm của mình nhất, giúp cho sản phẩm đến được
với mọi người một cách nhanh, dễ hiểu, dễ tiếp cận.
7
4. Chủ thể quảng cáo thương mại
Tùy vào mục đích, cách thức quảng cáo khác nhau mà có các chủ thể khác
nhau.
Thứ nhất, người quảng cáo (thương nhân tự mình thực hiện), họ có quyền
tự quảng cáo cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình nhằm mục đích là giới
thiệu hàng hóa, dịch vụ và từ đó tìm kiếm được cơ hội nâng cao khả năng kinh
doanh, buôn bán, được người tiêu dùng biết đến rộng rãi. Quyền năng này hoàn
toàn là hợp lý, bởi pháp luật nước ta cho phép tự do kinh doanh các loại ngành
nghề mà pháp luật không cấm, vì vậy thương nhân tiếp tục có quyền giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ của mình thông qua hình thức quảng cáo, và quyền đăng ký
bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sản phẩm quảng cáo thương mại.
Thứ hai, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Như sự phân tích từ
đầu đến giờ, dịch vụ quảng cáo là một loại dịch vụ thương mại và pháp luật cho
phép được khai thác để kinh doanh. Khi thương nhân là chủ thể hoạt động kinh
doanh dịch vụ quảng cáo thì mục đích cuối cùng mà họ mong muốn đạt được là
lợi nhuận, thu nhập cho mình. Để trở thành chủ thể kinh doanh này thương nhân
phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Người
kinh doanh dịch vụ quảng cáo có các quyền sau: Quyết định hình thức và
phương thức kinh doanh dịch vụ quảng cáo; được người quảng cáo cung cấp
thông tin trung thực, chính xác về tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
được quảng cáo và các tài liệu liên quan đến điều kiện quảng cáo; tham gia ý
kiến trong quá trình xây dựng quy hoạch quảng cáo của địa phương và được cơ
quan có thẩm quyền về quảng cáo của địa phương thông tin về quy hoạch quảng
cáo ngoài trời; yêu cầu thẩm định sản phẩm quảng cáo. Bên cạnh đó, họ cũng
phải thực hiện những nghĩa vụ cụ thể theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, người cho thuê phương tiện quảng cáo là tổ chức, cá nhân sở hữu
phương tiện quảng cáo. Mục đích của họ là thu phí từ việc cho thuê phương tiện
quảng cáo
Thứ tư, người phát hành quảng cáo là người nắm giữ các phương tiện
quảng cáo, có khả năng đưa sản phẩm quảng cáo đến với người tiêu dùng. Ví dụ
như các cơ quan báo chí, truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản…Người phát
8
hành quảng cáo đưa sản phẩm quảng cáo lên phương tiện quảng cáo của mình
với mục đích là thu phí từ công việc đó.
5. Quảng cáo thương mại bị cấm
Các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm theo quy định tại Điều 109
Luật thương mại 2005 nhằm mục đích thực hiện theo những chính sách của nhà
nước, nhằm đảm bảo giữ gìn trật tự xã hội và ổn định đời sống của người dân.
Theo đó, các quảng cáo bị cấm là, quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước,
phương hại đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội;
các quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với
truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và trái với
quy định pháp luật; quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà nhà nước cấm hoặc hạn chế
kinh doanh, quảng cáo; quảng cáo thuốc lá, rượu có nồng độ cồn từ 30 độ trở
lên; lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước; so sánh
hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình với người khác để
quảng cáo; quảng cáo sai sự thật về hàng hóa, dịch vụ như số lượng, giá, công
dụng, chất lượng…; sử dụng các sản phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, sử dụng hình ảnh của cá nhân, tổ chức khác mà chưa được sự đồng ý; quảng
cáo vù mục đích cạnh tranh không lành mạnh.
6. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại
Nếu chủ thể là người quảng cáo tự mình thực hiện quảng cáo cho hàng hóa,
dịch vụ của mình thì họ chỉ phải xem xét các quy định của pháp luật, và thực
hiện quyền và nghĩa vụ theo luật quy định. Tuy nhiên, nếu có từ hai chủ thể trở
lên, các chủ thể sẽ kí kết hợp đồng dịch vụ quảng cáo.
Loại hợp đồng này phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác
có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và
các hình thức khác theo quy địng của pháp luật.
Nội dung hợp đồng cũng giống như các loại hợp đồng khác, có chủ thể, đối
tượng hợp đồng, thời gian, địa điểm, quyền và nghĩa vụ của các bên…
9
III. Đánh giá pháp luật quảng cáo thương mại
1. Đánh giá thực trạng quảng cáo thương mại hiện nay
Ngày nay, để tìm kiếm cơ hội kinh doanh, để thu lại lợi nhuận cho bản
thân, các thương nhân sử dụng dịch vụ quảng cáo rất nhiều, hơn nữa, quảng cáo
sản phẩm, hàng hóa còn vì mục đích cạnh tranh để tồn tại và phát triển trên thị
trường.
Ở Việt Nam, quảng cáo là phổ biến, không chỉ phổ biến ở việc rất nhiều đối
tượng áp dụng hình thức quảng cáo mà còn phổ biến trong bởi cách thức quảng
cáo. Khi xem ti vi, tham gia giao thông bằng các phương tiên như xe bus, hay
biển hiệu bên đường đều có sự hiện hữu của quảng cáo. Chúng ta đã rất quen
thuộc với hai chữ quảng cáo, tuy nhiên những vấn đề pháp luật quy định về
quảng cáo thì lại không có cái nhìn toàn diện.
Quảng cáo có một vai trò rất lớn, đặc biệt đối với các thương nhân, như đã
nói ở trên không chỉ giúp các thương nhân tìm kiếm cơ hội, mở rộng thị trường,
hoạt động buôn bán được mở rộng và uy tín, thương hiệu cũng được biết đến
rộng rãi hơn. Đối với các thương nhân kinh doanh hoạt động quảng cáo, lợi
nhuận là mục đích cuối cùng, tăng thu nhập, tăng khả năng kinh tế.
Tuy nhiên, xét về việc áp dụng và sự hiểu biết pháp luật thì còn một số
vương mắc và cần được hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, do điều chỉnh vấn đề quảng cáo còn cần rất nhều văn bản pháp
luật như luật thương mại, luật quảng cáo, các nghị định… nên việc áp dụng phải
được xem xét tổng thể. Tuy nhiên, vấn đề quảng cáo trong bài này là quảng cáo
thương mại, vậy cần phân biệt được quảng cáo với quảng cáo thương mại nhưng
nếu xem xét trong Luật quảng cáo thì có cả quảng cáo hàng hóa, dịch vụ không
vì mục đích sinh lợi… Vậy, cần một sự thống nhất về quảng cáo thương mại
trong Luật thương mại để tránh việc áp dụng gây nhiều khó khăn và việc tìm
kiếm văn bản được thống nhất. Bởi bản chất của quảng cáo thương mại là hoạt
động thương mại và cần được điều chỉnh bằng luật thương mại.
10
Thứ hai, xuất phát từ bản chất kinh tế của quảng cáo nên cần phân cấp rõ
thẩm quyền quản lý hoạt động quảng cáo thuộc về cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại, để đảm bảo tính minh bạch và công bằng.
11
C. KẾT LUẬN
Như vậy, quảng cáo trong hoạt động xúc tiến thương mại là một vấn đề rát
thiết thực và cần có sự hiểu biết nhất định để được sử dụng trong đời sống. Vai
trò của quảng cáo thương mại là không thể phủ nhận, nhưng để sử dụng hoạt
động này cần có sự hiểu biết pháp luật và đáp ứng được các điều kiện cơ bản
nhất. Quảng cáo nhìn xa và rộng hơn còn là một sự phát triển của xã hội, tiến
gần hơn đến công cuộc hiện đại hóa đất nước, giúp ổn định đời sống nhân dân,
kinh tế vững mạnh và xã hội phát triển.
12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
Luật Thương mại 2005
Luật Quảng cáo 2012
Nghị định 37/2006/NĐ-CP, quy định chi tiết luật Thương
mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
13
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.................................................................................1
B. NỘI DUNG.............................................................................2
I. Hệ thống lý luận chung...................................................2
II.
Nội dung của pháp luật quy định về quảng cáo
thương mại..............................................................................4
1. Đặc điểm của quảng cáo thương mại.........................4
2. Đối tượng của quảng cáo..............................................4
3. Sản phẩm quảng cáo và phương tiện quảng cáo.....6
4. Chủ thể quảng cáo thương mại...................................8
5. Quảng cáo thương mại bị cấm.....................................9
6. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại..................9
III. Đánh giá pháp luật quảng cáo thương mại.............10
1. Đánh giá thực trạng quảng cáo thương mại hiện
nay.......................................................................................10
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.................................10
C. KẾT LUẬN............................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................13
14