Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tiểu luận cao học tư tưởng triết học hy lạp la mã cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.05 KB, 13 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại, người ta sẽ nghĩ ngay đến
Đêmôcrít (460-370 tr.CN). Ông được mệnh danh là đại biểu xuất sắc nhất của
chủ nghĩa duy vật cổ đại. Hơn nữa, ông được sinh ra ở thành phố thương mại
lớn Áp - đe, vùng Tơ - ra - xơ, trong một gia đình giàu có. Vì thế, ông có điều
kiện du lịch nhiều vùng Đông Tây, biết nhiều văn hóa của các nước vùng Ai
Cập, Lưỡng Hà.
Ông là học trò giỏi của Lơ – xíp, Đêmôcrít đã phát triển, hoàn thiện học
thuyết nguyên tử. Mặc dù nguyên tử khi này chưa được mô tả bằng một tính
chất cụ thể nào. Đêmôcrít được người đương thời coi là bách khoa toàn thư đầu
tiên của thời cổ đại. Arítxtốt đã viết về ông như sau: “Ngoài Đêmôcrít ra, hầu
như chưa có ai nghiên cứu một cách cặn kẽ về một vấn đề gì, Đêmôcrít hầu như
đã suy nghĩ đến tất cả mọi cái”. Về sau, Nít se cũng đánh giá: “Trong tất cả các
hệ thống cổ đại, hệ thống của Đêmôcrít là lôgíc hơn cả”. Thông qua các tài liệu
gián tiếp, có thể biết rằng Đêmôcrít viết nhiều tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau như đạo đức, triết học, tâm lý, toán học, sinh học, vật lý, mỹ học,
ngôn ngữ, âm nhạc.
Trong tiểu luận này, tôi rất muốn sử dụng những kiến thức của mình để
nghiên cứu về Đêmôcrít – một triết gia, một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy
vật cổ đại. Trên thực tế, mặc dù, triết học duy vật biện chứng ngày nay đã phủ
biện nhiều quan điểm của Đêmôcrít trong nhận thức về thế giới quan, nhân sinh
quan. Tuy nhiên, rất nhiều ý kiến cho rằng, những nội hàm nhận thức của ông
vẫn tràn đầy giá trị nhân văn, hướng con người hiện đại tới những giá trị của
cuộc sống, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đáng chú ý, khi nghiên cứu về lịch sử triết học phương Tây, tôi cảm thấy
bị cuốn hút bởi quan điểm về con người, đạo đức, đặc biệt là những giá trị của
hạnh phúc của nhà triết học Đêmôcrít đã xây dựng. Thậm chí, bản thân tôi cho
rằng, không chỉ là đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại, nhiều


quan điểm về con người, đạo đức của ông còn vượt xa thời đại ông đang sống.
2


Trong khuôn khổ tiểu luận này, tôi rất muốn dùng những hiểu biết của
mình để nói về tư tưởng triết học của Đêmôcrít. Từ đó, nói về sự ảnh hưởng đến
đời sống văn hóa tinh thần trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, do đề tài rộng và
vốn hiểu biết của tôi có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
nhận được sự góp ý và hướng dẫn của các thầy, cô.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô!

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP - LA MÃ CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời của Triết học Hy Lạp cổ đại
1.1

Về tự nhiên

Hy Lạp cổ đại khác với Hy Lạp ngày nay về địa lý, nó chính là cái nôi của
nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm
miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans) thuộc Châu Âu, miền ven biển phía Tây
Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Êgiê. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc ,
Nam và Trung bộ. Điều kiện địa lý như vậy thuận lợi cho người Hy Lạp cổ phát
triển sớm về kinh tế xã hội.
Mặt khác, Hy lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có
một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa
dạng. Nơi này cũng sản sinh ra nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.

Hy Lạp cổ đại là thời kì lịch sử Hy Lạp bao trùm toàn bộ khu vực Địa
Trung Hải và biển Đen và kéo dài gần một nghìn năm, đến khi Kitô giáo xuất
hiện. Các nhà sử học coi nó là nền tảng văn hóa cho văn minh phương Tây. Văn
hóa Hy Lạp có ảnh hưởng rất lớn trong Đế chế La Mã, và ảnh hưởng này cũng
được truyền đi khắp các vùng trong châu Âu.
1.2

Về kinh tế

Chính vì nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả
nên kinh tế của Hy Lạp cổ đại rất phát triển. Đặc biệt, thế kỷ VIII – VI trước
công nguyên, thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt.
tại Hy Lạp cổ đại, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở
hữu tư nhân được cũng cố. Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ
công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII trước công nguyên là lực đẩy quan trọng cho
trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận.
1.3

Về chính trị - xã hội

Ăng-ghen đã nhận xét: “Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La
Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”. Điều đó có nghĩa là Hy Lạp cổ đại có
4


ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây
hiện đại.
Theo đó, xã hội của Hy Lạp cổ đại phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột
nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao
động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một

thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng
mạnh nhất, nòng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại. Hai thành phố này đã tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất
bại của thành Athen. Điều này khiến đất nước Hy Lạp cổ đại suy yếu nghiêm
trọng về kinh tế, chính trị và quân. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc
nỗi dậy của tầng lớp nô lệ.
2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Nhìn chung triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
- Khoa học tự nhiên và triết học gắn bó chặt chẽ với nhau, các nhà khoa
học tự nhiên đồng thời là các nhà triết học. Các khái quát triết học thường tập
trung hướng về các vấn đề tự nhiên.
Các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều có xu hướng đi sâu
vào giải quyết các vấn đề bản thể luận của triết học, bên cạnh đó, những tư
tưởng biện chứng với tư cách là nhưng tư tưởng triết hoc về sự phát triển mà
điển hình là những tư tưởng của Hêraclít đã trở thành nét khác biệt giữa triết học
Hy Lạp với nền triết học phương Đông cổ đại.
- So với các giai đoạn phát triển triết học ở các nước Tây Âu sau này thì
nền triết học Hy Lạp cổ đại nói chung còn ở trình độ trực quan, chất phác, đặc
biệt là đối với các hệ thống triết học duy vật biện chứng. Tuy vậy, nó đã đặt ra
hầu hết các vấn đề căn bản của triết học, bao chứa tất cả thế giới quan về sau.
- Nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, quan điểm vô thần và quan điểm hữu thần,
khoa học và tôn giáo.
Triết học Hy Lạp cổ đại đề cập đến hầu hết vấn đề triết học căn bản như
bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm chính trị, xã hội, nhà nước, luật
5


pháp…; chứa đựng tất cả mầm mống của các kiểu thế giới quan sau này như
quan điểm duy vật, duy tâm và nhị nguyên.

3. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu
Chủ nghĩa duy vật: Được hình thành từ trường phái Mi-lê, trường phái
Hêraclít, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái
Nguyên tử luận.
Chủ nghĩa duy tâm: Giai đoạn Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được
hình thành trong trường phái triết học Pi-ta-go trải qua trường phái duy lý Ê-lê
và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế
giới ý niệm.
Chủ nghĩa nhị nguyên: Theo quan điểm của Aristote.

6


CHƯƠNG II: TRIẾT GIA ĐÊMÔCRÍT
2.1. Về triết học – thuyết nguyên tử
Đêmôcrít là học trò của triết gia Lơxíp và đã cùng với Lơxíp tạo ra thuyết
nguyên tử (atomism); các học giả thời nay gọi đó là thuyết ‘nguyên tử thô sơ”.
Gia đình Đêmôcrít rất giàu có, ông đã đi du lịch ở nhiêu nước trên thế
giới. Những tư tưởng cổ đại truyền lại rằng Đêmôcrít đã đi du lịch đến phương
Đông. Đây cũng là nguồn cảm hứng để triết gia này hình thành nhiều quan điểm
triết học sâu sắc còn giá trị đến hiện nay.
Có tư liệu nói rằng ông tự hào tuyến bố rằng, ông đã đi qua nhiều vùng
đất rộng, so với bất kỳ ai cùng thời với ông, vì thế, ông đã nhìn thấy nhiều hơn
so với tất cả mọi người. Tương truyền rằng, ông cũng đã gặp Xôcrat, Anaxago,
những nhà Hiền triết nổi tiếng. Ông đã tiếp thu các tri thức triết học cũng như
các tri thức khoa học khác. Tuy nhiên, sau khi trở về, ông trở thành người nghèo
khổ vì tiên tán hết tiền.
Khác với Hêraclit được dân gian gọi là nhà “triết học hay khóc” thì
Đêmôcrít lại được người đời xưng tụng là “nhà triết học được cười”, vì khi ra
phố ông luôn luôn mỉm cười và cắt nghĩa giảng giải cho mọi người. Những tư

tưởng, quan điểm về triết học của ông đã được truyền bá rất rộng rãi, người
người dân vô cùng kính nể.
Theo quan niệm của ông, các sự vật do các nguyên tử liên kết với nhau
tạo nên. Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được nữa, hoàn toàn nhỏ
bé và không thể cảm nhận được bằng trực quan. Nguyên tử tồn tại vĩnh cửu,
không thay đổi, trong long nó không còn có cái gì khác. Nguyên tử chỉ khác
nhau về hình dạng, kích thước. Những tính chất khác như âm thanh, màu sắc,
mùi vị… không phải là bản chất của nguyên tử. Ông phỏng đoán động lực của
vận động nguyên tử là tự thân. Mặc dù vậy, ông vẫn chưa giải thích được một
cách cụ thể hơn nguồn gốc của vận động.
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp nêu lên từ trước. Nhưng phải đến
Đêmôcrít, học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành
7


từ hai thực thể đầu tiên: Nguyên tử và Chân không. Linh hồn của con người
cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Khi người ta chết, linh
hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác. Chân
không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đêmôcrít, chân không cũng cần
thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được.
Những phán đoán của Đêmôcrít về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế
(hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản
chất của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Đó là một đóng góp hết
sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học duy vật.
2.2. Quan điểm về lý luận nhận thức
Trong thời đại mà Đêmôcrít sống, ông đã có công đưa lý luận nhận thức
lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là Arixtốt, kể cả Platôn đã rất chú ý đến
nhận thức lý tính, đến lôgíc học.
Theo ông, nhận thức của con người bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác
động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội

dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái
vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Mọi nguyên tử
đều giống nhau về chất, bản thân chúng không có mùi vị, màu sắc, âm thanh và
không trông thấy được. Những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người.
Ông chia nhận thức làm hai dạng: Dạng nhận thức "mờ tối"(nhận thức
cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”. Dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng
tin cậy hơn. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là thế
giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra. Đó là ý tưởng độc nhất vô
nhị của Đêmôcrít.
Đêmôcrít còn có một công lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc
học. Ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm,
phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có
vị trí nổi bật.
2.3. Quan niệm về chính trị-xã hội
Theo Đêmôcrít, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản
nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu
8


giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác. Sự sống và
con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi
của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của
nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể
học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.
Ông đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh.
Ông đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Athen
chống lại chế độ chuyên chính. Ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô và công
dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ. Ông coi nhà nước là trụ cột
của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các
chuẩn mực đạo đức.

2.4. Quan điểm về đạo đức
Đêmôcrít được mọi người biết như là triết gia cười của cổ đại Hy Lạp vì
trong chủ thuyết của ông, ông đề cao giá trị của sự vui tươi. Theo Mục đích của
triết học là duy trì hạnh phúc, một cuộc sống thanh bình mà không có nỗi đau và
sự sợ hãi.
Ông được coi là triết gia cấp tiến trong thời kỳ ông đang sống vì những
quan điểm về đạo đức gắn liền với tri thức, hiểu biết. Ông cho rằng, càng hiểu
biết sâu rộng con người càng hạnh phúc chứ không phải của cải, tiền bạc nhiều
mới mang đến cho con người hạnh phúc.
Ông cho rằng niềm vui và nỗi đau là những thước đo của điều tốt và điều
xấu. Theo ông: “Hạnh phúc đó là tinh thần thoải mái, khỏe khoắn, sung túc, hài
hoà, cân đối và không giận dữ”; “Thái độ ôn hòa làm tăng niềm vui của cuộc
sống và làm cho nỗi vui mừng trở nên lớn hơn”; “Người khôn ngoan là người
không buồn rầu về cái không có, m à vui mừng với cái có”.
Trong quan hệ xã hội, ông đánh giá cao lòng nhân ái, tình bạn. Con người
không thể sống thiếu bạn bè, nhưng một người bạn thông minh vẫn tốt hơn
nhiều người bạn ngu đần, một người bạn chân chính đáng giá hơn ngàn người
bạn giả dối.
9


Triết lý đạo đức của ông xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự như
mẫu người quân tử trong triết học Nho giáo phương Đông. Hiền nhân không
màng danh lợi, không ham của cải, cảm nhận hạnh phúc nơi tâm hồn. Con
người hơn con vật ở “nguồn lực tâm hồn”. Démocrite đánh giá cao trung dung
và điều độ trong thái độ sống: “Hãy sử dụng mọi thứ vừa đủ”, “chớ vì khao
khát biết tất cả mà tỏ ra ngu dốt trước tất cả”. Nếu đạt được những điều ấy, con
người sẽ có khoái cảm tinh thần, sự tự do. Hình ảnh hiền nhân thể hịên một
triết lý sống của Démocrite vào thời điểm nền dân chủ đạt được những thành
quả nhất định tại Aten.

Triết lý đạo đức của ông xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự như
mẫu người quân tử trong triết học Nho giáo phương Đông. Hiền nhân không
màng danh lợi, không ham của cải, cảm nhận hạnh phúc nơi tâm hồn. Con
người hơn con vật ở “nguồn lực tâm hồn”. Hình ảnh hiền nhân thể hịên một
triết lý sống của ông vào thời điểm nền dân chủ đạt được những thành quả nhất
định tại Aten.
Con người thiện, theo ông, trước hết phải là con người sống có đức
hạnh. Để phân biệt Thiện - Ác, ông nêu ra những luận điểm như: “nhận ra
người trung thực và người không trung thực không nên chỉ căn cứ vào việc làm
của họ, mà tỏ tường cả ý muốn của họ”, hay “con người tốt không làm điều phi
nghĩa ngay cả trong ý nghĩ”;“chính trong bất hạnh ta cần trung thành hơn với
nghĩa vụ thiêng liêng”…
Đức đạt được không bằng cưỡng chế, mà bằng thuyết phục với những
chứng lý của trí tuệ, bằng giáo dục, học vấn. Giáo dục không dành cho tất cả,
cũng như sự cao thượng chỉ dành cho những ai biết và hướng đến nó. Giáo dục
thống nhất với học vấn. Giáo dục tốt nhất là giáo dục trong môi trường gia
đình, tấm gương tốt nhất là người cha.
Xét đến cùng, lý tưởng khoa học mà ông theo đuổi cũng là vì con
người, vì nhân loại. Bởi lẽ đó, hơn ai hết, ông là người vô cùng yêu thương
đồng loại. Đến Timon le Phlionte cũng phải thán phục: "Cái ông Đêmôcrít
thật là một người hiền".
10


KẾT LUẬN

Nghiên cứu tư tưởng triết học của Đêmôcrít tôi càng cảm thấy khâm phục
và ngưỡng mộ ông hơn. Thực tế, trải qua hang nghìn năm, con người trong xã
hội hiện đại vẫn cần thiết phải học hỏi, suy ngẫm tư tưởng triết học của ông.
Nghiên cứu triết gia Đêmôcrít, bản thân tôi cảm thấy mình cần phải tiếp

tục học hỏi những điều sau:
- Luôn trung thực. Đây là thái độ sống tích cực để có được lòng tin, sự
thân thiết và mến mộ của mọi người. Sống trung thực để mọi người tin tưởng,
tin yêu mình. Ở cương vị là một phóng viên, tôi cảm thấy điều này vô cùng quan
trọng. Trong mỗi tác phẩm báo chí, người làm báo phải trung thực nhất với độc
giả, với nhân vật, sự kiện, hiện thực khách quan và phải đánh giá sự vật, hiện
tượng theo khách quan và đúng bản chất nhất.
- Luôn mỉm cười. Điều này sẽ giúp tự bản thân mỗi người hạnh phúc.
Hạnh phúc đó là tinh thần thoải mái, khỏe khoắn, sung túc, hài hoà, cân đối và
không giận dữ. Thái độ ôn hòa còn làm tăng niềm vui của cuộc sống và làm cho
nỗi vui mừng trở nên lớn hơn. Người khôn ngoan là người không buồn rầu về
cái không có, mà vui mừng với cái có.
- Luôn cập nhật tri thức. Trước hết, xã hội muốn phát triển, con người
phải luôn trang bị, cập nhật tri thức. Không chỉ học hỏi qua nhà trường hay qua
sách vở mà có thể học hỏi ở khắp mọi nơi. Luôn nhận thức rằng, quá trình học
vấn phải trải qua thời gian rèn luyện mới đạt được kết quả như mong muốn để
nỗ lực không ngừng.
- Luôn lạc quan. Thái độ sống không lạc quan cũng dễ ảnh hưởng tới cộng
đồng xung quanh mà gần nhất là những người thân thuộc trong đời sống của mỗi
cá nhân. Bởi vậy, luôn cần có sự lạc quan trong cuộc sống để đối diện với mọi
vấn đề một cách sáng suốt nhất.
11


Thiết nghĩ, trong xã hội hiện đại, nếu chúng ta luôn biết cách mỉm cười,
lạc quan, sống trung thực và luôn cập nhật, không ngừng nâng cao tri thức vận
dụng tri thức, thì chắc chắn con đường đi đến thành công sẽ nhanh và bền chắc
hơn cả.

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Bùi Thị Thanh Hương – Nguyễn Văn Đại, Giáo trình Khái lược
lịch sử triết học, Khoa Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, NXB Chính
trị - Hành chính.
2. Bài giảng về lịch sử triết học phương Tây cổ đại của TS Bùi Thị
Thanh Hương và TS Nguyễn Đình Cường, Khoa Triết học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
3. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập, tập 40. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1999. Phiên bản điện tử:
4. Démocrite, Nguyễn Văn Khoa dịch, NXB Tri Thức, 2006.
5. Bách khoa toàn thư của Hy Lạp cổ đại, Đỗ Khánh Hoan dịch, NXB
Thế giới, 2013.

13



×