Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận cao học quan hê quốc tế đường lối cải cách kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.59 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Ba mươi năm qua, thực sự là một bước nhảy vọt trong lịch sử lâu dài
của Trung Quốc cũng như trong lịch sử 60 năm của nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa. Công cuộc cải cách và hiện đại hóa đất nước đã thu được những
thành tựu rất to lớn trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, đối ngoại - những kỳ tích đáng tự hào và được thế giới khâm phục.
Trong bối cảnh phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào thoái trào
sau biến động ở Liên Xô và Đông Âu, thành công bước đầu của công cuộc
cải cách và hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc có một ý nghĩa lịch
sử sâu xa.
Tuy nhiên, 30 năm mới là khoảng nửa chặng đường của công cuộc cải
cách, hiện đại hóa. Trung Quốc còn đứng trước nhiều vấn đề và khó khăn
vốn có trong tầng sâu kinh tế - xã hội cũng như trong quá trình cải cách, hiện
đại hóa; còn phải vượt qua những thách thức trong cạnh tranh quốc tế.
Nhưng có thể khẳng định rằng, con đường tiến tới một cường quốc hiện đại
hóa của Trung Quốc đã mở.
“Đường lối tư tưởng” của Đảng Cộng sản Trung Quốc khi chuyển
sang cải cách mở cửa là “Giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”; về sau bổ
sung “Tiến cùng thời đại”. “Giải phóng tư tưởng” có nghĩa là phải thoát khỏi
những giáo điều sai trái, hoặc không còn phù hợp. “Thực sự cầu thị” là phải
nhìn thẳng vào thực tế khi đề xuất lý luận, hoạch định và kiểm nghiệm
đường lối chính sách. “Tiến cùng thời đại” là giải quyết các vấn đề của
Trung Quốc phù hợp với trào lưu thời đại, nhìn ra thế giới, hướng tới tương
lai. Với phương châm chỉ đạo đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận thức
lại chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và thực tế xã hội Trung Quốc,

1


đánh giá xu thế phát triển của thế giới, từ đó đưa những lý luận, đường lối,
chủ trương, chính sách cải cách, mở cửa, hiện đại hóa đất nước.


Theo từ điển tiếng Việt khái niệm rằng:
Đường lối: Là phương hướng cơ bản có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài các
hoạt động của nhà nước hay một tổ chức chính trị.
Cải cách: Sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý bằng những bộ
phận mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan.
Kinh tế: Là tổng thể nói chung những hoạt động của con người nhằm
thỏa mãn nhu cầu vật chất.
Chính trị: Những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập
đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước.
Đường lối cải cách thể chế kinh tế, thể chế chính trị: Là phương
hướng cơ bản có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài của một nhà nước hay tổ chức chính
trị, nhằm sửa đổi những qui định, luật lệ về hoạt động kinh tế và hoạt động
chính trị của quốc gia đó, để đáp ứng nhu cầu khách quan.
Năm 1992 với sự kiện quan trọng là Đại hội XIV Đảng cộng sản
Trung Quốc là một năm then chốt cho công cuộc cải cách đất nước này. Đại
hội đã bầu ra một thế hệ mới các nhà lãnh đạo, tổng kết những kinh nghiệm
đạt được trong 14 năm trước đó và đặt ra mục tiêu cải cách cơ cấu kinh tế
của Trung Quốc là xây dựng một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, ở phạm vi của một tiểu luận nhỏ, chúng tôi (những
người đang công tác và học tập trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng) nhận thức
rằng nghiên cứu, tìm hiểu đường lối cải cách, mở cửa về kinh tế và chính trị
của Đảng cộng sản Trung Quốc qua Đại hội XIV, vận dụng những kinh
nghiệm về cải cách, mở cửa về kinh tế và chính trị hiện nay là rất quan
trọng…

2


Tiểu luận sẽ đi sâu nghiên cứu đường lối cải cách thể chế kinh tế và
thể chế chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc qua Đại hội XIV; nói cụ thể

hơn là nghiên cứu chính trị có vai trò như thế nào đối với kinh tế và kinh tế
giữ vai trò như thế nào với chính trị; việc vận dụng những bài học kinh
nghiệm về cải cách, mở cửa kinh tế và chính trị như thế nào?
Kết cấu nội dung của tiểu luận: Không kể phần mở đầu, kết luận và
danh mục tham khảo, nội dụng tiểu luận kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Hoàn cảnh lịch sử - Đường lối cải cách và mở cửa của
Trung Quốc.
Chương II: Cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị ở Trung
Quốc.
Chương III: Bài học kinh nghiệm về cải cách kinh tế và chính trị ở
Trung Quốc.

3


CHƯƠNG I:
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ - ĐƯỜNG LỐI CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA
Ở TRUNG QUỐC
1. BỐI CẢNH RA ĐỜI ĐƯỜNG LỐI CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA
Ở TRUNG QUỐC
1.1. Bối cảnh quốc tế
Bước vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, cục diện đối lập hai cực Mỹ - Xô
dần dần bị phá vỡ, Nhật Bản và Cộng đồng chung châu Âu nhanh chóng trỗi
dậy; nền chính trị thế giới phát triển theo xu thế đa cực hóa, ưu tiên phát
triển kinh tế đã trở thành trào lưu quốc tế. Trong lịch sử Trung Quốc, nhân
dân Trung Quốc với căn bệnh “trong no ngoài đói” đã được khắc sâu trong
câu nói: “Lạc hậu đồng nghĩa với bị động và bị đánh”. Cho nên, người dân
Trung Quốc vừa tỉnh ngộ từ trong nội loạn “Đại cách mạng Văn hóa” 10
năm, cần phải tìm ra con đường tất yếu của tiến bộ thời đại và phát triển xã
hội. Xuất phát từ tình hình đất nước, ưu tiên phát triển kinh tế là lựa chọn tốt

nhất, sự lựa chọn tương đối cần ưu tiên là nên kết hợp phát triển ngắn hạn
với phát triển dài hạn, lấy sự phát triển hài hòa của kinh tế, xã hội, khoa học
công nghệ với dân số, tài nguyên thiên nhiên và môi trường làm mục tiêu.
Trung Quốc muốn phát triển thì phải mở cửa, thực hiện mở cửa đối ngoại,
tích cực tiếp thu và học hỏi tất cả những thành quả văn minh do xã hội loài
người sáng tạo ra, tăng cường hợp tác quốc tế, dưới tiền đề duy trì sự tăng
trưởng liên tục, nhanh chóng và lành mạnh của nền kinh tế quốc dân, thực
hiện sử dụng tổng hợp, hợp lý nguồn tài nguyên và không ngừng hoàn thiện
chất lượng môi trường để tạo ra của cải cho thế hệ sau, và đóng góp xứng
đáng cho cộng đồng quốc tế.
Trung Quốc là một nước đang phát triển, đặc biệt sự cạnh tranh và
xung đột, thẩm thấu, hòa nhập về chính trị, kinh tế, văn hóa quyết liệt mà
4


Trung Quốc phải đối mặt đã yêu cầu công cuộc xây dựng kinh tế Trung
Quốc không thể đi theo con đường mà các nước phát triển đã đi qua, mà
phải tìm một con đường phát triển vượt qua quy luật thông thường phi tuyến
tính.
Mô hình phát triển chủ nghĩa xã hội trong thời gian 30 năm kể từ khi
nước Trung Quốc mới được thành lập về cơ bản tiến hành theo “mô hình
Liên Xô cũ”: Phát triển mạnh mẽ công nghiệp nặng. Kết quả của cách làm
này là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tăng lên, nhưng do coi nhẹ phát triển công
nghiệp nhẹ và nông nghiệp, nên không nâng cao được chất lượng cuộc sống
của nhân dân, thậm chí ở một số nơi còn có xu thế đi xuống. Thực tiễn
chứng minh, biện pháp đi ngược lại với qui luật chung của phát triển kinh tế
có hại cho thực tiễn chủ nghĩa xã hội, nguyên nhân của nó ngoài việc xuất
phát từ sự xem xét khủng hoảng môi trường chính trị quốc tế và sự ổn định
kinh tế chính trị trong nước lúc đó, nguyên nhân chủ yếu là những tư tưởng
xơ cứng với bên ngoài và những gì mà chủ nghĩa giáo điều đem đến. Muốn

giành được thành công cuối cùng, sự nghiệp chủ nghĩa xã hội bất cứ lúc nào
cũng phải tiến hành tìm tòi, phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề một cách
thực sự cầu thị, kịp thời tổng kết bài học kinh nghiệm trong quá trình phát
triển, không ngừng sửa chữa đường lối, phương châm, chính sách của mình,
kịp thời điều chỉnh cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội có được bảo đảm
tin cậy.
Chủ nghĩa xã hội là một hệ thống mở, vừa phải nắm chắc văn minh
vật chất vừa phải nắm vững xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa;
cố gắng hòa nhập với trào lưu quốc tế. Trong quá trình hòa nhập này cần
phát triển nhanh tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao lực lượng
sản xuất và trình độ nguồn lực tổng hợp của nhà nước xã hội chủ nghĩa,
không ngừng thỏa mãn nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của nhân
5


dân. Lênin từng nói: Công nhân không có Tổ quốc. Điều này có nghĩa là
cuộc cách mạng của giai cấp vô sản là một sự nghiệp chung của những
người vô sản trên toàn thế giới. Nhưng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
bắt đầu từ sau khi xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa do cuộc cách mạng giai
cấp vô sản đem đến, rốt cuộc nên tiến hành như thế nào lại là một vấn đề
hiện thực vô cùng quan trọng. Đây không chỉ là vì chủ nghĩa xã hội phôi thai
và sinh ra từ trong hệ thống chủ nghĩa tư bản mở cửa, càng không phải vì
dựa theo nguyên tắc chung của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là lý
tưởng chung của toàn nhân loại, cho nên trong quá trình xây dựng phải tiếp
thu tất cả những thành quả ưu tú của quá trình phát triển văn minh nhân loại.
Nhưng, việc đóng cửa trong thời gian dài đã đem đến những tổn thất nặng nề
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, biện pháp tách mình ra khỏi hệ
thống thế giới này, không chỉ không thu được sự phát triển cao, ngược lại
đóng cửa tiến hành xây dựng, hoàn toàn tiến hành nghiên cứu và cải tạo từ
đầu đã làm mất đi rất nhiều cơ hội phát triển, cũng kéo dài quá trình xây

dựng, lãng phí thời gian và một lượng lớn nhân lực, tài lực, vật lực. Nhưng
trong quá trình mở cửa, rõ ràng cũng sẽ gặp phải rất nhiều vấn đề mới, đặc
biệt là những vấn đề chỉ chủ nghĩa tư bản mới có hoặc mang dấu ấn của chủ
nghĩa tư bản, vì vậy, sử dụng một cách dập khuôn, máy móc sẽ mang đến
cho thực tiễn hậu quả xấu. Vấn đề này cũng phải được quan tâm thích đáng
và tăng cường giải quyết trong thực tiễn.
Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất có mặt ở khu vực châu
Á – Thái Bình Dương, đã tham gia “Hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình
Dương”. Đây rõ ràng cũng là một động lực thúc đẩy cho việc hợp tác kinh tế
các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tháng 11-1993, Hội nghị hợp
tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương được tổ chức ở Seattle tại Hoa Kỳ,
Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tham gia hội nghị, đã nêu ra kiến
6


nghị 6 điểm: Tôn trọng lẫn nhau, cùng hợp tác, bình đẳng cùng có lợi, các
quan điểm khác cùng tồn tại, không nói bá quyền, cùng phát triển. Kiến nghị
này đã nhận được sự ủng hộ của nguyên thủ 15 nước, khu vực và các đại
biểu tham gia hội nghị.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chúng ta có thể thấy được xu thế toàn
cầu hóa kinh tế. Trong nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương hiện nay, sự
mất cân đối phát triển kinh tế và mất cân bằng trong phân bổ nguồn tài
nguyên thiên nhiên đã khiến cho phương thức hợp tác kinh tế của khu vực
và hình thức phân công giữa các quốc gia nảy sinh những biến đổi phức tạp
hơn. Xét từ tổng thể, sự phân công với hình thức vuông góc giữa các nước
phát triển và đang phát triển vẫn tồn tại, sự phân công theo mô hình trình độ
giữa các nước đang phát triển vẫn tồn tại. Nhưng do sự xuất hiện của các
nước tiến hành công nghiệp hóa, ví dụ một số nước có nền công nghiệp phát
triển ở châu Á, những nước này một mặt được xếp vào hàng ngũ phân công
theo mô hình trình độ của các nước phát triển, mặt khác vẫn tham dự vào sự

phân công theo mô hình vuông góc của các nước đang phát triển. Trung
Quốc là nước xã hội chủ nghĩa trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
đồng thời lại là một nước lớn có nền kinh tế đang phát triển. Ví dụ, Trung
Quốc đã có những sản phẩm công nghệ cao như vệ tinh thông tin liên lạc, cơ
quan nguyên tử hạt nhân, công nghệ sinh học, xét từ nguồn lực tổng hợp của
nền kinh tế quốc dân, xét từ trình độ khoa học công nghê, Trung Quốc lại
mạnh hơn “bốn con rồng nhỏ” và các nước ASEAN. Mặt khác, dân số Trung
Quốc chiếm ¼ dân số thế giới, trong đó 80% dân số làm nông nghiệp, năng
suất lao động trong ngành nông nghiệp thấp, trình độ hóa máy móc nông
nghiệp không cao, rất nhiều ngành công nghiệp nhẹ đều là ngành sản xuất
với mô hình lao động tập trung dầy đặc, nguồn năng lượng và giao thông
phát triển chậm chạp, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo đầu người
7


thấp hơn so với “bốn con rồng nhỏ”, và cũng thấp hơn so với các nước phát
triển khá nhanh của ASEAN.
1.2. Bối cảnh trong nước
Quy luật chung của sự xuất hiện, phát triển chủ nghĩa xã hội được
vạch ra trong học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen
sáng lập vào thế kỷ XIX có ý nghĩa chỉ đạo chung cho công cuộc cách mạng
và xây dựng chủ nghĩa xã hội các nước, và tính đúng đắn của nó đã được
thực tiễn của xã hội chủ nghĩa chứng minh. Quá trình trắc trở của con đường
xây dựng xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc có quan hệ mật thiết với đường
lối tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Từ năm 1950, Trung Quốc tiến hành những cải cách quan trọng về
kinh tế, chính trị, văn hóa nhằm xây dựng đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa: Cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh, tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
triển khai cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng… Dựa vào sự giúp đỡ của Liên

Xô, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 – 1975) hoàn thành thắng lợi, làm
cho nền kinh tế và văn hóa, giáo dục Trung Quốc có những tiến bộ vượt bậc.
Từ năm 1959 đến năm 1961, nền kinh tế quốc dân Trung Quốc đã nảy sinh
những khó khăn nghiêm trọng, sản xuất nông nghiệp nhẹ bắt đầu từ năm
1960 cũng giảm sút một cách nghiêm trọng trong vòng ba năm liền, sản xuất
công nghiệp nặng cũng giảm sút nghiêm trọng trong hai năm liên tiếp bắt
đầu từ năm 1961, điều này cố nhiên có nguyên nghân của thiên tai và sự
thay đổi chính sách của chính quyền Liên Xô cũ. Năm 1963, tiếp tục quán
triệt toàn diện phương châm 8 chữ, vừa điều chỉnh vừa phát triển, đến cuối
năm nền kinh tế quốc dân đã cơ bản được hồi phục. Năm 1964, với nỗ lực
không ngừng, tình hình kinh tế quốc dân đã có những chuyển biến tích cực
toàn diện. Năm 1965, nền kinh tế quốc dân Trung Quốc đã xuất hiện dấu
8


hiệu khởi sắc, đã có những chuẩn bị cho thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
ba phát triển nền kinh tế quốc dân. Nhưng điều đáng tiếc là, “Đại cách mạng
Văn hóa” nổ ra năm 1966 đã quấy rối và tác động nghiêm trọng đến tình
hình phát triển lành mạnh của nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian 10 năm
“Đại cách mạng Văn hóa”, mặc dù toàn Đảng và quảng đại cán bộ quần
chúng nhân dân cùng nỗ lực, ngăn chặn sự phá hoại của Lâm Bưu, “bè lũ
bốn tên” đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế, tiến hành chỉnh đốn trong
từng năm riêng biệt, phần nào đã làm cho nền kinh tế quốc dân thoát khỏi
khó khăn và có sự tăng trưởng đi lên, nhưng xét từ toàn bộ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đã gặp phải sự phá hoại trước đây chưa hề có, khiến
thu nhập quốc dân tổn thất khoảng 500 tỷ nhân dân tệ, và đã lãng phí thời
gian, khiến cho khoảng cách đã được thu nhỏ của Trung Quốc với các nước
tư bản chủ nghĩa phát triển lại kéo rộng ra.
Trong cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội là nội dung trung tâm trong
đường lối chính trị kể từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XI. Năm 1981, bản

“Quyết nghị về một số vấn đề lịch sử của Đảng kể từ khi xây dựng đất
nước” mà Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của Đảng thông qua đã khái quát
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình Trung Quốc
thành 10 điểm quan trọng. Tại Đại hội XII của Đảng cộng sản Trung Quốc
năm 1982, trong bài phát biểu khai mạc, Đặng Tiểu Bình đã nêu ra một cách
rõ ràng xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Bản báo cáo
của Đại hội XII đã trình bày một cách hệ thống mục tiêu, con đường cụ thể
và một loạt phương châm, chính sách mở ra một cách toàn diện cục diện mới
xây dựng hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội. Bản “Quyết định về cải cách thể chế
kinh tế” mà Trung ương Đảng đưa ra vào năm 1984, chỉ ra rằng phải dần dần
giải phóng tư tưởng, xây dựng một thể chế chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc
Trung Quốc, tràn đầy sức sống, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Hai
9


năm sau, Trung ương Đảng lại thông qua bản “Quyết nghị về phương châm
chỉ đạo xây dựng văn minh tinh thần của chủ nghĩa xã hội”. Năm 1987, Đại
hội XIII của Đảng đã đưa ra những suy đoán khoa học: Trung Quốc đang ở
vào giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, đã xác định đường lối cơ bản “một
điểm trung tâm, hai điểm cơ bản”, đã vạch ra phương châm cơ bản của cải
cách và xây dựng, đã chứng minh và trả lời toàn bộ bức tranh xây dựng và
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Năm 1992, Đại hội XIV của Đảng đã tổng
kết thực tiễn vĩ đại của 14 năm rưỡi cải cách mở cửa chủ nghĩa xã hội Trung
Quốc, tuân theo tinh thần của bài nói chuyện quan trọng của Đặng Tiểu Bình
vào tháng 1 – 2 cùng năm đó, ở các thành phố Vũ Xương, Thâm Quyến, Chu
Hải, Thượng Hải, nêu ra mục tiêu của cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc là
xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Ông cho rằng thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là cùng kết hợp với chế độ cơ bản của
chủ nghĩa xã hội. Điều này sẽ dần dần giải phóng tư tưởng của mọi người,
thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh hơn, tốt hơn. Năm 1997,

Đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc đã giương cao ngọn cờ vĩ đại lý
luận Đặng Tiểu Bình, cho rằng hướng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Trung Quốc sang thế kỷ XXI đã phản ánh một cách đầy đủ ý
chí và nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc.
CHƯƠNG II:
CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ VÀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
Ở TRUNG QUỐC
1. Cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc
1.1. Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế và xây dựng thể chế kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa
Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng XIV của Trung Quốc đã nhấn mạnh:
Căn cứ vào yêu cầu giải phóng và phát triển sức sản xuất, kiên trì và hoàn
10


thiện chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế thuộc
nhiều loại sở hữu cùng phát triển... Phải kiên trì không lay chuyển việc củng
cố và phát triển kinh tế công hữu. Phát triển và làm lớn mạnh kinh tế quốc
hữu, kinh tế quốc hữu khống chế mạch máu của nền kinh tế quốc dân, có vai
trò then chốt trong việc phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,
tăng cường thực lực kinh tế, thực lực quốc phòng và sự gắn bó dân tộc...
Tiếp tục điều chỉnh sự phân bố và kết cấu kinh tế quốc hữu, cải cách thể chế
quản lý tài sản quốc hữu là nhiệm vụ quan trọng để đưa cải cách thể chế
kinh tế vào chiều sâu. Doanh nghiệp nhà nước là trụ cột của nền kinh tế
quốc dân, phải đi sâu cải cách doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục tìm tòi nhiều
hình thức thực hiện có hiệu quả chế độ công hữu, nhất là chế độ công hữu
nhà nước, ra sức đẩy mạnh sáng tạo về thể chế, kỹ thuật và quản lý của
doanh nghiệp1.
Có thể chia quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc
thành 3 giai đoạn chủ yếu sau:

Giai đoạn 1, từ tháng 12-1978 đến tháng 10-1984, đây là giai đoạn
chuẩn bị, mở đầu nhằm tiến hành thí điểm cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Nội dung cải cách chủ yếu là "nới quyền nhượng lợi", tức là nới rộng quyền
tự chủ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhà nước đã ban hành hàng loạt
các chính sách pháp quy nhằm mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp, kết hợp
trách nhiệm hiệu quả với lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và người lao động
nhằm khích lệ tính tích cực trong hoạt động sản xuất. Tháng 5-1984, Quốc
vụ viện đã ra "Quy định tạm thời về việc mở rộng quyền tự chủ của doanh
nghiệp công nghiệp quốc doanh" trên 10 vấn đề, đây là "mười điều nới
quyền" nổi tiếng.
1

Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVII Đảng cộng sản Trung Quốc (sách tham khảo), NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 46 – 47.

11


Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước
là quá trình điều chỉnh dần mối quan hệ phân phối giữa nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước. Năm 1983 là năm đầu tiên thực hiện bước 1 cải cách lợi
nhuận thành thuế xí nghiệp, đến năm 1984 thực hiện bước 2. Qua hai bước,
Nhà nước đã thay đổi từ việc trích lợi nhuận của doanh nghiệp nhà nước
sang thu thuế thu nhập hoặc thuế lợi nhuận, đồng thời thực hiện chế độ xí
nghiệp giữ lại một phần lợi nhuận. Trong một chừng mực nhất định, việc
làm này có tác dụng nâng cao hơn sức sống của doanh nghiệp nhà nước2.
Tuy vậy, biện pháp cải cách này đã làm nảy sinh một số vấn đề bất
hợp lý như tỷ lệ phân chia lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên thì tỷ
trọng thu nhập tài chính của nhà nước trong toàn bộ thu nhập quốc dân bị
giảm xuống (từ 37,2% năm 1978 xuống còn 26,5% năm 1983). Do vậy, nếu

cứ kéo dài tình trạng này, Nhà nước sẽ bị thất thu thuế, đất nước sẽ không
tập trung đủ vốn để xây dựng các dự án trọng điểm và phát triển kết cấu hạ
tầng.
Giai đoạn 2, từ tháng 10-1984 đến tháng 12-1991, đây là giai đoạn
triển khai toàn diện cải cách doanh nghiệp nhà nước. Trong giai đoạn này,
Trung Quốc xác định rõ cải cách doanh nghiệp nhà nước là khâu then chốt
trong cải cách thể chế kinh tế. Yêu cầu cơ bản của cải cách doanh nghiệp
nhà nước là xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và xí nghiệp, phát
huy tính tích cực của xí nghiệp và của người lao động. Tư tưởng chính của
cải cách doanh nghiệp nhà nước là: Tách quyền hạn giữa doanh nghiệp nhà
nước với chính quyền; phân biệt rõ quyền sở hữu với quyền kinh doanh; xác
định doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế có quyền tự kinh doanh, tự
chịu lỗ lãi, trên cơ sở đó xây dựng các hình thức chế độ trách nhiệm. Biện
pháp tiến hành chủ yếu là thực hiện chế độ khoán trong kinh doanh đối với
2

Lý Thiết Ánh: Về cải cách và mở cửa ở Trung Quốc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr 200 – 2001.

12


phần lớn các doanh nghiệp, chế độ thuế kinh doanh đối với các doanh
nghiệp nhà nước loại nhỏ, đồng thời bước đầu tiến hành thí điểm chế độ cổ
phần và tập đoàn doanh nghiệp. Từ năm 1997, cả nước có 95% doanh
nghiệp nhà nước công thương thực hiện chế độ khoán trách nhiệm kinh
doanh. Thông qua hình thức ký hợp đồng, chế độ khoán trách nhiệm đã xác
định mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước với doanh nghiệp, làm cho trách
nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp có sự kết hợp chặt chẽ và được thực
hiện thực sự; phát huy tác dụng trong việc nâng cao sức sống của doanh
nghiệp.

Năm 1986, Nhà nước đã ban hành "Luật Phá sản"; năm 1988 ban
hành "Luật Doanh nghiệp công nghiệp nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa". Lần đầu tiên, chế độ mới của doanh nghiệp nhà nước được xác định
bằng luật pháp, mục tiêu cải cách và những bảo đảm về luật pháp của doanh
nghiệp được xác định3.
Tuy nhiên, chế độ nhận khoán kinh doanh kéo theo một số vấn đề
phức tạp mới như sự phân phối thiên về dành cho doanh nghiệp và cá nhân,
tỷ lệ thu nhập tài chính của nhà nước suy giảm mạnh, doanh nghiệp chỉ cần
lãi mà không chịu lỗ; các doanh nghiệp chỉ coi trọng sản xuất, xem nhẹ đầu
tư và không chú ý bảo dưỡng trang thiết bị4.
Giai đoạn 3, từ tháng 1-1992 đến nay, kể từ khi chế độ doanh nghiệp
hiện đại bước đầu được xác lập, cải cách doanh nghiệp nhà nước chuyển từ
trạng thái điều chỉnh chính sách sang xây dựng chế độ mới và bước đầu xây
dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại phù hợp với yêu cầu của thể chế kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa. Đặc điểm nổi bật nhất của giai đoạn này là cải
cách doanh nghiệp theo mục tiêu tổng thể của thể chế kinh tế thị trường xã
3

Sđd tr 200 – 2001.
Hà Hồng Vân: “Tìm hiểu quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, số 2 (36), 2001, tr 10.
4

13


hội chủ nghĩa, xây dựng doanh nghiệp nhà nước thành thực thể pháp nhân
độc lập và chủ thể cạnh tranh trên trường quốc tế và nội địa. Doanh nghiệp
tồn tại và phát triển trên thị trường theo nguyên tắc tự đào thải. Căn cứ vào
nhu cầu chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp, tháng 7-1992,

Trung Quốc đã ban bố và thực hiện "Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh
của doanh nghiệp công nghiệp sở hữu toàn dân", xác định bằng luật pháp
mục tiêu chuyển đổi cơ chế các doanh nghiệp nhà nước, làm cho doanh
nghiệp thích ứng với nhu cầu thị trường, trở thành đơn vị sản xuất kinh
doanh hàng hóa theo phương thức tự kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, tự phát triển
và tự ràng buộc, là xí nghiệp pháp nhân có quyền lợi và nghĩa vụ dân sự độc
lập. Việc thực hiện triệt để điều lệ đã có tác dụng thúc đẩy tiến trình chuyển
đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước từng bước
vận hành theo yêu cầu của quy luật kinh tế thị trường. Đồng thời, việc thí
điểm chế độ cổ phần, tập đoàn doanh nghiệp và chế độ nộp thuế, đấu thầu,
hợp doanh, phá sản... được triển khai theo nhiều tầng bậc, nhiều hướng khác
nhau.
Bản “Nghị quyết” Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV Đảng cộng sản
Trung Quốc miêu tả thêm khung tổng thể của thể chế mới, nêu ra nhiệm vụ
cơ bản xây dựng thể chế mới và một loạt lý luận quan điểm mới. Để nhanh
chóng xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa khá hoàn thiện,
trên cơ sở đã giành được và tư tưởng chỉ đạo nỗ lực không ngừng từ những
mặt chủ yếu dưới đây. Một là, xây dựng và phát triển hệ thống thị trường xã
hội chủ nghĩa. Trước mắt phải chú ý phát triển thị trường yếu tố sản xuất,
hành vi thị trường chuẩn mực, phá vỡ sự chia cắt và phong tỏa khu vực, ban
ngành, phản đối sự cạnh tranh không bình đẳng, tạo ra môi trường cạnh
tranh bình đẳng, hình thành thị trường lớn thống nhất, mở cửa, cạnh tranh,
có trật tự; Hai là phát triển tổ chức môi giới thị trường, phát huy tác dụng
14


dịch vụ, thông suốt, công bằng, giám sát của nó. Cải thiện và tăng cường sự
quản lý, giám sát đối với thị trường; Ba là, xây dựng kiện toàn hệ thống điều
tiết vĩ mô. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là duy trì sự cân bằng cơ bản của tổng
lượng kinh tế, thúc đẩy tính ưu việt của cơ cấu kinh tế, khiến cho nền kinh tế

quốc dân phát triển liên tục, nhanh chóng, lành mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ
toàn diện của xã hội. Điều tiết vĩ mô chủ yếu sử dụng các công cụ kinh tế,
phải bỏ công sức trong cải cách thể chế thuế tài chính, tiền tệ, đầu tư và kế
hoạch, tăng cường sự hài hòa tổng hợp đối với vận hành nền kinh tế; Bốn là,
xây dựng chế độ phân phối thu nhập cá nhân và bảo hiểm xã hội hợp lý.
Phân phối thu nhập cá nhân phải kiên trì chế độ lấy phân phối theo lao động
là chính, các hình thức phân phối song song tồn tại, thể hiện nguyên tắc ưu
tiên hiệu quả, chú trọng công bằng, xây dựng hệ thống bảo hiểm (bảo đảm)
xã hội nhiều tầng; Năm là, tiếp tục đi sâu cải cách thể chế kinh tế nông thôn.
Lấy chế độ trách nhiệm và thể chế kinh doanh hai tầng kết hợp thống nhất
của khoán hộ gia đình là chính. Đây là chế độ kinh tế cơ bản của nông thôn,
phải ổn định lâu dài, không ngừng hoàn thiện, và chú trọng phát triển hệ
thống dịch vụ xã hội hóa nông thôn, thúc đẩy chuyên nghiệp hóa, sản phẩm
hóa, xã hội hóa nông thôn, tiếp tục làm tốt xí nghiệp hương trấn, phát triển
chế độ hợp tác cổ phần, tiến hành lập ra ngành sản xuất và phương thức kinh
doanh, và nắm chắc việc xây dựng thị trấn nhỏ; Sáu là tiến hành mở cửa trên
mọi mặt, xây dựng cơ chế vận hành phù hợp với quy tắc thông lệ quốc tế,
phát huy sự khá ưu thế của nguồn tài nguyên thiên nhiên và thị trường Trung
Quốc, thu hút mạnh vốn và kỹ thuật nước ngoài, thúc đẩy nền kinh tế liên
tục phát triển…
1.2. Cải cách doanh nghiệp nhà nước và xây dựng chế độ doanh
nghiệp hiện đại

15


Ở Trung Quốc, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò trụ cột trong nền
kinh tế quốc dân. Làm tốt cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước, có ý nghĩa
rất quan trọng đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
và củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn của cải cách doanh nghiệp và học hỏi kinh nghiệm quốc tế
của Trung Quốc nhiều năm qua mà Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV Đảng
cộng sản Trung Quốc tổng kết đã chỉ rõ, chế độ doanh nghiệp hiện đại lấy
chế độ công hữu làm chủ thể là cơ sở của thể chế kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa; tiếp tục đi sâu cải cách doanh nghiệp cần phải giải quyết mâu
thuẫn nhiều tầng, tập trung tiến hành đổi mới chế độ, từng bước xây dựng
chế độ doanh nghiệp hiện đại với quyền tài sản minh bạch, quyền hạn và
trách nhiệm rõ ràng, tách chính quyền với doanh nghiệp, quản lý khoa học
công nghệ.
Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu tài sản đối với khu vực kinh tế phi công
hữu trước đây chưa được khẳng định bằng luật pháp một cách rõ ràng, hạn
chế tính chủ động, tích cực, sáng tạo của các doanh nghiệp tư doanh. Trước
cải cách, kinh tế tư doanh ở Trung Quốc hầu như bị triệt tiêu qua quốc hữu
hoá, tập thể hoá. Sau cải cách, Nhà nước Trung Quốc khuyến khích phát
triển kinh tế phi công hữu, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều trở ngại về mặt thể
chế, trước hết là về quyền sở hữu tài sản, hạn chế các doanh nghiệp tư nhân
yên tâm phát triển kinh doanh.
Nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã quyết định "xây dựng, kiện toàn chế độ sản quyền
hiện đại". "Quyết định" nói rõ "sản quyền là cốt lõi và nội dung chủ yếu của
chế độ sở hữu đối với các loại tài sản..." Xây dựng chế độ sản quyền hiện đại
quy thuộc rõ ràng, quyền hạn và trách nhiệm minh bạch, được bảo hộ
nghiêm ngặt, lưu chuyển thuận tiện, là có lợi cho việc bảo vệ quyền công
16


hữu tài sản, củng cố vị trí chủ thể của kinh tế công hữu; có lợi cho việc bảo
hộ quyền tư hữu tài sản, thúc đẩy kinh tế phi công hữu phát triển; có lợi cho
việc lưu động và sắp xếp lại các loại vốn thúc đẩy kinh tế sở hữu hỗn hợp
phát triển; có lợi cho việc tăng cường động lực của doanh nghiệp và công

chúng trong việc lập nghiệp và sáng tạo, hình thành cơ sở tín dụng và trật tự
thị trường lành mạnh"5.
Tháng 11-1993, Hội nghị Trung ương 3, khóa XIV của Đảng Cộng
sản Trung Quốc đã thông qua "Quyết định về một số vấn đề xây dựng chế độ
doanh nghiệp hiện đại" đã xác định rõ cải cách doanh nghiệp nhà nước theo
hướng xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Đặc trưng của chế độ doanh
nghiệp hiện đại là quyền tài sản và trách nhiệm quyền hạn đều rõ ràng, chính
quyền và doanh nghiệp phải tách rời nhau. Trong đó, đáng chú ý là các
doanh nghiệp nhà nước thực hiện chế độ công ty theo các hình thức: Công ty
vốn nhà nước 100%, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần hữu
hạn. Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa XIV (14-11-1993), Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã nhấn mạnh: Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại là yêu
cầu tất yếu của nền sản xuất lớn; xã hội hóa là phương hướng của công cuộc
cải cách doanh nghiệp quốc hữu. Trung Quốc đã thử nghiệm xây dựng chế
độ doanh nghiệp hiện đại, thực chất là tiến hành công ty hóa các doanh
nghiệp nhà nước bằng biện pháp cổ phần hóa. Như vậy, cổ phần hóa là
nhiệm vụ quan trọng của công cuộc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại.
Các lĩnh vực quan trọng như: Điện lực, dầu mỏ, hàng không, thông tin
liên lạc, đường sắt, tiền tệ về cơ bản đều nằm trong tay doanh nghiệp nhà
nước; các ngành cơ sở như năng lượng, giao thông, bưu tín, các ngành
nguyên liệu quan trọng và trụ cột như điện tử, cơ khí, xe hơi, hóa chất, hóa
5

Quyết định của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc về một số vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa NXB Nhân dân Trung Quốc, tr 5.

17


dầu, luyện kim thì doanh nghiệp nhà nước đều chiếm địa vị chi phối. Có thể

nói, tất cả những thành tựu quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã
hội chủ nghĩa Trung Quốc, địa vị quốc tế quan trọng và tổng lực của đất
nước tương đối hùng hậu mà Trung Quốc có được ngày hôm nay, sự phát
triển bền vững của nền kinh tế Trung Quốc trong cạnh tranh quốc tế khốc
liệt, đều có sự đóng góp lớn lao của doanh nghiệp nhà nước.
Về cải cách thể chế tiền tệ, sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV
Đảng cộng sản Trung Quốc, để tạo điều kiện cho việc xây dựng hệ thống
điều tiết tiền tệ gián tiếp của Ngân hàng Trung ương, với chính sách tiền tệ
thắt chặt vừa phải, Ngân hàng Trung ương đã chế định và áp dụng một loạt
biện pháp kết hợp giữa điều tiết trực tiếp với điều tiết gián tiếp. Một mặt đã
làm nổi bật khả năng điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung ương, đồng thời
khiến điều tiết tiền tệ vĩ mô chuyển từ điều tiết trực tiếp sang điều tiết gián
tiếp là chính.
Còn về mở cửa đối ngoại, bắt đầu từ năm 1992, cơ cấu sử dụng vốn
nước ngoài có thay đổi lớn: Một là, nguồn vốn đầu tư trực tiếp trở thành
nguồn chủ đạo; Hai là, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài phát triển
nhanh chóng, yêu cầu về quyền cổ phần của vốn nước ngoài đầu tư vào
doanh nghiệp tăng lên; Ba là, công ty xuyên quốc gia làm công nghiệp chế
tạo của các nước phát triển Âu – Mỹ và dịch vụ tiền tệ của nước ngoài đến
Trung Quốc đầu tư tăng lên nhanh chóng. Sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
một cách tích cực, hiệu quả, hợp lý đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân, năm 1992 chiếm 5,7%, năm 1993 tăng lên là 7,3%.
Cải cách mở cửa là để phát triển. Hơn 20 năm qua, Trung Quốc luôn
đặt phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân lên vị trí hàng đầu,
và đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế xã hội thông qua cải cách mở
cửa. Trong mở cửa đối ngoại, Trung Quốc hết sức chú ý đến áp lực cạnh
18


tranh quốc tế do mở cửa đem lại và năng lực thích ứng của nền kinh tế, chú

ý tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế quốc dân trong
mở cửa đối ngoại, ưu việt hóa cơ cấu kinh tế, nâng cao tố chất kinh tế quốc
dân, bảo đảm an toàn cho nền kinh tế. Thực tế đã chứng minh, con đường
này là con đường đúng duy nhất để Trung Quốc giàu mạnh, không có cải
cách mở cửa thì Trung Quốc không thể có được những biến đổi to lớn như
ngày nay.
2. Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc
2.1. Phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của cải cách thể chế
chính trị
Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa. Chế độ chính trị cơ bản là
tốt, tuy nhiên trong thể chế chính trị vẫn còn một số khuyết tật chủ yếu biểu
hiện ở quyền lực quá tập trung, quan liêu do ảnh hưởng của nền chuyên chế
phong kiến. Những cái đó là những trở ngại cho việc phát triển dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Việc xây dựng thể chế chính trị dân chủ là một trong những
bài học chủ yếu trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Thể
chế chính trị của Trung Quốc trước đây được hình thành và phát triển trong
thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thể chế này có nhiều khuyết
tật và ngày càng tỏ ra không thích ứng với công cuộc hiện đại hóa kinh tế,
chính trị, văn hóa. Nó cản trở nghiêm trọng sự phát triển sức sản xuất, vì vậy
cần phải tiến hành cải cách.
Trên cơ sở tổng kết đầy đủ kinh nghiệm lịch sử, Đảng cộng sản Trung
Quốc nhận thức sâu sắc rằng, không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã
hội, không có hiện đại hóa, nên đã đặt việc xây dựng và phát triển thể chế
chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu căn bản trong xây dựng, hiện
đại hóa đất nước và là một trong những nhiệm vụ mang tầm chiến lược,
đồng thời tìm ra cho được con đường cải cách thể chế chính trị để phát triển
19


nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng cũng đã tiến hành nhận thức lại về chủ

nghĩa xã hội, thay đổi căn bản khuynh hướng coi nhẹ xây dựng nền chính trị
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng cộng sản Trung Quốc, năm 1987 coi
việc xây dựng nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa thành mục tiêu cơ bản
và nhiệm vụ căn bản, thành nhiệm vụ chung và mục tiêu chung của Trung
Quốc; đã chính thức đưa vấn đề cải cách thể chế chính trị vào chương trình
nghị sự của Đảng.
Đại hội lần thứ XIV năm 1992 tiếp tục nhấn mạnh vai trò của cải cách
thể chế chính trị và chỉ rõ: Cải cách thể chế chính trị của Trung Quốc, mục
tiêu là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc,
quyết không phải là thực hiện chế độ đa đảng và chế độ nghị viện của
phương Tây.
Cải cách thể chế chính trị, thành tựu quan trọng nhất là lập lại kỷ
cương luật pháp, khôi phục nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội sau cuộc động loạn “Cách mạng
văn hóa”. Nền dân chủ chính trị ở Trung Quốc đã được khôi phục và có
bước phát triển mới, trước hết là dân chủ trong Đảng. Cải cách thể chế chính
trị tiến hành sau cải cách thể chế kinh tế một bước, tuy có thời gian diễn ra
chậm trễ, nhưng những năm gần đây đã được đẩy mạnh đáng kể. Công tác
xây dựng Đảng đã được coi trọng, nhất là nguyên tắc dân chủ trong hoạt
động của Đảng, tổ chức cũng như công tác lãnh đạo. Đặng Tiểu Bình đã nói
rất chí lý: “Những sai lầm của chúng ta mắc phải trước đây, tất nhiên có liên
quan đến tư tưởng, tác phong của một số người lãnh đạo, nhưng quan trọng
hơn là vấn đề chế độ tổ chức, chế độ công tác. Chế độ tổ chức, chế độ công
tác tốt thì người xấu không thể tùy tiện làm việc xấu; chế độ không tốt thì

20


người tốt cũng không thể làm được việc tốt, thậm chí có thể thành người

xấu”6.
2.2. Những thành tựu bước đầu của cải cách thể chế chính trị
Về chế độ lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu là lãnh đạo về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, tức là sự lãnh đạo về nguyên tắc chính trị,
phương hướng chính trị, những quyết sách quan trọng; đồng thời giới thiệu
những cán bộ quan trọng cho cơ quan chính quyền nhà nước. Từ đó, làm cho
những chủ trương của Đảng thông qua trình tự quy định của pháp luật biến
thành ý chí của nhà nước, đồng thời thông qua tác phong gương mẫu của các
tổ chức đảng và đảng viên mà lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân thực
hiện đường lối, phương châm và chính sách của Đảng. Tình trạng tổ chức
Đảng bao biện làm thay trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh
nghiệp đã được thay đổi một cách căn bản.
Về quan hệ giữa Đảng với cơ quan nhà nước và các tổ chức khác, đã
thay đổi tình trạng chức trách không rõ ràng trước đây, bước đầu làm hài hòa
mối quan hệ giữa Đảng với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan
hành pháp, cơ quan tư pháp của nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các
đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp cùng với các tổ chức xã hội khác, mỗi cơ
quan có chức trách riêng, đồng thời quy định rõ Đảng phải hoạt động trong
phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
Vấn đề dân chủ trong Đảng cũng có những cải cách quan trọng, đã
xây dựng được chế độ lãnh đạo tập thể, chế độ giám sát và chế độ bầu cử.
Trung Quốc đã khôi phục lại Ban Bí thư Trung ương Đảng là cơ quan công
tác hàng ngày dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị; xây dựng chế độ báo cáo
định kỳ giữa Ban Thường vụ Bộ Chính trị với Bộ Chính trị và giữa Bộ chính
trị với Ban Chấp hành Trung ương, cùng với các quy tắc công tác và chế độ
6

Đặng Tiểu Bình văn tuyển (tiếng Trung), quyển 2, NXB Nhân dân, Bắc Kinh,1983, tr 333.

21



sinh hoạt của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Bộ Chính trị và Ban Bí thư
Trung ương, từ đó làm cho lãnh đạo tập thể được chế độ hóa, tăng cường sự
giám sát và ràng buộc đối với người lãnh đạo của Đảng. Ngoài ra, nhằm đảm
bảo việc thực hiện Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, tăng cường sự
giám sát đối với đảng viên, đảng ủy các cấp từ Trung ương đến địa phương
đều thành lập Ban Kiểm tra kỷ luật để thanh lọc những phần tử thoái hóa,
biến chất trong tổ chức Đảng.
Nhờ không ngừng tìm tòi về lý luận và tích cực tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn, công cuộc cải cách thể chế chính trị của Trung Quốc đã vượt qua
được những khó khăn và thách thức, bước đầu đạt được những thành tựu
quan trọng, để lại những bài học kinh nghiệm bổ ích, từ đó đặt nền móng
cho việc thực hiện mục tiêu “xây dựng nền chính trị dân chủ xã hội chủ
nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc”.
CHƯƠNG III:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ CẢI CÁCH KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
Ở TRUNG QUỐC
Trung Quốc không phải là nước duy nhất thực hiện cải cách kinh tế,
xoá bỏ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cũ, song nước này đã gặt hái được
nhiều thành công khiến cho các nước khác phải ngưỡng mộ. Viện sỹ Ô
Bôgômôlốp (Nga) đã nhận xét, có nhiều người cho rằng các nước chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường "nhất định sẽ kéo theo các xung đột đổ máu
hay ít ra là mất mát và thiếu thốn vật chất. Kinh nghiệm của các nước Trung
và Đông Âu, của Nga và các nước SNG khác dường như khẳng định điều
đó. Thế nhưng cải cách thị trường của Trung Quốc đã chứng minh điều
ngược lại. Ngay từ những ngày đầu, cải cách của Trung quốc đã cải thiện về
kinh tế và cuộc sống cho nhân dân, và cho đến nay vẫn duy trì tốc độ tăng

22



trưởng cao”. Vì sao lại như vậy, và có thể rút ra được những bài học gì từ
“cuộc cách mạng thứ hai” này của người Trung Quốc?
1. Cải cách toàn diện, song phải coi cải cách thể chế kinh tế là
trọng điểm
Ngay từ đầu, Trung Quốc đã chủ trương cải cách toàn điện. Nhà lãnh
đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, người được coi là kiến trúc sư của công
cuộc cải cách của Trung Quốc nói: "Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách
thể chế kinh tế, cải cách thể chế chính trị và cải cách các lĩnh vực tương ứng
khác"7. Trung Quốc tuy chủ trương cải cách toàn diện, song khi thực hiện
phải có trọng điểm để tập trung sức lực. Trọng điểm chính là cải cách thể
chế kinh tế. Sở dĩ Trung Quốc cải cách thành công vì trong khi cải cách tất
cả các lĩnh vực, họ đã kiên trì coi cải cách kinh tế làm trọng điểm. Một số
quốc gia khác cải cách thất bại, bởi vì cải cách kinh tế chưa có kết quả gì rõ
rệt, đã vội vã chuyển trọng điểm sang lĩnh vực khác, làm cho chính trị không
ổn định, mà cải cách kinh tế cũng bị buông lỏng, kết quả là cả kinh tế lẫn
chính trị đều bị rối loạn.
2. Kiên trì về lựa chọn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
thay thế cho thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống
Thực hiện cải cách - mở cửa, những người lãnh đạo Trung Quốc đã
lựa chọn thể chế kinh tế thị trường, nền kinh tế được thúc đẩy và phồn vinh,
được nhân dân tiếp nhận. Quá trình lựa chọn và tiếp nhận thể chế kinh tế thị
trường ở Trung Quốc có thể chia làm các giai đoạn:
- Thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng quy - luật giá trị, mở rộng tác
dụng của cơ chế thị trường. Các biện pháp cải cách áp dụng đầu tiên ở nông
thôn đã khiến nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển, tạo ra sức

7


Tuyển tập Đặng Tiểu Bình (Tập hai), NXB Nhân dân, 7-1993, tr 110.

23


thuyết phục để đông đảo người dân tiếp nhận cuộc cải cách theo hướng thị
trường.
- Nhận thức của mọi người đã được nâng lên, hiểu rõ hơn về vấn đề
phát triển kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua.
- Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ XIII đưa ra mô hình
"Nhà nước điều tiết thị trường, thị trường dẫn lối cho doanh nghiệp” đã làm
nổi bật tác dụng của thị trường và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết
kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa sang thuyết kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa.
- Năm 1992, Đại hội Đảng XIV xác định mục tiêu cải cách của thể
chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đề ra là cần thật sự nắm bắt tốt sự
chuyển đổi cơ chế kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước, nhanh chóng gây
dựng hệ thống thị trường, đi sâu cải cách chế độ phân phối và chế độ bảo
hiểm xã hội, đẩy nhanh chuyển đổi chức năng chính phủ. Năm 1993, Hội
nghị Trung ương khóa XIV thông qua quyết định, từng bước phác vẽ khung
cơ bản của chế độ kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, chỉ rõ phương hướng
cải cách doanh nghiệp nhà nước là: Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại.
3. Kiên trì sách lược cải cách kiểu tiến dần từng bước
Ngay từ khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không
dùng phương án cải cách kiểu "bùng nổ", mà đã kiên trì phương án "dò đá
qua sông", áp dụng phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước, giảm
bớt rủi ro. Thực tiễn chứng minh cách làm này là phù hợp với Trung Quốc,
mang lại kết quả rõ rệt, tránh được những va chạm xã hội lớn và sự phân hoá
hai cực quá nhanh như đã xẩy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do thực
hiện "liệu pháp sốc". Cải cách kiểu tiến dần phải trả giá nhất định như thời

gian cải cách tương đối dài, tác dụng tiêu cực của thể chế cũ kéo dai dẳng,

24


song cuộc cải cách được thúc đẩy trong điều kiện xã hội tương đối ổn định,
tuyệt đại đa số nhân dân được hưởng lợi ích của cải cách.
Cải cách theo phương thức tiến dần của Trung Quốc thể hiện ở mấy
phương diện quan trọng sau:
- Sau khi cải cách ở nông thôn thu được những kết quả thực tế mới mở
rộng ra thành phố.
- Ra sức thúc đẩy sự phát triển kinh tế không thuộc sở hữu Nhà nước,
biến nó thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế 20 năm qua;
sau đó thực hiện có trọng điểm cuộc cải tổ chiến lược khu vực kinh tế Nhà
nước và cải cách các xí nghiệp Nhà nước.
- Trong việc xây dựng hệ thống thị trường, thì trước hết phát triển thị
trường hàng hoá tiêu dùng rồi đến hàng hoá tư liệu sản xuất, sau đó mới chú
ý phát triển thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, sức lao động,
kỹ thuật, thông tin v.v..
- Cải cách giá cả, được coi là mấu chốt, quan hệ đến sự thành bại của
toàn bộ cải cách thể chế kinh tế, vì vậy đã được tiến hành rất thận trọng, kết
hợp giữa điều chỉnh và thả lỏng, điều chỉnh trước, thả lỏng sau, sau đó mới
gắn với giá cả của thị trường quốc tế. Trong nền kinh tế kế hoạch, mọi sản
phẩm đều không được thể hiện chính xác giá cả của nó; cuộc cải cách giá
trước hết thực hiện thị trường hoá giá cả các hàng hoá hiện vật và các dịch
vụ, rồi dần dần thực hiện thị trường hoá giá các yếu tố sản xuất.
- Về kế hoạch hoá các khâu sản xuất, lưu thông, giá cả..., thì trước hết
cho phép một phần tồn tại ngoài kế hoạch, rồi dần dần mở rộng ra; phần theo
kế hoạch thì thu hẹp lại dần. Khi điều kiện đã chín muồi thì thực hiện sự
điều tiết của thị trường. Việc từng bước hợp nhất chế độ hai giá của tư liệu

sản xuất là ví dụ nổi bật về sự quá độ yên ổn từ thể chế cũ sang thể chế mới
một cách tiên tiến.
25


×