Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TIỂU LUẬN CAO học quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.75 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã gặt hái
được những thành công vang dội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên. Đường lối đổi
mới của Đảng đã được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và
phát triển. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống,
doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để
phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng
mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh chuyển sang quản lý
bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc gắn phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Đây là những tiền đề cơ bản để Việt Nam tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế
thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội
nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với mục đích tận dụng ưu thế truyền
thống của hình thái kinh tế này là huy động mọi nguồn lực xã hội, phát huy mọi
năng lực sản xuất để xây dựng cơ sở căn bản bền chắc cho nền kinh tế nước nhà.
Nhưng cơ chế kinh tế thị trường của chúng ta phải được phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tức là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát
triển lực lượng sản xuất với xây dựng mối quan hệ sản xuất mới, phải vừa khắc
phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật
chất - kỹ thuật của CNXH, vừa hình thành được cơ cấu kinh tế đặc trưng cho xã
hội mới…Mặt khác đất nước muốn phát triển bền vững thì chúng ta phải chú
trọng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN. Đặc biệt trong 20 năm đổi mới, vấn đề
1



dân chủ được Đảng, Nhà nước ta khẳng định và tạo điều kiện để nhân dân thực
hiện, phát huy tốt quyền làm chủ của mình trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội: Dân chủ về chính trị, được thể hiện một cách sinh động trong sinh hoạt
Đảng, cởi mở hơn trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội; người dân
trực tiếp bầu ra đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp; chất vấn và được trả lời chất
vấn công khai, dân chủ; những quyết sách của Quốc hội, HĐND ngày càng tiến
bộ, thực chất và thực quyền hơn; nhân dân tự giác, tích cực tham gia hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước...thể hiện rõ qua việc tham gia đóng
góp ý kiến vào Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng các cấp.
Dân chủ về kinh tế, các thành phần kinh tế bình đẳng cùng phát triển, mọi người
đều được tự do kinh doanh, làm tất cả những gì pháp luật không cấm...Dân chủ
trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, quyền tự do báo chí, các hoạt động truyền thông,
lễ hội diễn ra sôi động; hội họp tranh luận cởi mở; sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo
được Nhà nước quan tâm tạo điều kiện phát triển...
Trên thực tế ở nhiều lĩnh vực đời sống xã hội đã khẳng định rằng ở đâu có
dân chủ, ở đó có đoàn kết, đồng thuận và phát triển. Tại Đại hội X Đảng ta tiếp
tục khẳng định: “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân”1. Dân chủ XHCN gắn liền với Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện trên thực tế để người dân
phát huy quyền làm chủ trong bàn bạc xây dựng các quyết sách và thực hiện
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển đất nước. Hiện nay, trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, song song với phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN hơn bao giờ hết phát huy dân chủ XHCN phải đảm
bảo giữ vững ổn định chính trị, là tiền đề quan trọng để phát triển toàn diện đất
nước, vì mục tiêu cao nhất là xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh”.
_________________________________________________________________

(1) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr 44

2


CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Thị trưòng là gì?
Có nhiều định nghĩa về thị trường
+ Thị trường là cơ cấu và nơi để tiến hành lưu thông hàng hoá;
+ Thị trường là tổng hoà của tất cả các quan hệ trao đổi giữa những nhà sản
xuất và tiêu dùng hàng hoá;
+ Thị trường là yếu tố trao đổi ở vào vị trí môi giới và vị trí trung tâm
trong các khâu của tái sản xuất xã hội theo mô hình kinh tế hàng hoá;
+ Thị trường là cơ chế điều tiết và phương thức vận hành. Giả sử toàn bộ
đời sống kinh tế xã hội đều được tiến hành thông qua hình thức tiền – hàng thì thị
trường sẽ trở thành cơ chế điều tiết và phương thức vận hành cơ bản của nền kinh
tế này.
Nói một cách khác, thị trường là khái niệm chỉ tổng hoà của nơi diễn ra
trao đổi và quan hệ trao đổi của mọi hàng hoá và dịch vụ.
2. Kinh tế thị trường là gì?
Theo Giáo sư, Tiến sỹ Chu Văn Cấp - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh:
Là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh
tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế – xã

hội, mà còn là những quan hệ kinh tế – xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố
của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy,
chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung,
thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế – xã hội, tách rời khỏi chế độ
chính trị – xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường
3


khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội
mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát
triển của nền kinh tế đó.
3. Nền kinh tế thị trường là gì?
Nền kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Đa dạng các hình thưc sở hữu, các thành phần kinh tế, các hình thức tổ
chức kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp, hộ kinh doanh là một chủ thể kinh tế độc
lập, tự chủ sản xuất kinh doanh. Quyền tự do kinh doanh, bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tôn trọng.
+ Các yếu tố sản xuất (vốn, lao động, vật tư, nguyên liệu, thiết bị…) và
các sản phẩm do sản xuất tạo ra đều trở thành hàng hoá được lưu thông tự do trên
thị trường. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở.
+ Hệ thống thị trường với các qui luật cung - cầu, qui luật giá trị, qui luật
cạnh tranh…là yếu tố trực tiếp tác động, điều tiết hoạt động của các doanh
nghiệp, các chủ thể kinh tế , là cơ sở cho sự phân bổ các nguồn lực kinh tế của xã
hội.
+ Nhà nước quản lý kinh tế, điều tiết, tác động hoạt động của các doanh
nghiệp, các chủ thể kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, các công cụ điều
tiết vĩ mô và bằng cả lực lượng của một chủ thể kinh tế lớn.
4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo qui luật của thị trường, vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn

dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất XHCN.
Trong nền kinh tế này, một mặt những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị
trường, với tất cả các qui luật của nó như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui
luật cạnh tranh, phải được bảo đảm tuân thủ đầy đủ, mặt khác phải bảo đảm tác
động đầy đủ của các yếu tố của tính định hướng XHCN của nó. Trong mối quan
hệ biện chứng này, các ưu thế, các quan hệ của kinh tế thị trường được sử dụng
để phát triển tối đa lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế, đồng thời bằng các yếu
tố định hướng XHCN chúng ta khắc phục được những khuyết tật vốn có, hạn chế
4


những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sử dụng các thành tựu kinh tế vào
mục đích nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện mục
tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là sự gán ghép khiên
cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Những nội dung
của định hướng XHCN như đã được xác định ở trên thể hiện trong kết cấu và
mục tiêu vận động của nền kinh tế và có sự tương đồng rất cao với những yêu cầu
đặt ra trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
II. Dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1. Dân chủ là gì?
Theo tiếng Hy Lạp từ thời cổ đại, dân chủ là sự kết hợp giữa hai từ Demos
+ Kratos có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ
những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Dân chủ có nghĩa là dân là
chủ, dân làm chủ .Đến thế kỷ thứ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp
cổ để đưa ra thuật ngữ “democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”, một trong
những hình thức chính quyền với đặc trưng là chính quyền nhà nước phải thừa
nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân.
Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin: Chủ nghĩa Mác –Lê nin kế
thừa những những nhân tố hợp lý từ những hoạt động thực tiễn và nhận thức của

nhân loại về dân chủ và cho rằng, dân chủ là một chế độ xã hội mà quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Nghĩa là : Dân chủ là một phạm trù chính trị, sự khái quát thực tại các xã
hội có hoạt động chính trị và quan hệ chính trị, giai cấp.
Dân chủ bao gìơ cũng mang bản chất của một giai cấp, gắn liền với chuyên
chính của một tập đoàn người này đối với một tập đoàn người khác; phản ánh lợi
ích của giai cấp thống trị, cuộc đấu tranh giai cấp giành, giữu chính quyền, trấn
áp, đè bẹp sự phản kháng của giai cấp đối kháng và các lực lượng thù địch;
không có thứ dân chủ trừu tượng, phi giai cấp, siêu giai cấp, ngoài giai cấp.

5


Dân chủ là một hình thức nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền bình đẳng
giữa các công dân, mọi người có quyền ngang nhau trong công việc xác định cơ
cấu nhà nước và quản lý nhà nước, những cơ quan cơ bản của nhà nước do dân
bầu cử mà ra. Dân chủ là một phạm trù lịch sử, nó không thể xuất hiện khi xã hội
chưa nẩy sinh giai cấp, nhà nước và sẽ mất đi khi xã hội không còn giai cấp, nhà
nước. V.L. Lênin khẳng định: “ Dân chủ chỉ là một trong những phạm trù thuộc
riêng lĩnh vực chính trị thôi”2 và “ Dân chủ tức là chính quyền của nhân dân”3
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa.
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị-nhà nước của xã
hội. Nó thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là
chủ thể của quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hoá thành các
qui định mang tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà
nước cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ”4
Nội dung cơ bản nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quan điểm “tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định dân chủ gắn
liền với quyền làm chủ của nhân dân, dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ.
Người viết: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 5
_________________________________________________________________
(2) V.L,Lênin Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva. T42, tr.258
(3) V.L,Lênin Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva. T39, tr.86
(4).Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết X của Đảng , NXB Chính tri Quốc gia, tr100
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002,t.5, t.r698

6


Đây là tư tưởng hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh, khẳng định bản chất
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là đỉnh cao của nền dân chủ, vì dân chủ chủ nô chỉ
đảm bảo quyền tự do dân chủ cho giai cấp chủ nô và một phần cư dân tự do, còn
người nô lệ không có quyền đó; dân chủ tư sản chỉ dừng lại ở qui định quyền tự
do, bình đẳng của công dân, chưa ghi quyền làm chủ xã hội của nhân dân.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn luôn xác định phát huy dân chủ trong xã hội là một nội dung
lớn của đường lối cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, khẳng
định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Sự khác biệt giữa dân chủ XHCN và dân chủ tư sản chủ nghĩa
Hai nền dân chủ này có sự khác biệt nhau về chất: Dân chủ XHCN là nền
dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho đại đa số; còn dân

chủ tư sản là nền dân chủ cho thiểu số.
Dân chủ XHCN là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân,
nhưng nó phục vụ cho đa số. Bởi vì, lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với
lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc; còn dân chủ tư sản mang bản chất
của giai cấp tư sản đối lập với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Dân chủ XHCN là nền dân chủ do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhất
nguyên về giá trị; còn dân chủ tư sản do các đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo, đa
đảng về chính trị.
Dân chủ XHCN được thực hiện thông qua Nhà nước pháp quyền XHCN;
còn dân chủ tư sản được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền tư sản.
Dân chủ XHCN được thực hiện trên cơ sở kinh tế là công hữu hóa các tư
liệu sản xuất chủ yếu; còn dân chủ tư sản được thực hiện trên cơ sở kinh tế là chế
độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn XH đó là chế
độ áp bức bóc lột. Như vậy chúng ta cũng đã hiểu được sự khác biệt giữa dân
chủ XHCN và dân chủ tư sản.
7


CHƯƠNG II
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
XHCN Ở VIỆT NAM
I.-/ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Những đột phá tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta.
Thành tựu lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta được kết tinh trong văn
kiện các Đại hội Đảng. Đó cũng là sự phản ánh thành tựu chung của giới lý luận
nước ta về vấn đề này. Nó gắn liền từng bước với tổng kết thực tiễn trong nước là
chính, kết hợp với tham khảo chọn lọc những kinh nghiệm nước ngoài. Sự hình
thành và phát triển tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta là một quá trình

lâu dài, được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng, đến nay còn đang tiếp tục và sẽ
chưa sớm kết thúc.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của
tư duy lý luận về nền kinh tế thị trường.
Ý nghĩa quan trọng của Đại hội VI của Đảng về phương diện này thể hiện
trên hai mặt:
Một, sự phê phán triệt để cơ chế cũ tập trung quan liêu bao cấp, mở đường
cho cơ chế mới xuất hiện.
Hai, bước đầu hình thành tư duy lý luận "nền kinh tế hàng hóa".
Đến năm 1991: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991) hoàn thiện hơn tư duy lý luận về nền kinh tế hàng hóa.
Đại hội VIII ( 1996) chủ trương “ Xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với vai trò quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
8


Bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta là tại
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) lần đầu tiên nêu lên khái niệm nước ta đang
thực hiện "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" 6. Khái niệm đó
về thực chất không khác mệnh đề mà Đảng ta nêu lên trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: "Phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
2/ Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường phát triển từ sơ khai đến
hiện đại là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao
đổi. Đó là trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được, chứ không phải là phát
minh của chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường

trên thực tế đã tỏ rõ nhiều lợi thế nhưng đồng thời cũng bộc lộ những khuyết tật
cần khắc phục. Nhờ có cơ chế thị trường, việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực
của nền kinh tế đã có hiệu quả hơn. Động lực lợi ích kinh tế đã phát huy tác dụng
mạnh hơn, cơ chế quản lý mới đã được vận hành và ngày càng tham gia đầy đủ
hơn phân công lao động ở trong nước và quốc tế.
Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường không những không làm hạn chế khả năng thu hút, đầu tư xây
dựng đất nước, mà còn thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội
lực gắn với khai thác cao nhất nguồn lực bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại đưa đất nước ta vững bước đi lên.
Trước những lợi ích đó Đảng và Nhà nước ta chủ trương chuyển từ nền
kinh tế hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhưng không
phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ bất kì, mà là một nền kinh tế thị trường định
(6) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,

tr 86

9


hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất ở đó vừa kế thừa những thành tựu tiến bộ
trong lịch sử phát triển nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa tư bản, vừa gắn liền
với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường nên chủ nghĩa tư bản đã đạt được
những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao
năng suất lao động xã hội.
Vì vậy chủ nghĩa xã hội cũng phải biết kế thừa và sử dụng các ưu điểm của
kinh tế thị trường, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng thành công
CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò quan trọng. Đối với nước ta muốn

chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì
không còn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường khắc phục được nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, đẩy mạnh phân công
lao động xã hội phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến
khích ứng dụng công nghệ - kĩ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số
lượng, chủng loại, hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản suất, mở rộng
giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy
tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời
tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm. Vì
vậy phát triển kinh tế thị trường được coi là những viên gạch đầu tiên để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá xã hội chủ nghĩa
Bởi vì, kinh tế thị trường thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trên cơ sở
khơi dậy nguồn tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân ta để sản xuất và nâng cao
đời sống nhân dân. Sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, sự chuyên
môn hoá ngày càng sâu tiến tới sự phân công và hợp tác quốc tế. Trong khi đó
nước ta chuyển sang chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, kinh tế xã hội còn
nghèo nàn lạc hậu chưa có cơ sở để đảm bảo thực hiện thành công chủ nghĩa xã
hội. Kinh tế thị trường còn là sự tồn tại của những chủ thể kinh tế độc lập tự chủ
trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập
trung hoá.
10


3. Tính định hướng XHCN
Kinh tế thị trường là con đường dẫn tới giàu có, văn minh, là bạn đồng
hành của chủ nghĩa xã hội, nhưng nó cũng có thể dẫn đến chệch hướng xã hội
chủ nghĩa, tự phát đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trái với mục tiêu mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Vì vậy cần định hướng xã hội chủ nghĩa cho kinh
tế thị trường để kinh tế thị trường phát triển phục vụ cho xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể
hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường. Như trên đã phân tích,
trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường
này với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu
kinh tế – xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối
sự vận động của nền kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân.Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ.Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới"7
(7) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1991, tr 8-9

11


Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc
thời kỳ quá độ là : xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa
xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm
cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN

Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và phân phối.
“ Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.” 8
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì
mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi
nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
________________________________________________________________
(8) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr
77

12


chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên
cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự
công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được
tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát
triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học,
công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng
số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung

sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với
các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao
động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền
kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta là phương tiện để thực hiện xã hội hóa xã hội chủ
nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân,
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở
chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công
bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển. Thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động
viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo.
“ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo
dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” 9.
(9) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr
77

13


Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm
nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp
nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và

hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị
trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể luận giải ba điểm
trên như sau:
Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt lõi của kinh tế
thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường theo quy luật thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dựa trên nhiều hình thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại
diện chủ sở hữu, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ
sở hữu công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò
nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành
nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng,
đan xen, hỗn hợp.
Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực
bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Bên cạnh đó phải chủ động
đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để chúng trở
thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế
khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải
được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch
vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh – quốc phòng, mà các thành phần kinh tế
khác không có lợi thế hoặc đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng
cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công
bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
14


Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách xã hội.

Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo
đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ
động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này
là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh
phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội
bình thường cho sự phát triển kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và
nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo
tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội… trong đó, phải làm sao để quan hệ
phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo. Thừa nhận sự tồn tại của các hình
thức thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng không để
chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự
phân hóa xã hội thành hai cực đối lập.
- Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt,
Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người
giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng,
miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.
Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp
cho người giàu, khuyến khích người có tài năng.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà nước
xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối thu
nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm công bằng xã hội; thị trường có
những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ phân phối
trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý, điều tiết của Nhà
nước.
15


Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực

hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại
thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát
triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối tượng của các chính sách xã hội là toàn thể nhân dân, bởi vậy các
chính sách ấy bao gồm: Chính sách lao động và việc làm ;Chính sách xóa đói,
giảm nghèo ; Chính sách an sinh xã hội; Chính sách phòng chống các tệ nạn xã
hội.
Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân
thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định
hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương
châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung tâm" và quản lý
kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường;
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn
thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã
hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng) để
hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và các chương
trình phát triển kinh tế – xã hội đã đặt ra;
16


- Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế, nó

bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là sắp xếp,
củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu công nghiệp tập trung,
các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị
trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ
kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần cân
nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường
được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị
trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn
phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó
nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương
trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật
và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần
tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.
II-/ Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
1. Không ngừng mở rộng dân chủ trong nhân dân
Quan niệm về dân chủ được mở rộng: Dân chủ được xem xét ở nhiều khía
cạnh: dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là quyền tham gia quản lý Nhà nước và
xã hội của công dân, là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; trong đó
quyền của mỗi cá nhân; coi trọng cả dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ
trong các lĩnh vực văn hoá xã hội. Điều này phản ánh bước chuyển từ thể chế
17


chính trị dựa trên áp lực, tuân thủ mệnh lệnh trước đây sang thể chế hợp tác, đồng

thuận, đồng trách nhiệm. Người dân có nhiều lợi ích chính đáng cần được tôn
trọng và bảo vệ. Đặc biệt, dân chủ còn là mục tiêu, là động lực mạnh mẽ cho sự
phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta khẳng định: Mở rộng dân chủ phải đi đôi
với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm,
nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật; khắc phục tình trạng vô kỷ
luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối.
Nhiệm vụ này cũng đã được chúng ta thể chế hoá cụ thể trong Hiến pháp:
Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công
việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ
chức đời sống công cộng. Chính điều đó đã phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm cho người dân vừa thực hiện quyền làm chủ gián tiếp thông qua
nhà nước, vừa làm chủ trực tiếp ở cơ sở.
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền lực nhà nước đều do dân bầu ra,
chính quyền nhà nước đã trở thành công cụ sắc bén và có hiệu quả nhất để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình chủ yếu bằng nhà nước, đó là dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp). Quyền
làm chủ của nhân dân còn được thực hiện một cách trực tiếp thông qua việc tham
gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy nhà nước, quyết định các
chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp... Tuy nhiên, mức độ thực hiện
dân chủ trực tiếp còn phụ thuộc vào phẩm chất, trình độ, năng lực của chính
quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là trình độ văn hoá chính trị, văn
hoá pháp luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền thống chính trị của dân tộc... Như
vậy, thực hiện dân chủ phải là một quá trình lâu dài, từ thấp đến cao. Không thể
và không bao giờ có “dân chủ tuyệt đối” hay “dân chủ nói chung”, đặc biệt là
không thể có ngay và trên mọi mặt dân chủ trực tiếp trong điều kiện quá độ lên
chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nhất là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước
ta hiện nay, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ
18



đại diện, đồng thời thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng
hướng, có hiệu quả.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua đại biểu của mình (dân chủ
gián tiếp), đồng thời phát huy cao độ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân thông
qua các tổ chức quần chúng, xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở. Cụ thể là:
- Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử; nâng cao chất lượng
hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để các cơ quan
này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước
trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và của
từng địa phương.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới và thực hiện dân chủ hoá, các cơ quan
Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã có những chuyển biến tích cực, gần gũi hơn với
cử tri, tại các kỳ họp của các cơ quan này, nhiều vấn đề đã được đưa ra thảo luận
một cách thẳng thắn, công khai, nhiều ý kiến của cử tri được tiếp thu và thảo luận
nghiêm túc, công tác kiểm tra, giám sát đối với các quyết định của các cơ quan đó
cũng được đẩy mạnh...
Tất cả những điều này đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
- Đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên
quan trực tiếp đến đời sống nhân dân.
- Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp
cơ sở.
2. Phát huy dân chủ XHCN
Xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh, do nhân dân lao động làm chủ...Dân chủ XHCN
gắn liền với Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Như vậy, dân chủ XHCN nằm trong hệ mục tiêu của đổi mới, thể hiện bản
chất ưu việt của CNXH. Để đi lên CNXH, cùng với phát triển kinh tế thị trường
19


định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ
XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh...
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân được Đảng ta tổng kết là một trong năm bài học lớn của đổi
mới.
Phát huy dân chủ XHCN, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữ Đảng, Nhà
nước và nhân dân, thể hiện bản chất và tính ưu việt của chế độ mới:
+ Đảng thông qua nhà nước dể lãnh đạo toàn xã hội, theo con đường XHCN;
+ Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hoá quan điểm, đường lối
của Đảng thành chính sách và luật pháp, tổ chức quản lý và điều hành xã hội để
thực hiện đường lối của Đảng.
+ Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có sự tham
gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân.
+ Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng,hoạch định và thi hành
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm đổi mới, có
thành tựu của phát huy sức mạnh nền dân chủ XHCN. Cùng với việc kiểm điểm
đánh giá tình hình, vấn đề dân chủ được đề cập đậm nét trong Văn kiện Đại hội
X, khẳng định : “dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa đảng,
Nhà nước và nhân dân”
Đảng ta nhận thức rằng, dân chủ XHCN thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân

được thực hiện, nhân dân là chủ thể của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về
nhân dân, Nhà nước là người nhận quyền lực xã hội do nhân dân ủy giao phó để
tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của
nhân dân, làm điều lợi, tránh điều hại cho dân, chăm lo phát triển sức dân, bồi
dưỡng và tiết kiệm sức dân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân là
20


người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm
tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân có quyền làm chủ thì
đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ. Một nền dân chủ chân chính, tiến bộ
và hiện đại bao giờ cũng gắn liền quyền với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm. Đó
là quan hệ mật thiết không thể tách rời, nó thấm nhuần trong các quan hệ giữa
công dân với Nhà nước, cá nhân với xã hội, thành viên với cộng đồng. Tất cả
được luật pháp điều chỉnh, điều tiết, chi phối để dân chủ không biến dạng thành
các hành vi phản dân chủ.
Dân chủ là động lực cho sự nghiệp đổi mới vì dân chủ hoá đời sống xã hội
sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi con người, làm cho mọi tiềm
năng sáng tạo được tự do phát triển; mọi người dân được tham gia vào các quá
trình chính trị, xã hội trên tất cả các khâu, từ hoạch định đường lối dến triển khai,
tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra và tổng kết...Nhờ đó, những vấn đề nảy sinh
được phát hiện kịp thời, các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo ra sự phát triển
mạnh mẽ của đất nước.
Việc xác lập nền dân chủ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là phù
hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Để có dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện một đảng cầm quyền, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ ở cấp Trung
ương với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; trong đó, dân chủ ở cơ sở có tính chất
nền tảng, dân chủ ở cấp Trung ương có tính chất quyết định. Dân chủ ở nước ta,
trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa do nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị đã động viên sự tham gia của
công dân vào công việc của Nhà nước ở cơ sở, trong các hoạt động đa dạng nhằm
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công
dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Bài học lớn về dân chủ là
phát huy tối đa nội lực và ý thức tự lực tự cường của nhân dân; vai trò quan trọng
của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan đảng và
nhà nước; dân chủ đi đôi với việc chấp hành pháp luật, kỷ cương.
21


CHƯƠNG III
MỐI QUAN HỆ GIỮA XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VỚI
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NỀN DÂN CHỦ XHCN
Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác Lênin: Chủ nghĩa Mác Lênin kế thừa
những những nhân tố hợp lý từ những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân
loại về dân chủ và cho rằng, dân chủ là một chế độ xã hội mà quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Vì vậy muốn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thì phải xây dựng nền dân chủ XHCN, một nhà nước trong sạch
vững mạnh, đại diện quyền lợi của đại bộ phận nhân dân lao động.
1/ Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước dân
chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước dân chủ, trong đó nhà nước
pháp quyền được đề cao có từ rất sớm. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX
khi viết Việt Nam yêu cầu ca, Người đã coi trọng vai trò của pháp quyền. Tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền thể hiện trên những nội dung chính:
+ Nhà nước Việt Nam phải là Nhà nước dân chủ triệt để. Đó là nền dân chủ
đề cao nhân dân, nhân dân làm chủ thể “mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”, được thực hiện triệt để cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
+ Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước pháp quyền hợp hiến, hợp

pháp. Ngay ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ
Chí Minh đã đề ra hai nhiệm vụ liên quan đến xây dựng Nhà nước pháp quyền và
xây dựng hiến pháp để xác lập nền tảng dân chủ và Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
của Việt Nam.
+ Hệ thống pháp luật của Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ,
hướng tới các giá trị nhân văn. Theo Hồ Chí Minh pháp luật của ta là pháp luật
thực sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền dân chủ tự do rộng rãi của nhân dân lao
động. Để thực hiện quyền tự do của mỗi người, dể thực hiện nhiệm vụ đó, Nhà
nước phải thực sự của dân, chăm lo đến lợi ích của nhân dân.

22


+ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền con người.
2-/ Mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam.
Ðảng ta đã xác định, xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là
động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan
hệ gắn bó máu thịt giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của
Ðảng, đất nước ta đang đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN chính là hoàn thiện
cơ chế phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo nên động lực to lớn
phát triển đất nước. Do vậy, giữa phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN có mối quan hệ
chặt chẽ, biện chứng.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải luôn luôn xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là bản chất
của xã hội mới, là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân. Để làm được việc này chúng ta phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Bởi, đất nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, mà Nhà nước của ta là Nhà nước pháp quyền : Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Muốn giữ được sự phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường Việt Nam, chúng ta cần tới một nhà nước trong sạch,
vững mạnh, vì dân, mang đậm tinh thần cộng sản đích thực.
Vì vậy, vai trò của Nhà nước rất quan trọng trong việc đề ra các chính sách
phát triển đất nước, vì lợi ích quốc gia hay nói cách khác vì lợi ích của đại bộ
phận nhân dân lao động. Điều này được thể hiện rõ trên các mặt:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình
thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng (công
23


hữu, toàn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế
quốc dân.
Kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách xã hội. Muốn cho
nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các
vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực
hiện và điều tiết các quan hệ phân phối.
Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển
hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước
điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Điều đó khẳng định muốn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thì phải xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, nói một cách khác là
muốn phát triển kinh té thị trường định hướng XHCN, muốn thực hiện thành

công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là bài học lấy dân
làm gốc, chính là phát huy nền dân chủ XHCN. Nhân dân làm chủ thông qua nhà
nước, và thông qua các tổ chức tự nguyện của nhân dân như Mặt trận Tổ quốc và
caá tổ chức chính trị, xã hội. Bởi vậy, phát huy cao độ vai trò của các tổ chức này
sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của nền dân chủ mới ở đất nước ta.
Và khi nền dân chủ XHCN càng được xây dựng hoàn thiện, quyền dân chủ
của nhân dân càng được phát huy, thì sức mạnh của nhân dân càng được tăng
cường; nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước để thực hiện
thành công những mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát
huy mọi sáng kiến của nhân dân là một trong những cơ sở thực tiễn để tiếp tục
hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà
nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham gia một
cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong mọi hoạt
24


động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị kịp
thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ:
“Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện
pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham những, lộng quyền, vô
trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân”
Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta, thực hiện dân chủ là thực chất, là
mục tiêu, động lực của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nói riêng, của
công cuộc đổi mới nói chung. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách
của thực tế xây dựng Nhà nước ta hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có như vậy chúng ta mới
có thể giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta nhằm ngăn chặn,

đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu
nhân dân trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế
độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh và
có hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng được chính
quyền trong sạch, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, an ninh, quốc phòng để từ đó, tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thế nhưng thực hiện dân chủ phải đúng pháp luật, như đã nói, là công cụ
đầy hiệu lực của quản lý, bảo đảm cho quyền lực của nhân dân được thực hiện,
thông qua sức mạnh của Nhà nước. Pháp luật không tách rời dân chủ, cũng như
không có dân chủ nào ở bên ngoài pháp luật. Đó là một chỉnh thể toàn vẹn. Sự
vận động và phát triển lành mạnh của dân chủ đòi hỏi sự hiện diện của Nhà nước
pháp quyền XHCN, trong đó, pháp luật là giới hạn, là hành lang vận động của
dân chủ. Mọi tổ chức trong xã hội, mọi công dân và công chức phải hoạt động
theo đúng chuẩn mực luật pháp, hợp hiến và hợp pháp. Sự kiểm soát, điều tiết
hành vi của mỗi cá nhân cũng như hoạt động của từng tổ chức không chỉ có sự
tác động của luật pháp, mà còn được định hướng bởi đạo đức. Điều đó làm nổi
bật đặc trưng pháp lý và nhân văn của dân chủ XHCN.
25


×