Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.53 KB, 118 trang )

`

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO

8

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo
1.2. Chủ thể, đối tượng và nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo

8
27

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NINH BÌNH

2.1. Thực trạng hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo ở Ninh Bình

39


39
45

Chương 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NINH BÌNH

73

3.1. Dự báo tình hình và quan điểm về quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với hoạt động tôn giáo
3.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước bằng

73

pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

83

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

104
106


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, đến nay đã có 35 tổ chức tôn
giáo thuộc 12 tôn giáo khác nhau được đăng ký hoạt động, công nhận tư cách
pháp nhân. Với hơn 20 triệu tín đồ (chiếm khoảng 25% dân số), trong đó Phật
giáo khoảng 10 triệu người, Công giáo 6,1 triệu, Cao Đài 2,4 triệu, Hoà Hảo
1,2 triệu, Tin Lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000 tín đồ…[4]. Ngoài
ra, một bộ phận nhân dân xác định tín ngưỡng như một nhu cầu trong đời
sống tinh thần. Ngay từ khi Cánh mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm và từng bước hoàn thiện các chính sách tôn giáo, tăng
cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bằng pháp luật; định
hướng cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng vai trò, mục đích của các tôn
giáo trong đời sống nhân dân; kiên quyết uốn nắn nhận thức lệch lạc, những
khuyết điểm nhằm thực hiện triệt để tinh thần đại đoàn kết toàn dân vì sự
nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Tuy nhiên, hiện nay tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
những mâu thuẫn, bất đồng giữa các dân tộc và tôn giáo đang diễn ra ở nhiều
nơi. Ở Việt Nam, tình hình tín ngưỡng, tôn giáo thời gian qua cũng có những
diễn biến phức tạp, hoạt động của một số tôn giáo diễn ra không bình thường,
vi phạm một số quy định của Nhà nước như in ấn, phát tán tài liệu; lợi dụng
hoạt động từ thiện, nhân đạo để khuếch trương thanh thế. Hoạt động truyền
đạo trái phép của một số tôn giáo vào vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng
xa ngày càng gia tăng; một số chức sắc các tôn giáo ngấm ngầm chống đối
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trong số những địa phương có những hiện tượng vi phạm pháp luật về
hoạt động tôn giáo, đáng chú ý là khu vực Ninh Bình. Về tôn giáo, trên địa
bàn tỉnh có 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo, nhìn chung các hoạt


2

động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh diễn ra bình thường, cơ bản tuân thủ
pháp luật. Nhưng, thời gian qua, tại Ninh Bình đã xuất hiện những hiện tượng vi
phạm pháp luật về hoạt động tôn giáo, mặc dù chưa có hoạt động cực đoan,
chống đối chính quyền vì mục đích chính trị của các tổ chức tôn giáo. Song, một
số cơ sở tôn giáo đã lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước tự ý lấn chiếm đất đai, vận động một số hộ dân hiến, nhượng đất
không đúng pháp luật, sửa chữa nơi thờ tự, dựng tượng, đúc chuông không xin
phép chính quyền địa phương. Trong khi đó, một số cán bộ cấp uỷ Đảng, chính
quyền cơ sở hiểu chưa đúng về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân;
buông lỏng hoặc cứng nhắc trong xử lý vi phạm của các tổ chức tôn giáo. Trước
tình hình đó, Tỉnh ủy Ninh Bình đã tăng cường chỉ đạo quản lý nhà nước đối với
tôn giáo, nên đã đạt được những thành tựu nhất định.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo còn có nhiều hạn
chế, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu tập trung và đồng bộ; các quy
định pháp luật về việc phân định chức năng quản lý của các cấp chính quyền
không rõ ràng, dẫn đến sự đùn đẩy cho nhau. Điều đó vô tình đã tạo ra
những sơ hở, thiếu chặt chẽ; giải quyết không đúng thẩm quyền. Nhận thức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên về chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo còn hạn chế. Do đó, một số cơ quan quản lý nhà nước
thực hiện chưa đầy đủ các chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc tìm ra những nguyên nhân phát sinh
hiện tượng tiêu cực về tôn giáo và xây dựng phương hướng, giải pháp để nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhằm
vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của quần chúng, vừa đảm
bảo cho chính sách tôn giáo không bị vi phạm, đồng thời đấu tranh chống lại
việc lợi dụng tôn giáo là cần thiết. Do đó, việc chọn đề tài: “Quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện
nay” là hoàn toàn cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.



3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với tôn giáo nói
riêng là một trong những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Từ khi có Nghị
quyết số 24/NQ-TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới của Bộ Chính
trị, ngày 16-10-1990; Nghị quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn giáo, ngày
12-3-2003; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Nghị định số
22/2005/NĐ-CP về việc thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 1-32005. Vấn đề tôn giáo đã được nhiều nhà lý luận chính trị, luật học quan tâm,
đã có nhiều đề tài khoa học, sách chuyên khảo, luận án, luận văn, trong đó có
một số công trình tiêu biểu như:
- “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao
lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay”, Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo
thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998.
- “Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
thiết”, Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 1995.
- “Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo”, Trung tâm nghiên cứu bồi dưỡng nghiệp vụ tôn giáo - Ban Tôn giáo
Chính phủ, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2010.
- “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn
Huyện Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình- Thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sỹ
của Vũ Văn Kiểm (năm 2005)
- “Đảm bảo thực hiện pháp luật tôn giáo của các cơ quan quản lý nhà
nước ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Tài Tâm,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2005.
- “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở Nam
Định hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn
Tấn Cường, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2005.



4
- “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay”, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Đình
Cảm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2009.
- “Hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc
sỹ luật học của Nguyễn Thị Định, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, năm 2010.
- “Thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
ở tỉnh Kon Tum”, Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Quang Phương, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2010.
- “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Tuyên Quang”, Luận văn thạc sỹ luật học Hán Thị Hạnh Thúy, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2010.
- “Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình”, Chuyên đề khoa học, Ban Dân vận Tỉnh ủy Ninh Bình,
năm 2008.
- “Điều tra, khảo sát hệ thống tổ chức và cơ sở thờ tự đạo Công giáo
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”, Chuyên đề khoa học, Sở Nội vụ tỉnh Ninh Bình,
năm 2007.
Ngoài các công trình nêu trên còn có một số bài viết của các nhà khoa
học công bố trên các báo, tạp chí chuyên ngành, như: “Về vấn đề tôn giáo ở
Việt Nam”, Báo điện tử Ban Tôn giáo Chính phủ, ngày 24-6-2009; “Tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ của pháp luật”, của PGS,TS Trần Minh
Thư, Báo Quân đội nhân dân, ngày 16-5-2010; “Công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Ninh Bình 6 tháng đầu năm 2011”, Minh
Phúc, Báo điện tử Ban Tôn giáo Chính phủ, ngày 15-1-2012; “Vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của
Đại hội XI”, của PGS,TS Nguyễn Trọng Tuấn, Báo Điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam, ngày 07-5-2012;...



5
Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số
nội dung về kết quả đã đạt được về công tác tôn giáo nói chung trên cả
nước, chỉ phần nào đề cấp đến tình hình tôn giáo ở Ninh Bình. Đồng thời
cũng có những đánh giá bước đầu về một số hạn chế trong quản lý nhà nước
về tôn giáo ở một số địa phương và ở Ninh Bình, từ đó, bước đầu đưa ra
m ộ t s ố giải pháp chung và địa phương mà công trình nghiên cứu. Các công
trình nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chưa đánh giá được thực trạng
quản lý nhà nước đối với tôn giáo và làm rõ vấn đề đặt ra hiện nay trên lĩnh
vực quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Ninh Bình. Do đó, một số giải pháp
được đưa ra còn thiếu sát hợp và đồng bộ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn
đề tôn giáo ở Ninh Bình là hợp lý nhằm tiếp tục góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo ở Ninh Bình với tất cả các mặt mạnh và hạn chế,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích nghiên cứu, luận văn cần thực
hiện những nhiệm vụ sau: Làm rõ những đặc điểm của tôn giáo ở Ninh Bình;
những thành tựu và hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Ninh Bình trong những năm gần đây, nguyên nhân của thực trạng; nêu
lên một số vấn đề cấp bách đang đặt ra hiện nay có liên quan tới quản lý nhà
nước đối với tôn giáo ở Ninh Bình; đề xuất một số phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Ninh Bình trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản và

thực tiễn về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở
tỉnh Ninh Bình hiện nay.


6
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Công tác tôn giáo bao gồm nhiều
mặt, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đề tài này chỉ giới
hạn trong việc nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn từ năm 2005 - 2012; chủ thể
quản lý là Ban tôn giáo tỉnh Ninh Bình; đối tượng quản lý là các tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của
luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản
lý nhà nước đối với tôn giáo. Đồng thời luận văn cũng tham khảo kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan.
- Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước đối với tôn
giáo ở Ninh Bình, các báo cáo tổng kết công tác tôn giáo của tỉnh Ninh Bình thời
gian qua.
- Để thực hiện luận văn này, tác giả dựa trên phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, trong đó có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh, tổng kết thực
tiễn… nhằm đạt mục đích và hoàn thành những nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Bước đầu phát hiện, làm rõ một số vấn đề tồn tại trong quản lý nhà
nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Đưa ra được một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình chỉ đạo, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn


7
giáo của tỉnh. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ trong chương trình giảng dạy một số chuyên ngành
liên quan đến công tác tôn giáo ở trường Chính trị tỉnh Ninh Bình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO

1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước
Khái niệm quản lý: Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu, nhưng thuật
ngữ “quản lý” cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu. Tùy từng mục tiêu nghiên
cứu khác nhau, dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đưa ra những
quan điểm khác nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là tiến trình bao
gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của
các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ
chức để đạt mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng, quản lý là

sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và
hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Mặc dù có nhiều
quan điểm khác nhau, song thuật ngữ quản lý đều được các nhà nghiên cứu,
nhà khoa học, nhà quản lý thống nhất ở hai nội dung:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động
(vận hành) phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Nói đến quản lý, trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà
chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí
của mình [42, tr.8].


9
Từ những phân tích nêu trên và trên cơ sở kế thừa các khái niệm trước
đó, có thể đưa ra khái niệm về quản lý như sau: “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đã đặt ra từ trước”.
Khái niệm quản lý nhà nước: Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và
bao gồm nhiều loại, trong đó có quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt.
Quản lý xã họi xuất hiện từ khi lao động của con người bắt đầu được xã hội
hóa. Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý
chí của nhà quản lý và quy luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể
tiến hành, khi nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng
nhất do nhà nước đảm nhiệm. Hiện nay, khái niệm quản lý nhà nước được
hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của nhà nước, sử dụng quyền lực

nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hành vi hoạt động của con
người do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến hành
để thực hiện các chức năng nhà nước đối với xã hội.
- Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan
trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp) [42, tr.9].
1.1.1.2. Khái niệm tôn giáo và hoạt động tôn giáo
Khái niệm tôn giáo: Tôn giáo ra đời cách đây khoảng 45.000 năm,
xuất phát từ việc con người vừa kính trọng, vừa sợ hãi những lực lượng siêu
nhiên, nên họ đã thực hiện những lễ nghi hiến tế nhằm tỏ lòng tôn kính và cầu
xin sự che chở, giúp đỡ của đấng siêu nhiên tối cao.
Khái niệm tôn giáo bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (tiếng Anh) và
“legere” (tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Vào
đầu công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, khái niệm “religion” chỉ mới là


10
riêng của đạo Kitô. Bởi lẽ, đương thời những đạo khác Kitô đều bị coi là tà
đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự ra đời của đạo Tin Lành, tách ra từ Công giáo,
“religion” trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ cùng một chúa. Với sự
bành trướng của chủ nghĩa tư bản khỏi phạm vi Châu Âu, tiếp xúc với các tôn
giáo thuộc các nền văn minh khác Kitô giáo, thuật ngữ “religion” được dùng
nhằm chỉ các hình thức khác nhau trên thế giới. Như vậy, thuật ngữ tôn giáo
ban đầu được sử dụng ở Châu Âu nhằm chỉ một tôn giáo, sau đó thuật ngữ
này lại làm nhiệm vụ chỉ những tôn giáo.
Bản thân thuật ngữ tôn giáo cũng có một quá trình biến đổi về nội
dung, khi khái niệm này trở thành phổ quát trên toàn thế giới thì lại vấp phải
những khái niệm truyền thống không tương ứng của những cư dân thuộc các
nền văn minh khác, vì vậy, trên thực tế, đã xuất hiện rất nhiều quan niệm,
định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc và nhiều tác giả trên thế

giới. Căn cứ vào các dấu hiệu đặc trưng, tôn giáo được định nghĩa là: “niềm
tin vào cái siêu nhiên”; Các nhà thần học thì cho rằng: “Tôn giáo là mối liên
hệ giữa thần thánh và con người”; một số nhà tâm lý học lại cho rằng: “Tôn
giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự
cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo” [41, tr.2].
Một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trước Mác, L. Phơ - bách, đã
đưa ra luận điểm: Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo sáng
tạo ra con người. Thượng đế không phải là cái gì khác hơn dự “phóng rọi” của
chính bản thân con người, con người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào thì Thượng
đế của họ đúng như vậy, con người có bao nhiêu giá trị thì Thượng đế cũng chỉ
có bấy nhiêu, “con người tư duy thế nào thì Chúa của họ cũng như thế”. Ý thức
về Chúa là ý thức con người rút ra về bản thân nó [39, tr.3]. Theo Mác, hạn chế
của Phơ - bách là chỉ ra con người là trừu tượng, chung chung, chứ không đề
cập đến “con người lịch sử thực sự”, chưa thấy được “tinh thần tôn giáo” bản
thân nó là sản phẩm xã hội. Đồng thời Mác đã đưa ra khái niệm mang khía


11
cạnh bản chất xã hội của tôn giáo rằng: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là
tinh thần của những điều kiện xã hội không có tinh thần; tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” [43, tr.570].
Khi nghiên cứu về tôn giáo, với quan điểm duy vật biện chứng,
Ăngghen đã kết luận một cách khoa học về tôn giáo như sau:
Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong
đầu óc của con người -của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc
sống của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu nhiên trần thế [44, tr.437].
Ở phương Đông, đầu thế kỷ thứ XVIII, thuật ngữ “religion” du nhập
vào Nhật Bản và được dịch thành “Tông giáo”, rồi từ đó du nhập sang Trung

Quốc. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, thuật ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa
hoàn toàn khác, nó nhằm chỉ đạo Phật (Giáo: là lời thuyết giảng của Đức
Phật; Tông: lời của các đệ tử Đức Phật). Thuật ngữ Tông giáo được du nhập
vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị nên
được gọi là “Tôn giáo”. Cho đến nay, khái niệm này chưa được giải thích cụ
thể trong văn bản pháp luật hay văn bản quản lý nhà nước về tôn giáo. Tuy
nhiên, cũng đã có một số công trình nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra khái
niệm về tôn giáo như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2004 thì
tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên
cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có
những lực lượng siêu tự nhiên định đoạt tất cả, con người phải phục
tùng và tôn thờ; Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay
những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự
sùng bái ấy [66, tr.1011].
Khi nghiên cứu về tôn giáo, GS Đặng Nghiêm Vạn đã đưa ra khái niệm:


12
Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang
tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động
qua lại một cách siêu thực (hay hư ảo), nhằm lý giải những vấn đề
trên trần thế, cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện
rất đa dạng, tùy thuộc vào thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn
hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận
hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của
từng cộng đồng xã hội/tôn giáo khác nhau [64, tr.136].
Thực tế cho thấy, dù quan niệm, thái độ, nội dung về tôn giáo có khác
nhau và luôn luôn thay đổi thì tôn giáo vẫn tồn tại, vẫn là một thực tế khách
quan của lịch sử, nó sinh ra trong xã hội loài người, do con người sáng tạo ra

rồi con người lại bị nó chi phối; tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân loại. Mặc dù việc giải thích khái niệm tôn giáo chưa đồng nhất, tuy
nhiên, nói đến tôn giáo hoàn chỉnh thì có mấy dấu hiệu cơ bản sau: Là nói đến
cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tổ chức khá chặt chẽ.
Khái niệm hoạt động tôn giáo: Hoạt động là khái niệm dùng để chỉ
những việc làm cụ thể, có mục đích của một cá nhân hay một tập thể nhằm
thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của con người. Điều 3, Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo đã khẳng định: Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá,
thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức tôn giáo [63, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền
những lý lẽ về nguồn gốc sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Thông qua
hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong
tôn giáo được tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa phải là tín đồ, hoạt
động truyền đạo giúp họ hiểu, tin theo tôn giáo và thông qua hoạt động truyền
đạo để phát triển thêm số lượng tín đồ.


13
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động tín đồ,
nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin
tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (hay còn gọi là quản đạo) nhằm
thực hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức
tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Ngoài những hình thức hoạt động tôn giáo trên đây, các tổ chức và cá
nhân tôn giáo còn tham gia các hoạt động xã hội khác như: hoạt động từ thiện,
nhân đạo; mở các trường mẫu giáo tư thục, dạy nghề; hoạt động hiến đất,
chuyển nhượng nhà, đất cho giáo hội mở rộng nơi thờ tự...
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt

động tôn giáo
Học thuyết Mác - Lê nin khẳng định pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và
phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật là một công cụ sắc bén để quản
lý xã hội, quản lý nhà nước, vì vậy, các nhà nước trong lịch sử luôn quan tâm
xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm
đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của giai cấp thống trị và các chủ thể khác. Ở
nước ta, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là nguyên tắc mang tính
Hiến định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa; Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật; Mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [48, tr.5].
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quản lý nhà nước về
một lĩnh vực trong xã hội cụ thể, đó là lĩnh vực tôn giáo. Để điều chỉnh các


14
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo, nhà nước cần ban hành pháp luật để điều chỉnh. Pháp luật quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bao gồm tổng thể các văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các
quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Như vậy, pháp luật về quản lý nhà nước đối với tôn giáo là tổng hợp
các quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo
đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Từ lập luận trên, có thể hiểu quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với

hoạt động tôn giáo như sau: Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo là quá trình tác động, điều hành, điều chỉnh có mục đích của
các cơ quan quản lý nhà nước làm cho các quy phạm pháp luật về quản lý
nhà nước đối với tôn giáo đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm
pháp luật để tôn giáo phát triển theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa.
Nội dung của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo có thể chia làm hai nội dung lớn:
Một là, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các hoạt động có tính
chất quản lý tổ chức tôn giáo, bao gồm: Đăng ký hoạt động, công nhận tổ
chức tôn giáo; thành lập, chia tách, sát nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực
thuộc; đăng ký hội đoàn, dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác;
thành lập, giải thể trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên
hoạt động tôn giáo; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách
chức, bãi nhiệm chức sắc tôn giáo; thuyên chuyển nơi hoạt động của chức sắc,
nhà tu hành.


15
Hai là, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động mang tính lễ
nghi tôn giáo và các hoạt động xã hội khác của các tổ chức tôn giáo, bao gồm:
đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm của tổ chức tôn giáo cơ sở; đăng ký
người vào tu; hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo; các cuộc lễ của tổ chức tôn
giáo diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo; giảng đạo, truyền đạo của chức sắc, nhà tu
hành ngoài cơ sở tôn giáo; việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến
trúc tôn giáo; tổ chức quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo; quan
hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc.

1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo có những
đặc điểm của quản lý nhà nước nói chung, ngoài ra nó còn có những đặc điểm
mang tính chất đặc thù được quy định bởi vị trí, vai trò của nó trong đời sống
xã hội, bao gồm các đặc điểm sau:
1.1.2.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
mang tính quyền lực nhà nước
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan
trọng của con người. Điểm khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước và các hình
thức quản lý khác (quản lý của các tổ chức xã hội,...) là tính quyền lực nhà nước
gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần. Từ khi xuất hiện, Nhà nước điều chỉnh
các quan hệ xã hội được xem là quan trọng, cần thiết. Quản lý nhà nước được
thực hiện bởi toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm
thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Nhà nước khẳng định
quyền lực của mình thông qua chức năng quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả
công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực tôn giáo, trong đó có ít nhất một bên là


16
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân hay tổ chức được nhà nước trao
quyền và một bên là tổ chức tôn giáo, cá nhân tín đồ, chức sắc tôn giáo. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ở đây được hiểu là cơ quan được Chính phủ ủy
quyền tổ chức thực thi và chấp hành pháp luật về quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo. Các cơ quan này trực tiếp giải quyết các nhu cầu hoạt
động tôn giáo của tổ chức tôn giáo, cá nhân tín đồ, chức sắc tôn giáo (bao
gồm cả tổ chức tôn giáo, cá nhân tín đồ, chức sắc tôn giáo nước ngoài).

Tính quyền lực nhà nước được thể hiện trong phương pháp điều chỉnh
các quan hệ pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là
phương pháp mệnh lệnh. Qua nghiên cứu các quy phạm pháp luật về quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, có thể thấy đó là mối quan hệ phụ thuộc
của đối tượng bị quản lý (gồm giáo hội và cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành) với người quản lý mà đại diện là Nhà nước. Cách thức tác động của
Nhà nước lên các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo mang tính
quyền uy đơn phương áp đặt lên đối tượng quản lý.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo mang tính
quyền lực nhà nước, bởi vì: Thứ nhất, đây là hoạt động trực tiếp của các cơ
quan nhà nước được giao chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo. Thứ hai, đây là hoạt động được bảo đảm về
tổ chức (bộ máy) chuyên trách, mà tổ chức này được hình thành xuất phát từ
nhu cầu quản lý nhà nước và đòi hỏi phải mang tính khoa học để đảm bảo tính
hiệu quả của hoạt động. Đặc trưng này rất quan trọng cho thấy quản lý nhà
nước không chỉ đơn giản là sự “cai trị”, kiểm soát, hạn chế...mà nó là một quá
trình tổ chức điều hành và điều chỉnh các quá trình xã hội.
Tính chất quyền lực nhà nước, trong quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo thể hiện ở chỗ, chủ thể quản lý trong thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn đã thiết lập quan hệ “quyền uy” và sự “phục tùng” buộc
đối tượng bị quản lý phải tuân theo; có nghĩa là toàn bộ các tác động tổ chức


17
và điều chỉnh của quản lý được tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước.
Quyền lực đó được ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và được bảo đảm bằng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Ví dụ, để xác nhận quyền lực nhà nước trong việc công nhận tổ chức
tôn giáo, pháp luật quy định Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền công nhận
tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương; chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền công nhận tổ
chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Điều này có nghĩa một tổ chức tôn giáo chỉ được coi là hợp pháp
khia đã được nhà nước công nhận.
Như vậy, các tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được
Nhà nước thừa nhận, do vậy, phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Hoạt
động tôn giáo phải tuân thủ những quy định của Nhà nước. Mọi hành vi nhằm
biến các tổ chức tôn giáo thành lực lượng đối trọng với Nhà nước, thoát ly
khỏi sự quản lý của Nhà nước đều là bất hợp pháp. Hoạt động tôn giáo nằm
ngoài khuôn khổ pháp luật của Nhà nước đều phải bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Thực hiện tốt những điều trên, một mặt vai trò quản lý của Nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo được tăng cường, mặt khác, đưa các hoạt
động tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật, định hướng cho tín đồ, chức
sắc tôn giáo đồng hành cùng nhân dân cả nước trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
rộng, phức tạp, liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội và an
ninh, trật tự
Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của pháp luật về quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo rộng, có nội dung điều chỉnh rất đa dạng, liên quan
đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và liên quan đến hoạt
động thuộc chức năng của nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa


18
phương, như: Công an, Ngoại vụ, Tài nguyên - Môi trường...Có thể thấy, bên
cạnh những hoạt động mang tính chất tôn giáo thuần túy, một số hoạt động đã
bị lợi dụng vào mục đích phi tôn giáo, hoặc vi phạm các quy định pháp luật
về những lĩnh vực khác như: xây dựng, đất đai, xuất bản, xuất nhập
cảnh...xâm hại đến lợi ích cộng đồng, xã hội. Vì vậy, đòi hỏi phải xác định

rành mạch, cụ thể chức năng, thẩm quyền của các cấp, các ngành trong nhiệm
vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Có như vậy mới khắc phục
được tình trạng “đùn đẩy”, né tránh trách nhiệm hoặc “lấn sân” nhau khi giải
quyết những vấn đề phức tạp liên quan đến các tôn giáo.
Bên cạnh đó, tôn giáo còn là một hình thái ý thức xã hội, một phạm trù tư
tưởng có quan hệ đến văn hóa, đạo đức, truyền thống của dân tộc; đồng thời tôn
giáo là vấn đề chính trị, nhạy cảm và thường bị chủ nghĩa đế quốc và bọn phản
động lợi dụng phá hoại cách mạng Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 của nước ta
khẳng định “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” [48,
tr.17]. Như vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
không những tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo diễn ra đúng theo quy định của
pháp luật, mà còn là biện pháp đấu tranh, xử lý mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng
tôn giáo chống lại chế độ, xâm phạm an ninh, chủ quyền quốc gia.
1.1.2.3. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
của nước ta có liên quan đến nước ngoài
Hoạt động tôn giáo ở nước ta chịu sự điều chỉnh không chỉ bằng hệ thống
pháp luật trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh bằng các điều ước quốc tế mà
Nhà nước tham gia ký kết hoặc thừa nhận. Đặc điểm này xuất phát là do trong 6
tôn giáo lớn hiện nay thì có 4 tôn giáo là Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Hồi
giáo có nguồn gốc và mối quan hệ với nước ngoài, trong đó:
Phật giáo: Phái Đại thừa du nhập vào Việt Nam thế kỷ thứ II trước
Công nguyên; phái Tiểu thừa du nhập vào Việt Nam thế kỷ thứ II sau Công


19
nguyên. Ở Việt Nam hiện nay, Phật giáo có khoảng hơn 10 triệu tín đồ, với
hơn 20.000 chùa thờ Phật, gần 40.000 tăng, ni, nhiều trung tâm đào tạo chức
sắc tôn giáo. Phật giáo có quan hệ truyền thống với Phật giáo Ấn Độ, Thái
Lan, Hàn Quốc, Phật giáo Srilanca,... và có quan hệ với nhiều tổ chức Phật

giáo quốc tế và Phật giáo ở các nước như: tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa
bình (ABCP), liên đoàn Thân hữu thế giới (WEB).
Công giáo: Được các giáo sỹ phương Tây truyền vào Việt Nam thế kỷ
thứ XV. Công giáo đầu tiên được phổ biến trong các cư dân ven biển Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An...Hiện nay có khoảng 6,1
triệu tín đồ, 6.000 nhà thờ và trên 15.000 chức sắc. Công giáo là một tôn giáo
có tổ chức chặt chẽ từ Tòa thánh Vatican đến các giáo hội ở các nước, trong
đó có Việt Nam. Về tổ chức tôn giáo, các Tòa giám mục ở Việt Nam trực tiếp
chịu sự chỉ đạo của Tòa thánh Vatican.
Tin Lành: Du nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên, tới năm 1920 đạo Tin Lành mới bắt đầu được truyền giáo tại khắp các
vùng của Việt Nam và hiện có khoảng 1,5 triệu tín đồ, 500 nhà thờ Tin Lành.
Trong quá trình hoạt động có quan hệ và chịu sự tác động, chỉ đạo và tài trợ từ
các hệ phái Tin Lành ở nước ngoài.
Đạo Hồi: Truyền vào Việt Nam qua cộng đồng người Chăm vào thế kỷ
X-XI. Hiện nay đạo Hồi ở Việt Nam có khoảng hơn 100 nhà thờ Hồi giáo với
khoảng 100.000 tín đồ, gần 1.000 vị chức sắc tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh
Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Có hai
khối người Chăm theo Hồi giáo: Hồi giáo chính thống bao gồm những người
Chăm theo Hồi giáo ở Châu Đốc, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng
Nai; Hồi giáo không chính thống (hay còn gọi là Chăm Bà Ni) gồm những
người Chăm ở Bình Thuận, Ninh Thuận.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương
hóa, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động đối ngoại nhân dân nói


20
chung, hoạt động quan hệ quốc tế của các tôn giáo nói riêng. Căn cứ vào các
quy định pháp luật hiện nay thì các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức
sắc có quyền thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo quy định của hiến

chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt
Nam. Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ chức tôn giáo, tín đồ,
nhà tu hành, chức sắc phải bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập,
chủ quyền và công việc nội bộ của các quốc gia với nhau.
Mặt khác, Nhà nước cũng cho phép chức sắc, nhà tu hành là người
nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam sau khi được sự
chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương chấp
thuận, phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo của Việt Nam và tuân thủ
quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 38 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo
còn quy định: Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của
Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam cho phép hoạt động tôn giáo của nước
ta được quan hệ với tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài, trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc đảm bảo tôn trọng độc lập, chủ quyền đất nước và phù hợp với
chủ trương của Nhà nước về mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, một trong những điều kiện đảm bảo sự thành công của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân là phải tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật,
việc thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của Hiến pháp và pháp luật của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân là yêu cầu bắt buộc của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


21
Nhận thức vấn đề này, Đảng ta đã xác định: “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có

nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [27, tr.132]. Quan điểm, tư tưởng
trên của Đảng ta đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) là: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”; “mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị
xử lý theo pháp luật” [48, tr.17].
Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi Nhà
nước phải xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu
điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều văn bản
pháp luật phát huy tác dụng tốt, đem lại hiệu quả thiết thực, nhưng vẫn còn
không ít văn bản pháp luật chưa phát huy được hiệu quả thi hành, không
mang lại hiệu quả như mong muốn. Mặt tồn tại đó có nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật. Khi
giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có một khoảng cách
lớn, tức là pháp luật được ban hành với khối lượng lớn mà ít đi vào cuộc
sống, thì sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi thường, không hiệu quả.
Để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phương thức
thực hiện tốt các hoạt động về pháp luật từ khâu xây dựng pháp luật, phổ
biến, giáo dục pháp luật, thực hiện pháp luật, kiểm tra, xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Để pháp luật phát huy hiệu lực, hiệu
quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nước cần tạo lập môi
trường chính trị - xã hội thuận lợi, nâng cao trình độ pháp lý cho cán bộ và
nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời xác lập cơ
chế thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả.
Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
được thể hiện ở những phương diện sau đây:


22
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo đảm bảo

cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường, đưa tôn giáo phát triển
đúng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc nói chung, đối với công tác tôn giáo nói riêng được thể hiện
bằng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Song các chỉ thị, nghị quyết đó không
thể tự tạo ra được môi trường pháp lý cho quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo. Chỉ khi đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng được thể chế hóa
thành pháp luật thì nó trở thành phương tiện của Nhà nước, có sức mạnh bắt
buộc mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật dù có hoàn chỉnh, tốt đẹp đến bao nhiêu
cũng không phát huy được vai trò, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội nếu
không được tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Để pháp luật về quản lý nhà
nước đối với hoạt đông tôn giáo được đảm bảo thực thi trong thực tiễn đời
sống xã hội, cần phải nắm vững các nguyên tắc trong quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo là: đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
trên cơ sở sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi ích quốc
gia, xã hội. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân
được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự đoàn kết
toàn dân, làm phương hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt
động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý theo luật định.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là biện pháp
quan trọng nhất để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Nói đến quản lý trước hết là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ
thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không mang tính đơn lẻ, tự


23

phát mà nó mang tính tổ chức, mục đích rõ ràng. Mục đích mà chủ thể quản lý
đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí của mình.
Trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, Nhà nước có nhiều
phương thức, biện pháp khác nhau như: quản lý bằng pháp luật, bằng tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục, bằng các chính sách kinh tế - xã hội...Trong đó
quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là công cụ hữu hiệu nhất,
bởi vì, pháp luật có tính cưỡng chế, bắt buộc mọi người phải tuân theo, mọi tổ
chức, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Với những đặc điểm riêng của
mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà
nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn
nhất. Mặt khác, Nhà nước cũng dựa vào pháp luật để phát huy quyền lực và
kiểm tra, kiểm soát các cơ quan nhà nước và công dân trong việc tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Một lý do để khẳng định quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo là biện pháp quan trọng nhất trong quản lý nhà nước với hoạt
động tôn giáo, bởi vì chỉ có pháp luật mới tạo được hành lang pháp lý cho các
pháp nhân, thể nhân tôn giáo, quần chúng tín đồ thực hiện các hoạt động tôn
giáo. Với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước đã sử dụng pháp luật để đưa ra
các chuẩn mực pháp lý cho các hoạt động tôn giáo. Các hoạt động tôn giáo vi
phạm pháp luật sẽ bị nhà nước ngăn chặn và xử lý.
Những năm gần đây, trong các tôn giáo ở Việt Nam xuất hiện khuynh
hướng lấn lướt chính quyền, tìm cách tách hoạt động tôn giáo ra khỏi sự quản
lý của Nhà nước. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do
thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo chưa
nghiêm. Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực này,
cần quy định rõ những hoạt động tôn giáo không phải xin phép; những hoạt
động phải xin phép chính quyền và thủ tục phải xin phép; những hoạt động tôn
giáo bị cấm đoán và biện pháp chế tài...Một hệ thống các quy phạm pháp luật



24
hoàn thiện về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là công cụ hữu hiệu
nhất để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo.
Thông qua quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của
công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Giáo dục pháp luật có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng. Vai trò của pháp
luật bắt nguồn từ giá trị xã hội của pháp luật, từ sự hiểu biết và thực hiện
nghiêm túc của các chủ thể pháp luật. Nếu pháp luật là công cụ quan trọng để
Nhà nước quản lý đất nước, quản lý xã hội, là phương tiện để công dân thực
thi nghĩa vụ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì giáo dục pháp
luật giúp cho Nhà nước và công dân biết sử dụng phương tiện đó. Phổ biến,
giáo dục pháp luật có ý nghĩa trực tiếp trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Bởi lẽ “những tri thức pháp lý đúng đắn
sẽ định hướng cho hành vi hợp pháp, là những yếu tố quan trọng trong việc sử
dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, mở rộng
quyền tự do công dân” [67, tr.17-18].
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo là một khâu trong quy trình quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa pháp
luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo vào cuộc sống.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân
chủ hóa đời sống xã hội, thì việc phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo không chỉ dừng lại ở mức cung cấp, phổ biến
các thông tin pháp luật cho mọi đối tượng mà giáo dục pháp luật còn phải đáp
ứng các nhu cầu hiểu biết đa dạng của từng người dân. Nhu cầu hiểu biết pháp
luật một cách cụ thể và thiết thực để bảo vệ lợi ích hợp pháp và giao dịch xã hội
đang là đòi hỏi cấp thiết của từng cá nhân, tổ chức. Cần tăng cường công tác giải
thích pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo để làm sáng tỏ



×