MỤC LỤC
Biểu 1: Tính chất công việc (Đơn vị: %).........................................................28
Biểu 2: Số lượng công việc làm thêm (Đơn vị: %).........................................29
Biểu 3: Công việc làm thêm hiện tại của sinh viên (Đơn vị: %).....................31
Bảng 1: Yêu cầu của công việc làm thêm.......................................................33
Biểu 4: Thời gian đi làm trong tuần (Đơn vị: %)............................................38
Biểu 5: Số giờ làm việc trung bình một tuần (Đơn vị: %)..............................39
Biểu 6: Nhu cầu về loại hình công việc (Đơn vị: %)......................................41
Biểu 7: Tính chất công việc mong muốn của sinh viên. (Đơn vị: %).............42
Bảng 2: Mức độ yêu thích các công việc (Đơn vị: %)....................................43
Biểu 8: Yếu tố quan tâm nhất khi lựa chọn công việc làm thêm. (Đơn vị: %)
.........................................................................................................................44
Biểu 9: Hình thức trả lương (Đơn vị: %)........................................................45
Biểu 10: Nhu cầu về sự đãi ngộ của nhà tuyển dụng (Đơn vị: %)..................47
Bảng 3: So sánh giữa giới tính và nhu cầu làm thêm của sinh viên................54
Bảng 4: Nhu cầu về tính chất công việc xét theo giới tính..............................54
Bảng5: Nhu cầu về thời gian làm việc trung bình một tuần xét theo giới tính
.........................................................................................................................55
Bảng 6: Nhu cầu trả lương xét theo tuổi của sinh viên...................................55
Bảng 7: Nhu cầu thời gian làm việc xét theo tuổi sinh viên............................56
Bảng 8: Nhu cầu làm thêm theo mức độ chi tiêu............................................57
Bảng 9: Nhu cầu làm thêm xét theo nơi ở hiện tại..........................................58
Bảng 10: Nhu cầu làm thêm xét theo điều kiện kinh tế gia đình xuất thân.....59
Biểu 11: Nhu cầu về thời gian làm thêm theo nơi ở (Đơn vị: %)....................61
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 1: Yêu cầu của công việc làm thêm.......................................................33
Bảng 2: Mức độ yêu thích các công việc (Đơn vị: %)....................................43
Bảng 3: So sánh giữa giới tính và nhu cầu làm thêm của sinh viên................54
Bảng 4: Nhu cầu về tính chất công việc xét theo giới tính..............................54
Bảng5: Nhu cầu về thời gian làm việc trung bình một tuần xét theo giới tính
.........................................................................................................................55
Bảng 6: Nhu cầu trả lương xét theo tuổi của sinh viên...................................55
Bảng 7: Nhu cầu thời gian làm việc xét theo tuổi sinh viên............................56
Bảng 8: Nhu cầu làm thêm theo mức độ chi tiêu............................................57
Bảng 9: Nhu cầu làm thêm xét theo nơi ở hiện tại..........................................58
Bảng 10: Nhu cầu làm thêm xét theo điều kiện kinh tế gia đình xuất thân.....59
DANH SÁCH BIỂU
Biểu 1: Tính chất công việc (Đơn vị: %).........................................................28
Biểu 2: Số lượng công việc làm thêm (Đơn vị: %).........................................29
Biểu 3: Công việc làm thêm hiện tại của sinh viên (Đơn vị: %).....................31
Biểu 4: Thời gian đi làm trong tuần (Đơn vị: %)............................................38
Biểu 5: Số giờ làm việc trung bình một tuần (Đơn vị: %)..............................39
Biểu 6: Nhu cầu về loại hình công việc (Đơn vị: %)......................................41
Biểu 7: Tính chất công việc mong muốn của sinh viên. (Đơn vị: %).............42
Biểu 8: Yếu tố quan tâm nhất khi lựa chọn công việc làm thêm. (Đơn vị: %)
.........................................................................................................................44
Biểu 9: Hình thức trả lương (Đơn vị: %)........................................................45
Biểu 10: Nhu cầu về sự đãi ngộ của nhà tuyển dụng (Đơn vị: %)..................47
Biểu 11: Nhu cầu về thời gian làm thêm theo nơi ở (Đơn vị: %)....................61
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo báo cáo Phát triển Thế giới năm 2013, tại các nước đang phát
triển thì việc làm trở thành “nền tảng căn bản cho sự phát triển”, việc làm đem
lại nhiều lợi ích to lớn hơn nhiều so với thu nhập đơn thuần, việc làm có vai
trò quan tròn trong quá trình giảm nghèo, giúp các thành phố vận hành và
giúp lớp trẻ tránh được bạo lực, báo cáo mới của Ngân Hàng Thế giới nhận
định. Tuy nhiên, thực trạng việc làm ở Việt Nam cho thấy tỉ lệ thất nghiệp còn
tương đối cao. Ước tính tới cuối tháng 12/ 2014, tỷ lệ thất nghiệp của lao
động trong độ tuổi năm 2014 là 2.08%. Như vậy, so với nhiều nước trên thế
giới thì tỉ lệ này còn tương đối cao. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15
đến 24 tuổi) năm 2014 là 6.3%, cao hơn so với năm 2013. Tỉ lệ thất nghiệp ở
thanh niên có xu hướng tăng, khu vực thành thị là 11, 49% cao hơn mức
11.12% của năm trước, khu vực nông thôn là 4.63%, xấp xỉ năm 2013. Mặc
dù việc làm có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, nhưng ở
nước ta vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa có việc làm, và lại chủ yếu tập
trung ở lớp thanh niên do đây là giai đoạn chuyển giao từ giai đoạn học sinh
sang giai đoạn bắt đầu trưởng thành, ở giai đoạn này thường có những biến
động chính vì thế mà thanh niên chưa tìm được cho mình một công việc ổn
đinh cho nên tỉ lệ thất nghiệp khá cao. Sinh viên cũng nằm trong độ tuổi thanh
niên, bên cạnh việc tham gia học tập và các hoạt động thì sinh viên cũng
muốn tìm cho mình một công việc để có thể tiết kiệm thời gian rảnh rỗi.
Giá cả các mặt hàng tăng lên khiến đời sống của sinh viên đặc biệt là
sinh viên ở nông thôn trở nên khó khăn hơn. Để vẫn có thể học tập được và
duy trì những thói quen sinh hoạt hằng ngày thì sinh viên đã đi làm thêm để
kiếm thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống của mình.
2
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích học sinh, sinh viên phải kết
hợp giữa việc học với việc thực hành. Vì vậy ngoài học tập lý thuyết thì
ngành nghề nào cũng cần phải có sự thực hành, ngoài việc được dạy chuyên
môn, nghiệp vụ trong nhà trường thì việc sinh viên tích lũy kinh nghiệm qua
thực tiễn trải nghiệm cuộc sống cũng ngày càng được chú trọng hơn. Hơn
nữa, đi làm thêm ít nhiều còn thể hiện sự tự lập của sinh viên. Ở nhiều nước
trên thế giới, sinh viên khi đã vào đại học là sống hoàn toàn tự lập, sinh viên
ra ở riêng với gia đình và tự lập về mọi mặt, điều này giúp cho sinh viên dễ
thích nghi với cuộc sống hơn. Sinh viên tự lo cho cuộc sống của bản thân mà
không làm phiền đến cha mẹ. Sự tự lập của sinh viên ở những nước này giúp
sinh viên trưởng thành hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên điều này chỉ có thể
xảy ra phổ biến ở những nước phát triển như Mỹ, Anh… Còn ở Việt Nam,
sinh viên cũng có nhu cầu sống tự lập, cũng muốn đi làm thêm nhưng rào cản
kinh tế nói chung khiến sinh viên không có điều kiện thực hiện. Không chỉ
sinh viên mà còn rất nhiều người lao động chưa có việc làm. Nhà nước chưa
có nhiều những chính sách hỗ trợ việc làm nói chung đến từng đối tượng.
Hơn nữa, ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì đòi
hỏi một lực lượng lao động phải có thay nghề cao, người sử dụng lao động
ngày càng đòi hỏi lao động có trình độ cao, vì vậy sinh viên muốn có được
công việc như ý muốn của mình với một mức lương phù hợp thì phải đáp
ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Nhưng thực tế lại cho thấy, đa số sinh
viên chưa có nhiều kinh nghiệm để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng.
Vì vậy nhu cầu vẫn chỉ dừng lại ở nhu cầu mà chưa thể đi vào thực hiện.
Xuất phát từ những lý do trên, nhằm cung cấp dữ liệu cho những
nghiên cứu để bổ sung các chính sách về việc làm, tác giả đã quyết định lực
chọn đề tài: “Nhu cầu làm thêm của sinh viên Thành phố Hà Nội hiện nay”
(Qua khảo sát tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền).
3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nhu cầu làm thêm của sinh viên
Thành phố Hà Nội hiện nay”, tác giả tiến hành tổng quan các công trình
nghiên cứu trước đây về việc làm thêm nói chung và việc làm thêm cho sinh
viên để tìm ra hướng tiếp cận mới khác với những đề tài trước đó mà các tác
giả khác đã tiến hành nghiên cứu. Đồng thời, trong quá trình tổng quan tài
liệu, tác giả cũng học tập, kế thừa một số kết quả nghiên cứu để phân tích,
làm nổi bật nghiên cứu mà tác giả thực hiện. Một số tài liệu mà tác giả đã tiến
hành đọc, tham khảo như: Tạp chí xã hội học, báo Lao động thủ đô, các khóa
luận, bài viết trên các trang web có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
1.1.Tình hình nghiên cứu việc làm thêm
Trong một xã hội đang hướng đến một nền công nghiệp nói chung thì
việc tiết kiệm tối đa vốn cá nhân đang ngày được phát huy. Không chỉ dừng
lại ở thời gian làm giờ hành chính mà còn tận dụng các khoảng thời gian rảnh
rỗi khác để tạo ra thu nhập cho bản thân.
Theo báo cáo của Công đoàn bộ khoa học và công nghệ với tiêu đề
“Kéo dài giờ làm thêm – bước lùi khi sửa luật lao động” cho biết có 95% số
lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cho
biết họ có làm thêm giờ, số giờ làm việc trung bình mỗi ngày 1.5 lần, có doanh
nghiệp làm thêm tới 600h/1 năm, vượt mức quy định tới 3 lần. Chủ yếu lý do
khiến người lao động phải làm thêm giờ là do lương thấp, không đủ chi tiêu
cho cuộc sống hàng ngày. Chính vì vậy mà người lao động phải làm thêm giờ.
Năm 2010, số liệu do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản công bố
cho thấy, có 56% người lao động Nhật trong độ tuổi từ 15 đến 34 tuổi cần một
dạng thu nhập khác ngoài mức lương chính để trang trải cho cuộc sống. Có
tới gần 90% cho biết lý do họ chấp nhận đi làm thêm giờ là muốn có thêm thu
nhập.
4
Bài viết “Những công việc làm thêm nói tiếng Việt ở nước ngoài” của
Trang Ami đăng tải năm 2013 đề cấp đến những công việc làm thêm ở nước
ngoài sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt như gia sư tiếng Việt cho người nước
ngoài, thông dịch viên, hay những “công việc không tên” như đưa đón du học
sinh ở sân bay, làm hướng dẫn viên du lịch cho các du học sinh… Tóm lại bài
viết nói tới việc làm thêm sử dụng tiếng Việt ở nước ngoài đem lại thu nhập
tương đối ổn định, người có thể làm những công việc này phải là những người
năng động và có trình độ ngoại ngữ ở mức khá trở lên. [29]
1.2.Tình hình nghiên cứu việc làm thêm của sinh viên
Đề tài khóa luận “Thực trạng làm thêm của sinh viên trên địa bàn Hà
Nội hiện nay” của Nguyễn Thị Tâm Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã
mô phỏng thực trạng làm thêm của sinh viên và những yếu tố tác động đến
viện làm thêm của sinh viên, từ đó đề tài đề xuất một số khuyến nghị đối với
nhà trường và đối với sinh viên và đối với cả xã hội nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất cho sinh viên khi đi làm thêm. [16]
Đề tài khảo sát “Thực trạng làm thêm của sinh viên Đại học Tây
Nguyên” của nhóm sinh viên trường Đại học Tây Nguyên đã chỉ ra rằng có
hai lý do chính khiến sinh viên làm thêm là để kiếm tiền và để rèn luyện bản
thân. Số liệu điều tra của khảo sát cho thấy có tới 78.4% số sinh viên muốn
làm thêm để kiếm tiền tự trang trải cuộc sống, vừa để rèn luyện bản thân,
trong đó thì gia sư là công việc được nhiều bạn sinh viên chọn nhất. Nghiên
cứu cũng chỉ rõ rằng sinh viên tìm việc chủ yếu thông qua sự giới thiệu của
bạn bè (chiếm 44%), thông qua nhà trường chỉ có 8%. [36]
Đề tài “Nhu cầu làm thêm của sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ Đại học quốc gia Hà Nội: Thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Xuân Long
chỉ ra rằng có tới 35.4% sinh viên cho rằng làm thêm là rất cần thiết, có tới
64.2% cho rằng làm thêm là cần thiết.Đề tài cũng chỉ rõ lý do sinh viên đi làm
thêm, lý do chiếm tỉ lệ cao nhất là để rèn luyện chuyên môn, nghiệp vụ chiếm
5
33.3%, tiếp theo là lý do tăng thêm thu nhập chiếm 31.3%. Đồng thời, đề tài
cũng chỉ ra công việc mà sinh viên đang làm nhiều nhất đó là gia sư, công
viêc này chiếm tới 65.1%. [15]
Bên cạnh đó đề tài “Nữ sinh với việc làm thêm” của Trần Thu Hương,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn cho thấy nữ sinh đi làm thêm
chiếm tới 61.3%, cao hơn hẳn so với nam sinh. Trong đó công việc chủ yếu
mà nữ sinh làm cũng là gia sư. Sinh viên nữ chọn công việc gia sư bởi vì công
việc này nhàn hạ, nhẹ nhàng, ngoài ra sinh viên làm việc này còn có thể chủ
động sắp xếp thời gian cá nhân cho phù hợp. [10]
Bài viết “Du học Nhật có rất nhiều việc làm thêm kiếm tiền” của tác
giả Nguyễn Hoàng Tuấn Anh đăng tải trên trang web vnexpress.net có nói tới
các công việc làm thêm của một du học sinh Nhật đó là làm phụ việc trong
nhà hàng, sau đó là dạy ngoại ngữ, dọn vệ sinh, bán hàng, đưa báo, làm công
nhân nhà máy… Đồng thời tác giả đề cập đến những khó khăn và những mặt
tích cực mà một du học sinh Nhật có thể gặp phải. [30]
Bài viết “Những công việc làm thêm nào hấp dẫn sinh viên nhất” của
tác giả Ngọc Lan được đăng tải năm 2014 trên trang web news.zing.vn có nói
đến nhu cầu của sinh viên về một số công việc làm thêm như: Phục vụ bàn,
bảo vệ trông xe quán cà phê, lễ tân, bán hàng theo giờ… là những công việc
là sinh viên yêu thích. Đối với mỗi công việc làm thêm như chạy bàn, làm bảo
vệ được trả lương từ 2 đến 3 triệu đồng một tháng. Trong khi những công việc
như chuyên viên tư vấn khách hàng, lái xe, phỏng vấn viên, giám sát viên…
mỗi dự án làm 17 ngày nhưng thu nhập có thể đến hơn 5 triệu đồng một
tháng, nhưng lượng sinh viên ứng tuyển rất ít. Bài viết còn đề cập tới việc
sinh viên thích đi làm những công việc chân tay hơn những công việc suy
nghĩ đầu óc, lý giải cho điều này, tác giả nói rõ việc sinh viên thích lao động
chân tay hơn lao động trí óc là do những công việc này giải quyết nhanh vấn
6
đề thu nhập và không đòi hỏi nhiều kĩ năng nên đa số sinh viên đều có thể
tham gia được. [31]
Bài viết “Làm thêm thời sinh viên, tôi tài giỏi, bạn cũng thế” của
chuyên gia đào tạo của TGM HCM Vũ Đức Trí Thế đăng tải trên trang web
toitaigioibancungthe.vn, tác giả cho biết thông qua việc trải nghiệm những
công việc như giao dịch cho ngân hàng ACB, đi giao hàng, và trông xe, tác
giả nhận được một số bài học như dù là ai, cũng hãy lịch sự ngay cả với người
thấp hơn mình và đừng bao giờ khoe thân thế, đó là cái khoe có giá trị thấp
nhất. Theo chuyên gia, dù làm việc gì đi nữa thì mỗi công việc sẽ đem lại cho
bạn những giá trị nhất định, những bài học cuộc sống và cách sống để cho
chúng ta học hỏi. [33]
Tiểu luận “Sinh viên với việc làm thêm” đăng tải năm 2013 trên trang
doc.edu.vn đề cập tới những nguyên nhân sinh viên phải đi làm thêm, những
thuận lợi và khó khăn mà sinh viên gặp phải khi đi làm thêm, những ảnh
hưởng tới kết quả học tập và một số giải pháp giành cho sinh viên. Tiểu luận
có đề cập tới một giải pháp không mới nhưng có ảnh hưởng tích cực tới kết
quả học tập của sinh viên đó là sinh viên cố gắng học tập tốt để được học
bổng nhà trường trao tặng. Theo quan điểm của tác giả thì đây có thể được coi
như một công việc làm thêm, công việc này vừa không ảnh hưởng đến kết quả
học tập mà còn đem lại cả thu nhập cho sinh viên. [32]
Bài viết “Sinh viên và vấn đề làm thêm” của Phạm Thị Thùy Miên
được đăng tải ở chuyên mục góc học tập của website trường Đại học Duy
Tân, trong bài viết này tác giả bàn về vấn đề làm thêm của sinh viên, những lý
do sinh viên đi làm thêm, những công việc sinh viên có thể làm thêm ngoài
giờ học. Tác giả còn đưa ra lời khuyên cho sinh viên, mối sinh viên cần “tỉnh
táo” để có thể tìm kiếm những công việc phù hợp cho riêng mình, dù có làm
thêm công việc nào thì cũng phải nhớ rõ rằng đối với sinh viên, việc học mới
là việc quan trong nhất. [35]
7
Bài viết “Thiết kế việc làm thêm từ chính ngành học của mình” của
Đinh Nha Trang đăng tải trên trang web snvn.vn năm 2013 có nói tới việc
sinh viên có thể thiết kế việc làm thêm cho mình từ chính chuyên ngành mình
được học. Cụ thể, trong bài viết tác giá nói tới Lê Mai Anh, sinh viên năm
cuối khoa Hội họa, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam đã tự tạo việc làm
thêm cho mình bằng năng khiếu vẽ, Mai Anh vẽ minh họa cho các câu chuyện
trên báo Hoa Học Trò, chính công việc vẽ này đem lại cho Mai Anh một
khoản thu nhập không nhỏ và chính công việc đó đã biến ước mơ của Mai
Anh thành sự thật. [36]
Bài viết này bổ sung vào các cách thức để sinh viên có thể làm thêm đó
là tự tạo cho mình một công việc làm thêm từ chính chuyên ngành của mình,
sinh viên vừa có thể sử dụng kiến thức đang học vào thực tế, vừa đem lại cho
sinh viên một khoản thu nhập. Hạn chế của cách thức này là không phải sinh
viên nào cũng có thể thực hiện được.
Tóm lại, sinh viên làm thêm được quan tâm từ nhiều khía cạnh khác
nhau, được nghiên cứu, được quan tâm từ thực trạng cho tới nhu cầu, được
xem xét dưới góc độ giới… Các nghiên cứu trước chủ yếu nhằm vào thực
trạng làm thêm của sinh viên, cũng đã có nghiên cứu về nhu cầu làm thêm của
sinh viên nhưng vẫn còn chưa khai thác được hết nhu cầu của sinh viên.
Trong nghiên cứu này, ngoài việc tìm hiểu đầy đủ hơn nhu cầu của sinh viên
thì tác giả còn tập trung phân tích những yếu tố tác động đến nhu cầu làm
thêm của sinh viên. Trong nghiên cứu, kết quả được phân tích qua khảo sát tại
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
1.3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo
chí và Tuyên truyền. Từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm đáp ứng
nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
8
1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, đồng thời làm rõ một
số khái niệm có liên quan.
(2) Tìm hiểu thực trạng đi làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền hiện nay.
(3) Tìm hiểu nhu cầu và những yếu tố ảnh hưởng đến việc đi làm thêm
của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
(4) Đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp đối với sinh viên và nhà
trường để phù hợp với nhu cầu làm thêm của sinh viên.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vị nghiên cứu
1.5. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu làm thêm của sinh viên học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
1.6. Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên học viện Báo chí và Tuyên truyền.
1.7. Phạm vị nghiên cứu
- Không gian: Học viện Báo chí và Tuyên truyền – Hà Nội.
- Thời gian: Từ 2/3 – 1/6/2015.
5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
1.8. Giả thuyết nghiên cứu.
- Sinh viên nữ có nhu cầu đi làm thêm cao hơn sinh viên nam.
- Năm học của sinh viên có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu làm thêm của
sinh viên, sinh viên năm thứ tư có nhu cầu đi làm thêm cao hơn sinh viên các
năm thứ nhất, thứ 2, thứ 3.
- Sinh viên thích được trả lương theo kết quả làm việc hơn là theo
thời gian làm việc
- Đa số sinh viên mong muốn được đi làm thêm những công việc phù
hợp với ngành học mà mình đang theo học.
- Điều kiện kinh tế của gia đình có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu làm
thêm của sinh viên, những sinh viên xuất thân trong gia đình có điều kiện
kinh tế khá giả có nhu cầu đi làm thêm thấp hơn những sinh viên xuất thân
trong gia đình có điều kiện kinh tế trung bình, nghèo.
- Sinh viên năm thứ tư có khả năng tìm được những công việc phù
hợp với chuyên môn hơn những sinh viên năm nhất, năm hai, năm ba.
9
- Sinh viên sống ở nông thôn có nhu cầu làm thêm cao hơn sinh viên
ở thành thị.
1.9. Khung lý thuyết
Khung lý thuyết
Môi trường kinh tế - xã hội, chính
sách của Nhà nước về việc làm
Đăc điểm và điệu
kiện của SV: Giới
tính, ngành học, năm
học, chi tiêu cá nhân.
Đặc điểm và điều
kiện của gia đình:
Nơi ở của gia đình,
điều kiện kinh tế của
gia đình
Biến số:
Hiện trạng làm
thêm của sinh viên
HVBCTT
Nhu cầu đi làm thêm
của sinh viên
HVBCTT
+ Loại hình công
việc
+ Loại hình công việc
+Thời gian làm
việc
+ Mức độ, tính chất cv
+ Mức độ, tính
chất công việc.
+Chính sách đãi ngộ
+ Thời gian làm việc
+ Thu nhập.
+Thu nhập
Vai trò của nhà trường về việc
làm thêm cho sinh viên.
Biến độc lập: Gồm 2 nhóm biến số chính:
Nhóm 1: Đặc điểm và điều kiện của sinh viên: Giới tính, Ngành học,
năm học, chi tiêu cá nhân.
Nhóm 2: Đặc điểm và điều kiện của gia đình: Nơi ở của gia đình, thành
phần gia đình, thu nhập của gia đình.
Biến phụ thuộc: Nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
10
● Nhu cầu về loại hình công việc: Công việc có liên quan đến ngành
học hay không, coong việc lao động chân tay hay lao động trí óc.
● Nhu cầu thời gian làm việc: Thời gian làm việc trung bình 1 tuần, thời
gian làm việc chia theo ngày thường, ngày nghỉ và tất cả các ngày trong tuần.
● Nhu cầu mức độ, tính chất công việc: công việc ổn định hay công
việc linh hoạt, tạm thời; công việc yêu thích nhất; yếu tố quan tâm nhận được
khi đi làm thêm.
● Nhu cầu về mức thu nhập: Thu nhập bình quân một tháng nhận được.
● Nhu cầu về chế độ đãi ngộ của các nhà tuyển dụng đối với sinh viên:
những cam kết của nhà tuyển dụng.
Biến trung gian: gồm các biến số chính sau:
● Thực trạng về loại hình công việc: Công việc có liên quan đến ngành
học hay không.
●Thực trạng thời gian làm việc: Thời gian làm việc phân theo ngày
thường, hoặc ngày nghỉ.
● Thực trạng mức độ, tính chất công việc: Đang làm bao nhiêu công
việc; đó là những công việc gì; những công việc đó yêu cầu kĩ năng gì
● Thực trạng về mức thu nhập: Thu nhập từ việc đi làm thêm là bao nhiêu.
Biến can thiệp gồm 3 nhóm biến số chính:
• Môi trường kinh tế - xã hội
• Chính sách của Nhà nước về việc làm
• Vai trò của nhà trường về việc làm thêm cho sinh viên.
6. Phương pháp nghiên cứu
1.10.
Phương pháp luận.
Đề tài sử dụng ba lý thuyết xã hội học: Lý thuyết về Nhu cầu, lý thuyết
Hành động xã hội, Lý thuyết Vốn xã hội để tiếp cận và định hướng cho đề tài
nghiên cứu.
1.11.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài sử dụng mô hình nghiên cứu xã hội học: định tính – định lượng,
trong đó phương pháp định lượng (Sử dụng bảng hỏi Anket) được sử dụng là
phương pháp nghiên cứu chính, phương pháp nghiên cứu định tính (Phương
11
pháp phỏng vấn sâu, phương pháp phân tích tài liệu) là phương pháp bổ sung
cho phương pháp định lượng.
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu định tính.
- Phương pháp phân tích tài liệu
● Mục đích: Nhằm tìm hiểu khái quát những vấn đề liên quan đến việc
làm thêm của sinh viên, đồng thời phát hiện vấn đề mới mà những nhà nghiên
cứu trước đó chưa đề cập tới hoặc là đã đề cập tới nhưng nghiên cứu chưa sâu.
● Cách thực hiện: Người nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin tại
các trung tâm thư viện như Thư viện Quốc gia, Thư viện Học viện Báo chí và
Tuyên truyền về vấn đề làm thêm nói chung và việc làm thêm của sinh viên.
Đồng thời, tác giả sử dụng một số kết quả nghiên cứu tại các khóa luận và
một số khái niệm, lý thuyết trong các quấn từ điển và sách xã hội học có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp Phỏng vấn sâu.
● Mục đích: Nhằm tìm hiểu sâu hơn về thực trạng, nhu cầu, các yếu tố
ảnh hưởng đến việc làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
đồng thời phương pháp này cũng cung cấp thông tin về các chính sách đãi ngộ
của nhà tuyển dụng đối với sinh viên để phù hợp với nhu cầu của sinh viên.
● Cách thực hiện. Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu đối với
10 sinh viên trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, phương pháp chọn
mẫu đối với 10 trường hợp này là sử dụng phương pháp chọn mẫu trong
nghiên cứu định tính đó là phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
- Mục đích: Nhằm thu thập thông tin về thực trạng và nhu cầu đi làm
thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Cách thực hiện: Nghiên cứu sẽ chọn 200 mẫu tại Học viện Báo chí
và Tuyên truyền. Tiến hành lập dang sách các lớp thuộc khối lý luận và các
lớp thuộc khối nghiệp vụ, lập dang các các lớp theo từng năm học khác nhau.
Như vậy, có 4 danh sách chọn mẫu chia theo năm học của sinh viên theo khối
lý luận, có 4 danh sách chọn mẫu chia theo năm học của sinh viên theo khối
12
nghiệp vụ. Mối danh sách đã lập được sẽ được chọn ra hai lớp để nghiên cứu
theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Như vậy, sẽ có 16 lớp tham
gia tiến hành nghiên cứu.
Bước tiếp theo, lập danh sách sinh viên của từng lớp đã được chọn
mẫu ở giai đoạn trên, tiến hành chọn sinh viên để nghiên cứu dựa theo
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống theo công thức k = N/n. Như
vậy, mỗi lớp có khoảng 50 sinh viên, số sinh viên được chọn mỗi lớp sẽ
khoảng 13 sinh viên được chọn làm mẫu nghiên cứu.
Do trong một số trường hợp sinh viên không thể tham gia nghiên
cứu, nhà nghiên cứu phải lập danh sách mẫu dự bị để bổ dung khi cần thiết.
6.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Để xử lý kết quả khảo sát, để tài đã sử dụng các phần mềm thống kê
chuyên ngành sau:
- Phần mềm SPSS 13.0 để xử lý dữ liệu định lượng
- Phần mềm NVIVO 7.0 để xử lý dữ liệu định tính.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.12.
Ý nghĩa lý luận
- Góp phần bổ sung tài liệu cho những nghiên cứu về thực trạng và
nhu cầu làm thêm của sinh viên. Từ đó khóa luận tạo cơ sở và nguồn
dữ liệu cho những nghiên cứu tiếp theo.
- Đề tài cung cấp những luận giải khoa học cho việc đánh giá về nhu
cầu loại hình công việc, mức độ, tính chất công việc, chính sách đãi
ngộ đối với sinh viên.
1.13.
Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu cung cấp dữ liệu phong phú và đa dạng khi
nghiên cứu về việc làm thêm của sinh viên.
- Từ kết quả nghiên cứu, đề tài làm sáng tỏ thực trang, nhu cầu,
nguyên nhân đi làm thêm của sinh viên. Qua đó để xuất một số
khuyến nghị đối với nhà trường và sinh viên để giúp sinh viên kết
hợp cân đối giữa việc học với làm thêm một cách hiệu quả nhất.
8. Kết cấu của khóa luận
13
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, danh mục bảng biểu, bộ công cụ thu thập thông tin, phần nội dụng của
khóa luận gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Thực trạng làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Chương 3: Nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền và
các yếu tố tác động đến nhu cầu làm thêm của sinh viên.
Chương 4: Những yếu tố ảnh hưởng đến việc làm thêm của sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền.
14
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thao tác hóa khái niệm
Để thực hiện đề tài: “Nhu cầu làm thêm của sinh viên Thành phố Hà
Nội hiện nay”, tác giả tiến hành làm rõ một số khái niệm có liên quan đến đề
tài sau đây: Khái niệm nhu cầu; khái niệm việc làm và người có việc làm;
khái niệm việc làm thêm, khái niệm sinh viên và khái niệm việc làm thêm
sinh viên để định hướng nghiên cứu cho đề tài.
1.1.1. Nhu cầu.
Theo từ điển xã hội học oxford: “nhu cầu” là cái gì đó được coi là cần
thiết, đặc biệt khi nó được coi là thiết yếu cho sự tồn tại của mỗi con người,
một tổ chức hay bất cứ thứ gì khác. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi
trong các khoa học xã hội, với sự chú ý đặc biệt dành cho cái gọi là những
nhu cầu con người. Nhu cầu thường đối lập với muốn, nhu cầu nói đến những
thứ cần thiết, còn muốn thì nói đến những thứ người ta ao ước có. Vì khái
niệm này tự nó giả định rằng nhu cầu cần phải được thỏa mãn nên nó thường
được dẫn ra trong những phát biểu hùng hồn tạo các cuộc tranh luận về chính
trị và chính sách đặc biệt là để hậu thuẫn cho những tuyên bố về sự cần thiết
phải hành động hay can thiệp. [19, tr.385]
Tuy nhiên, không có gì ngạc nhiên là người ta tranh cãi gay gắt về việc
xác định nhu cầu cơ bản để tồn tại như những nhu cầu sinh lý và vật chất về
ăn, ngủ và ở.
- Theo từ điển xã hôi học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên [20,
tr.211,212]: mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu
nào đó. Nhu cầu thể hiện sự lệ thuộc của một cơ thể sống vào môi trường bên
ngoài, thể hiện thành những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể thiếu những điều kiện
để tồn tại và phát triển. Từ đầu thế kỉ này, Mario Luis Small (Mỹ) đã thấy
15
những hoạt động tâm lý của các cá nhân bắt nguồn từ những nhu cầu của nó
(về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…)
- Thỏa mãn được nhu cầu, con người cảm thấy thích thú và hài lòng.
Không thỏa mãn được con người bị hẫng hụt và có thể đi tới những hành vi
chống lại những trở ngại (có thật hay giả định) trong việc tìm kiếm sự thỏa
mãn nhu cầu. Không ít nhà tư tưởng cho rằng một xã hội hạnh phúc chỉ có thể
đạt tới khi nhu cầu của con người được thỏa mãn.
- Về đại thể, người ta chia những nhu cầu của con người thành hai loại
cơ bản: nhu cầu sinh học, nhu cầu văn hóa (cũng được gọi là nhu cầu vật chất
và nhu cầu tinh thần). thật ra ở con người rất khó phân biệt hai loại nhu cầu đó.
- Mỗi người có nhu cầu riêng, đồng thời toàn xã hội còn có nhu cầu
chung. Nhu cầu xã hội không chỉ là tổng của những nhu cầu cá nhân mà còn
bao gồm những nhu cầu để duy trì và phát triển xã hội với tư cách tổng thể.
Sự kết hợp giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội đặt ra những vấn đề khó
khăn, có khi gay gắt, nhất là trong tình trạng năng suất lao động, sản phấm xã
hội trình trình độ lao động còn thấp kém. Không thể hi sinh nhu cầu cá nhân
cho nhu cầu xã hội, hoặc ngược lại. Vì như vậy cả hai loại nhu cầu đều không
được đáp ứng đến mức cần thiết.
1.1.2. Việc làm và người có việc làm
- Dưới góc độ xã hội học thì việc làm là sự biểu thị thực tế các thành
viên có khả năng lao động một mình hay liên kết với thành viên khác của một
xã hội tiến hành một loại lao động xã hội có ích bằng cách đó thỏa mãn những
nhu cầu của mình và đáp ứng nhu cầu nhất định của xã hội. Lao động xã hội
có ích để xác định thế nào là việc làm, thế nào là nghề nghiệp. Vì hiện nay có
việc làm ở quốc gia này bị cấm hoặc chưa được công nhận hoặc thừa nhận thì
ở quốc gia khác lại coi đó là một nghề và có đăng kí sổ lao động. Để có việc
làm ổn định con người phải sử dụng công cụ lao động, người lao động phải có
khả năng thực tế. Điều này đảm bảo cho sản phẩm của người lao động tạo ra
trong quá trình làm việc đáp ứng yêu cầu của xã hội.
16
- Có thể thấy, người có việc làm là người làm việc được trả tiền công,
lợi nhuận, hay được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào
các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
(Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung về cơ sở giải quyết việc làm ở Việt
Nam, nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội, 1997). [6]
- Dựa vào khái niệm việc làm và người có việc làm Nguyễn Hữu Dũng
và Trần Hữu Trung còn chia việc làm thành việc làm chính và việc làm phụ.
- Việc làm chính: là những công việc mà người thực hiện dành nhiều
thời gian hơn so với công việc khác.
- Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian
sau việc làm chính.
Mang tính khái quát hơn, tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa về
người có việc làm là: người đang làm một việc gì đó được trả tiền công hoặc
những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tìm lợi ích hay
thay thế thu nhập gia đình. Tuy nhiên cũng cần xem xét người lao động có
việc làm thường xuyên hay không thường xuyên để từ đó đánh giá thu nhập.
1.1.3. Việc làm thêm
Trong thời đại nền kinh tế thị trường như ngày nay thì việc tận dụng
triệt để tài sản của cá nhân bao gồm công sức, kinh nghiệm, tri thức và cả thời
gian… là điều rất cần thiết. Hơn nữa sinh viên ngoài thời gian học trên các
giảng đường ra thì sinh viên được coi là nhóm có nhiều thời gian rảnh rỗi
nhất. Chính vì vậy, việc sinh viên tận dụng thời gian rảnh rỗi của mình để
tham gia các hoạt động khác trở nên phổ biến.
Trong nghiên cứu này, việc làm thêm được hiểu là ngoài thời gian làm
việc chính, người lao động (bao gồm cả sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền) đi làm một công việc nữa khác với công việc chính thì được gọi là
việc làm thêm. Đối với sinh viên trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
công việc chính của sinh viên là học tập, những công việc tạo ra thu nhập cho
sinh viên được gọi là việc làm thêm.
17
Hơn nữa sự gia tăng của giá cả khiến cho đời sống của một bộ phận
sinh viên mà chủ yếu là sinh viên đến từ nông thôn trở nên khó khăn hơn, để
bù đắp vào đó thì sinh viên đã chọn cho mình những công việc làm ngoài giờ
học để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống cũng như tích lũy kinh
nghiệm cho cá nhân.
“Việc làm thêm” cũng thường có ở những thành phố lớn, những nhà
tuyển dụng thường tuyển nhân viên dưới nhiều hình thức khác nhau từ tính
chất công việc, đặc điểm công việc, nơi làm việc hay cả thời gian làm việc…
Những người ứng tuyển vào đó hoàn toàn có quyền chọn cho bản thân những
công việc phù hợp với một mức lương phù hợp. Như vây, “việc làm thêm” là
một định nghĩa mô tả một công việc không chính thức, không thường xuyên
bên cạnh một công việc ổn định khác, đối với sinh viên thì công việc chính
thức là tham gia học tập, công việc không chính thức là đi làm thêm, đi thực
tập hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác.
1.1.4. Sinh viên.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm sinh viên, đứng ở mỗi khía
cạnh khác nhau thì các nhà nghiên cứu lại có những khái niệm khác nhau về
sinh viên.
Theo từ điển Tiếng Việt thì sinh viên (sinh viên Việt Nam) là công dân
Việt Nam đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng hay Trung cấp
chuyên nghiệp, ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề
chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những
bằng cấp mà họ đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo
phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc tiểu học và trung học.
Họ là một nhóm dân số khá lớn với các đặc điểm được xác định rõ vai trò, vị
trí của hệ thống tái sản xuất và phát triển xã hội. [21]
Đối với các nhà nghiên cứu xã hội học, sinh viên có những đặc điểm sau:
Có đặc điểm riêng trong sự phân tầng và khả năng di động xã hội cao.
Do tính chất hoạt động nghề nghiệp trong tương lai, họ là những người có
18
nhiều cơ hội thuận lợi hơn để chiếm những địa vị cao trong xã hội nhất là
trong nền kinh tế tri thức.
- Là nhóm có khả năng thích ứng cao, tiếp thu nhanh các giá trị mới.
- Là nhóm xã hội đặc thù về lứa tuổi mà ở lứa tuổi này quá trình xã hội
hóa diễn ra mạnh mẽ so với nhóm thiếu nhi, tiếp thu nhanh các giá trị mới.
1.1.5. Việc làm thêm sinh viên
Đặc điểm của sinh viên cho thấy sinh viên là nhóm có khả năng thích
ứng, nhanh nhạy, luôn năng động trong nhiều hoạt động như việc tham gia các
hoạt động do trường, địa phương, các tổ chức khác tổ chức… Ngoài ra sinh
viên còn tham gia các hoạt động tạo thu nhập cho chính bản thân mình. Việc
sinh viên ngoài giờ lên lớp còn tham gia các hoạt động tạo ra thu nhập cho cá
nhân thì đó được gọi là việc làm thêm của sinh viên. Khái niệm “việc làm thêm
của sinh viên” trong nghiên cứu này được hiểu là sinh viên ngoài giờ học trên
lớp còn tranh thủ làm những công việc khác để tạo ra thu nhập.
1.2. Cơ sở lý thuyết định hướng nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số lý thuyết xã hội học nhằm định hướng nghiên
cứu cho đề tài, đồng thời sử dụng các lý thuyết xã hội học để giải thích các
kết quả nghiên cứu thu thập được. Một số lý thuyết được sử dụng trong đề tài
như: Lý thuyết nhu cầu, lý thuyết hành động xã hội và lý thuyết vốn xã hội.
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu
Lý thuyết nhu cầu của nhà tâm lý học Maslow (1908 – 1970) là lý
thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con
người nói chung. Nhu cầu là đòi hỏi thường xuyên của mỗi cá nhân, là trạng
thái thấy thiếu thốn ở trong con người. Các nhu cầu của con người một mặt
được tạo ra do những đòi hỏi bên trong cơ thể, mặt khác được tạo ra từ trong
những điều kiện nhất định của xã hội. Theo lý thuyết này, nhu cầu tự nhiên
của con người được chia thành các thang bậc khác nhau từ “đáy” lên tới
“đỉnh”, phản ánh mức độ cơ bản của nó đối với sự tồn tại và phát triển của
con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. [9]
19
Cấu trúc của Tháp nhu cầu gồm có 5 tầng, trong đó những nhu cầu của
con người được liệt kê theo hình kim tự tháp. Những nhu cầu cơ bản phía đáy
phải được thỏa mãn trước khi nghĩ đến các nhu cầu cao hơn. Các nhu cầu bậc
cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thỏa mãn ngày càng mãnh liệt khi tất cả
các nhu cầu cơ bản ở dưới đã được đáp ứng đầy đủ.
5 tầng của thang nhu cầu của Maslow như sau:
Tầng thứ nhất: các nhu cầu về căn bản nhất thuộc về “thể lý”: thức ăn,
nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi…
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn: cần có cảm giác yên tâm về an toàn
thân thể, an toàn việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc:
muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn
bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến: cần có cảm giác
được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân: muốn được sáng tạo,
được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được
công nhận là thành đạt.
Trong cuộc sống, mỗi người đều có những nhu cầu khác nhau không ai
giống ai, sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng vậy, mỗi sinh viên
cũng có những nhu cầu khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của
20
từng người, tuy nhiên nhu cầu nào cũng đều rất quan trọng và cần được đáp
ứng. Khi nhu cầu thấp đã đạt được thì lại có nhu cầu cao hơn. Mỗi sinh viên
luôn tồn tại những nhu cầu khác nhau, đối với một số sinh viên có thể nhu cầu
là được đáp ứng các yêu cầu ở tầng tháp nhu cầu sinh lý, nhưng cũng có
những sinh viên thì nhu cầu lại chính là sự tự thể hiện. Nhưng dù ở tầng nhu
cầu nào đi nữa thì chỉ khi nhu cầu được đáp ứng con người mới cảm thấy hài
lòng. Như vậy, đối với việc sinh viên làm thêm, đối với một số người thì đó
là nhu cầu sinh lý, nhưng đối với một số sinh viên khác thì việc đi làm thêm
lại là sự tự thể hiện bản thân, sinh viên muốn được công nhận họ là những
người tự lập, họ mong muốn được cho rằng bản thân mình là những người
thành đạt, không nương tựa vào ai.
1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội.
Lý thuyết xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ nhiều nhà
nghiên cứu khác nhau, Weber là một trong những nhà nghiên cứu có công đầu
xây dựng lý thuyết xã hội học về hành động xã hội. Quan niệm của Weber cho
thấy hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Ông đã chỉ ra
sự khác nhau giữa hành động xã hội và và những hành vi và những hoạt động
khác của con người. Hành động xã hội được ông tổng quát định nghĩa là hành
động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có
tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người khác
trong đường lối và quá trình của nó. Theo Weber, ông phân loại thành 4 loại
hành động sau đây: [9]
Hành động duy lý – công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân
nhắc, tính toán, lực chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiểu quả
nhất.
Hành động duy lý giá trị: là hành động được thực hiện vì bản thân
hành động (mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào
21
những mục đích phi lý nhưng lạ được thực hiện bằng những công cụ, phương
tiện duy lý.
Hành động cảm tính: là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc
tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối
quan hệ giữa công cụ phương tiện và mục đích hành động.
Hành động theo truyền thống: là loại hành động tuân thủ những thói
quen, nghi lễ, phong tục, tập quán truyền lại từ đời này qua đời khác.
Xã hội học nghiên cứu hành động xã hội thực chất là tập trung vào
nghiên cứu loại hành động duy lý – công cụ. Weber lập luận rằng: đặc trưng
quan trọng nhất của xã hội học hiện đại là hành động xã hội của con người
ngày càng trở nên duy lý, hợp lý với tính toán chi ly, tỉ mỉ, chính xác về mối
quan hệ giữa công cụ/phương tiện và mục đích/kết quả.
Do vậy việc sinh viên quyết định có đi làm thêm hay không và làm
những công việc như thế nào đều được tính toán chi li, cẩn thận. Làm thêm
đem lại cho sinh viên những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng tích
cực là sinh viên có thêm thu nhập, có thêm kinh nghiệm, kỹ năng nhưng bù lại
có thể sinh viên sẽ không thực hiện tốt được nhiệm vụ học tập của mình, làm
ảnh hưởng đến kết quả học tập như sinh viên bị thi lại, học lại. Việc bị thi lại,
học lại hay kết quả học tập không cao sẽ khiến sinh viên phải mất một khoản
tiền để trả môn, hoặc là kết quả không cao sẽ dẫn đến việc sau này ra trường
sinh viên khó xin được việc làm. Vì thế sinh viên phải cân nhắc thật kĩ để quyết
định có đi làm thêm hay không và làm thêm những công việc gì, thời gian làm
việc như nào để có thể vừa làm thêm và không ảnh hưởng nhiều đến kết quả
học tập. Vừa giải quyết được vấn đề khó khăn về thu nhập trước mắt nhưng
đồng thời vừa không làm ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm việc làm trong
tương lại. Tuy nhiên, sinh viên quyết định chọn công việc như thế nào còn tùy
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và đều được tính toán, lựa chọn phương pháp
để đạt được năng suất, chất lượng, và hiệu quả cao nhất có thể.
1.2.3. Lý thuyết vốn xã hội
22
Lý thuyết vốn xã hội xuất hiện chủ yếu vào những năm 90. Đây là một
khái niệm mới và có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về vốn xã hội nhưng
tựu trung lại các quan điểm đều quy vốn xã hội về các mạng lưới xã hội và
đều cho rằng giống như vốn con người, tuy thuộc về vốn vật chất nhưng vốn
xã hội cũng có khả năng sinh lợi. [28]
Trong cuộc sống, để duy trì và tồn tại thì không một ai mà sống độc
lập, tách biệt hoàn toàn với xã hội, mỗi người đều tham gia vào những mạng
lưới xã hội nhất định, có người tham gia nhiều, có người tham gia ít, có người
có mạng lưới xã hội dày đặc nhưng cũng có người tham gia vào những mạng
lưới xã hội lỏng lẻo.
Đó có thể là các mạng lưới không chính thức như họ hàng, gia đình,
bạn bè, người thân,.. hoặc có thể là các mạng lưới chính thức như các tổ chức
dân sự chính thức, các hiệp hội, các nhóm nghề nghiệp… Trong quá trình cá
nhân tham gia vào các nhóm xã hội sẽ giúp cá nhân khai thác và sử dụng
được thông tin, ý tưởng, nguồn lực và và sự hợp tác từ các thành viên khác
trong mạng lưới. Vốn xã hội có thể được hiểu như là nguồn lực được tăng lên
khi các cá nhân tham gia vào các mạng lưới xã hội.
Đối với sinh viên trong vấn đề tìm kiếm việc làm, vốn xã hội chính là
việc sinh viên tận dụng các mối quan hệ, mạng lưới của mình để tìm cho mình
những công việc phù hợp với bản thân, vai trò của vốn xã hội trong việc sinh
viên làm thêm được thể hiện ở việc gắn kết hay kết nối giữa những người
đang tìm việc với những người đang nắm giữ nguồn lực. Do nắm giữ quyền
lực mà một số cá nhân có khả năng chi phối nhất định đối với những người
khác. Trong trường hợp này, nhà trường có vai trò nhất định kết nối giữa nhà
tuyển dụng với sinh viên để sinh viên tìm được những công việc phù hợp với
khả năng và trình độ của mình, bù lại các nhà tuyển dụng, những ông chủ, bà