Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Luan van sản xuất nông nghiệp hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.56 KB, 125 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thư gửi nông gia Việt Nam ngày 7/12/1945, Hồ Chí Minh viết:
Loài người ai cũng "dĩ thực vi tiên" (nghĩa là trước cần phải
ăn); nước ta thì "dĩ nông vi bản" (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân
muốn ăn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh
thì phải phát triển nông nghiệp [42, tr. 114].
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, cung cấp
lương thực thực phẩm nuôi sống con người, nguyên nhiên vật liệu cho thủ
công nghiệp và công nghiệp, là cơ sở để ổn định, phát triển đất nước. Theo
Hồ Chí Minh đó là một nền nông nghiệp ngày càng phát triển, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa nước nhà, làm cơ sở cho cuộc sống ấm no và hạnh phúc
của nhân dân, làm nền tảng cho sự ổn định và tiến bộ xã hội. Điều này đã
được Người chỉ đạo thực hiện trong quá trình cùng Đảng ta lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Người nói:
Có cán bộ tưởng rằng cải cách ruộng đất xong thì công cuộc
cải cách nông thôn cũng xong. Thế là nhầm. Cải cách ruộng đất
xong rồi, còn phải phúc tra, còn phải thực hiện tổ đổi công rộng
khắp và vững chắc, còn phải tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, rồi khi
đã có điều kiện và nông dân yêu cầu thì tiến tới nông trường tập thể.
Thế cũng chưa hết, còn phải làm cho nông nghiệp xã hội hóa. Có
như vậy, nông nghiệp mới phát triển đầy đủ nông dân mới thật ấm
no và giàu có [46, tr. 76].
Hồ Chí Minh, trong toàn bộ di sản của mình, tuy chưa đưa ra định nghĩa
về nền "nông nghiệp xã hội hóa", nhưng xét trên nền tảng cơ sở lý luận hình
thành tư tưởng của Người là học thuyết Mác - Lênin thì có thể thấy rằng đó là



2

quan niệm về phát triển sản xuất nông nghiệp làm cơ sở nền tảng cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn
xem xét sự vật hiện tượng một cách toàn diện, trong nông nghiệp cũng vậy,
theo Người để phát triển sản xuất nông nghiệp, phải đặt trong mối quan hệ với
giai cấp nông dân và trong điều kiện nông thôn, vì suy cho cùng thì thực chất
cuộc cách mạng nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng phần lớn là
nhằm giải phóng nông dân, phát triển sản xuất và xây dựng nông thôn mới.
Ngày nay, khi loài người đang bước vào kỷ nguyên khoa học công nghệ
và quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
luôn chi phối bởi khoa học kỹ thuật - công nghệ. Nông nghiệp cũng không
ngoại lệ, cũng áp dụng đầy đủ các tiến bộ kỹ thuật - công nghệ (trước hết là
công nghệ sinh học) để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và gắn với thị
trường. Điều này cũng sớm được Hồ Chí Minh đề cập đến trong quá trình
lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nền nông nghiệp trong kháng chiến và xây
dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong Văn kiện Đại hội XI, khi xác định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020, Đảng ta định hướng nông nghiệp: "Phát triển nền nông
nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững" [20, tr. 113]. Đó là
sự vận dụng những quan điểm về sản xuất nông nghiệp của Hồ Chí Minh
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, gắn với sự
phát triển công nghiệp để "phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [20, tr. 103]. Muốn vậy, sản xuất
nông nghiệp phải có những bước đột phá và chuyển dịch phù hợp trong cơ
cấu chung của nền kinh tế đất nước thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Tỉnh Đồng Tháp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa
trọng điểm của cả nước. Tỉnh lại là nơi có sản lượng lúa gạo đứng thứ ba của
vùng. Trong những năm qua chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh lên hạng



3

liên tục, từ vị trí thứ 11 năm 2006 đến năm 2010 đã vươn lên đứng hàng thứ ba
so với cả nước và đứng thứ nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long. Điều này
chứng tỏ sự phát triển vượt bậc của kinh tế tỉnh, nhất là tiềm năng to lớn trong
sản xuất nông nghiệp, ngành kinh tế chủ đạo của Đồng Tháp.
Áp dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ và các điều kiện khác để phát
triển sản xuất nông nghiệp là một tất yếu của Đồng Tháp trong điều kiện hiện
nay. Điều đó đòi hỏi phải có sự vận dụng lý luận nền tảng, phải phù hợp với
xu thế thời đại, với chủ trương, đường lối của Đảng và điều kiện ở tỉnh. Trong
đó, vận dụng những quan điểm về sản xuất nông nghiệp của Hồ Chí Minh giữ
vai trò định hướng cho chủ trương của Đảng bộ và chính quyền tỉnh để phát
huy hơn nữa thế mạnh của tỉnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng,
phát triển kinh tế đất nước thời kỳ đổi mới.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài "Sản xuất nông nghiệp ở tỉnh
Đồng Tháp hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn cao học của mình. Tôi mong rằng đề tài sẽ góp phần tích cực định
hướng cho việc phát triển nông nghiệp ở tỉnh Đồng Tháp, góp phần phát triển
kinh tế theo hướng bền vững và nâng cao hơn nữa đời sống nhân dân tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan trực tiếp đến đề tài, có một số công trình tiêu biểu:
2.1. Sách chuyên khảo và kỷ yếu hội thảo
- TS. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề nông dân, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Trong đó, tập thể tác giả đã đề
cập đến những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện, về vai trò của nông nghiệp trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội, xây dựng kết cấu kinh tế - kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn.
- TS. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2003), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đề cập đến lựa chọn



4

cơ cấu kinh tế công nông, biện pháp nâng cao đời sống nhân dân, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp.
- TS. Nguyễn Huy Oánh (2004), Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây
dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đề cập đến vị trí, vai trò của sản xuất nông nghiệp
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các biện pháp để phát triển nông nghiệp một
cách toàn diện.
- GS. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội. Tác giả đề cập đến những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế nói chung như mục tiêu (trong đó có mục tiêu của sản xuất nông nghiệp),
con đường, cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, động lực phát triển kinh tế,… trong
tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- GS.TS Lê Hữu Nghĩa, PGS.TS Tạ Ngọc Tấn, TS. Đinh Thế Huynh,
TS. Nguyễn Tiến Quân (Đồng chủ biên) (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp
tác xã - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Kỷ yếu Hội thảo, tập hợp các bài viết về những nội dung cơ bản của kinh tế
hợp tác xã trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- TS. Ngô Văn Lương (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đề cập đến vị trí vai trò của nông nghiệp và các
biện pháp để phát triển nông nghiệp một cách toàn diện trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
2.2. Một số công trình trên tạp chí
- Nguyễn Thanh Tùng (1995), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa", Tạp chí Nghiên
cứu lý luận, số 3. Tác giả khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về sự đi trước
của nông nghiệp trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa đất nước, vai

trò của nông nghiệp đối với công nghiệp và công nghiệp đối với nông nghiệp.


5

- Phạm Ngọc Anh (1996), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và tổ
chức hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3. Tác
giả khẳng định vai trò to lớn của hợp tác xã trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trong nâng cao đời sống nhân dân, các nguyên tắc tổ chức và
quản lý hợp tác xã và đổi mới các hợp tác xã theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Minh Châu (1999), "Hồ Chí Minh với vấn đề hợp tác hóa nông
nghiệp", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11. Tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn để làm sáng tỏ những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề hợp tác hóa
trong sản xuất nông nghiệp, bao gồm: sự cần thiết của vấn đề hợp tác hóa trong
sản xuất nông nghiệp, các nguyên tắc tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, phương
châm, phương pháp và con đường hợp tác hóa nông nghiệp ở Việt Nam.
- Bạch Đình Ninh (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 2. Công trình này tác giả khẳng định và làm rõ quan
điểm của Hồ Chí Minh: công nghiệp và nông nghiệp gắn bó với nhau như hai
chân của nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải phát
triển nền nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
2.3. Luận án, luận văn
- Lý Việt Quang (2002), "Đảng lãnh đạo công cuộc khôi phục nông
nghiệp miền Bắc từ 1954 - 1957", Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về
sản xuất nông nghiệp, tác giả làm sáng tỏ những vận dụng của Đảng ta vào
công cuộc khôi phục nông nghiệp ở miền Bắc thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, những thành tựu và hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình
lãnh đạo cách mạng các giai đoạn sau đó của Đảng.

- Phạm Thị Huyền (2006), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và
phát triển kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Luận văn


6

thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
nghiên cứu khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh về nền kinh tế thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội như: mục tiêu phát triển kinh tế, vấn đề xác lập vai trò
làm chủ của nhân dân lao động, về phát triển lực lượng sản xuất - thực hiện
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, vấn đề quản lý kinh tế, xây dựng cơ cấu
kinh tế, độc lập tự chủ kết hợp với hợp tác quốc tế,… và sự vận dụng của
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước.
- Phan Thanh Bằng (2007), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường trong xây dựng nền kinh tế Việt Nam và vận dụng vào việc
xây dựng kinh tế ở tỉnh Bình Phước hiện nay", Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả trên cơ sở những quan
điểm của Hồ Chí Minh về tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong xây
dựng nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã vận dụng để giải
quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra tại địa phương tỉnh Bình
Phước nhằm phát huy ưu thế phát triển công nghiệp của một tỉnh có truyền
thống cách mạng quật cường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước.
- Lê Thị Tần (2008), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã và sự vận dụng
vào việc phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở An Giang hiện nay", Luận
văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh. Tác giả nghiên cứu cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế hợp tác xã, trên cơ sở khẳng định những quan điểm của Hồ Chí Minh về
hợp tác xã như tính tất yếu, bản chất kinh tế - xã hội và mục đích của hợp tác xã,
những nội dung, nguyên tắc xây dựng, tổ chức, quản lý hợp tác xã làm cơ sở cho

việc xây dựng hợp tác xã ở tỉnh An Giang trong điều kiện hiện nay.
- Phan Bá Linh (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp và vận
dụng vào quá trình phát triển nông nghiệp ở Hà Tĩnh trong quá trình đổi
mới", Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - Hành chính


7

quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đề cập đến nguồn gốc, quá trình hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và khẳng định vị trí vai trò của nông nghiệp
đối với kinh tế đất nước thời kỳ quá độ, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện
và các điều kiện để phát triển kinh tế nông nghiệp, giá trị lý luận và thực tiễn
của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp.
Nhìn chung, tất cả các công trình trên đã đề cập đến tư tưởng kinh tế
Hồ Chí Minh nói chung và những quan điểm của Người về nông nghiệp nói
riêng ở nhiều góc độ, tuy nhiên đa số các công trình chỉ đề cập đến quan điểm
của Hồ Chí Minh về hợp tác xã, về phát triển nền nông nghiệp toàn diện chứ
chưa khái quát hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về sản xuất nông
nghiệp, nhất là chưa có công trình vận dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
Vì vậy, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các công trình đã được xã hội
rộng rãi thừa nhận trước đó, luận văn đã tiếp thu để làm rõ hơn vấn đề sản xuất
nông nghiệp trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng cụ thể ở tỉnh Đồng
Tháp trong quá trình đẩy mạnh công ngiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp,
luận văn góp phần trang bị cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạch định việc
phát triển sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Đồng Tháp thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Một là, trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp.
Hai là, phân tích, đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học tình hình
sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Đồng Tháp.


8

Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp vào đề
xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hơn nữa sản xuất nông
nghiệp ở tỉnh Đồng Tháp theo hướng sản xuất hàng hóa, toàn diện và bền
vững góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp.
- Tình hình sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn
2006 - 2010, phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển sản xuất nông
nghiệp đến năm 2020 ở tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp là một nội dung toàn
diện gồm cả vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Trong luận văn này,
tác giả chỉ nghiên cứu một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sản xuất
nông nghiệp như là cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng sản xuất nông
nghiệp tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2006 - 2010 và đề ra những giải pháp phù
hợp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp giai
đoạn 2011 - 2020 cùng với quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thực hiện mục tiêu của Đảng đưa đất nước đến
năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về phát triển sản xuất nông
nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh công ngiệp hóa, hiện đại hóa và kế thừa kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố có liên quan.


9

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp duy vật
biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử; phương pháp lôgíc và phương
pháp lịch sử; kế thừa các công trình nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn
đã được công bố hoặc đang ở dạng tư liệu và một số phương pháp khác.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đóng góp chủ yếu của luận văn là:
- Góp phần hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp.
Qua đó tiếp tục khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
cách mạng Việt Nam trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình sản xuất nông nghiệp ở tỉnh
Đồng Tháp, luận văn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm xây dựng,
phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh theo hướng xã hội hóa, góp phần thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Tuy còn hạn hẹp, nhưng luận văn là một trong những cơ sở lý luận cung
cấp những luận cứ khoa học và thực tiễn, góp phần định hướng sự phát triển
sản xuất nông nghiệp của tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới, góp phần nhỏ
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,

giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong công
tác giảng dạy ở Trường Chính trị Đồng Tháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


10

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sản xuất nông nghiệp là một bộ phận cấu
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, đó là hệ thống các quan điểm toàn
diện và sâu sắc về mục tiêu và vai trò nền tảng của sản xuất nông nghiệp, về
nội dung và các giải pháp để xây dựng, phát triển nền nông nghiệp toàn diện ở
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm hướng đến mục tiêu
hiện đại hóa nông thôn và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân ta.
Với những nội dung toàn diện và sâu sắc trên, tư tưởng Hồ Chí Minh
về sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn, chỉ
đạo con đường và quá trình sản xuất nông nghiệp trong điều kiện nước ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho
những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng để hoàn thành sứ mệnh của
mình, củng cố vững chắc nền tảng liên minh giai cấp công nông, tạo ra sức
mạnh to lớn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.1.1. Sản xuất nông nghiệp là một mặt trận "nền tảng để phát

triển kinh tế xã hội chủ nghĩa", không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt
của nhân dân, trước hết là nông dân
Theo Hồ Chí Minh mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Người xem mỗi lĩnh vực trên là một mặt trận và mỗi mặt trận đóng vai
trò nhất định để thực hiện mục tiêu chung. Trên mặt trận kinh tế, nông nghiệp


11

là mặt trận nền tảng để thực hiện mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng
cao mọi mặt đời sống của các tầng lớp nhân dân, Người khẳng định:
Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì?
Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động [48, tr. 271].
Đây là mục tiêu mà Hồ Chí Minh luôn đặt ra trong quá trình cùng Đảng
ta lãnh đạo sản xuất nông nghiệp.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân là vấn đề được
Hồ Chí Minh quan tâm mà trước hết là vấn đề ăn, mặc, ở; đó là những nhu
cầu hết sức tự nhiên và cấp thiết của con người, trong đó ăn là nhu cầu cần
giải quyết trước tiên. Người nhấn mạnh: "Tục ngữ có câu: "Dân dĩ thực vi
thiên" nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn thì không có trời" và vì
vậy Người cho rằng "dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và
Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính
sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được" [456, tr. 572].
Sản xuất nông nghiệp là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng
Việt Nam, sau khi giành được chính quyền, nạn đói diễn ra, nông dân lại là lực
lượng chiếm gần 90% dân số [45, tr. 179] nên thực chất của cách mạng là đem
lại ruộng đất cho nông dân, sản xuất nông nghiệp đối với nước ta là ngành

chính, do đó Hồ Chí Minh cho rằng sự ổn định và thịnh vượng của đất nước phụ
thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp, vào lực lượng nông dân. Người viết:
Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy
canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.
Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước
ta thịnh [42, tr. 215].


12

Sau Cách mạng tháng Tám, mặt trận sản xuất nông nghiệp hoàn thành
nhiệm vụ góp phần giữ vững chính quyền trước muôn vàn khó khăn của thù
trong giặc ngoài, tạo điều kiện để trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Hồ
Chí Minh tiếp tục khẳng định vai trò của sản xuất nông nghiệp là hậu phương
quyết định sự thành bại của toàn bộ cuộc chiến. Người viết:
Mặt trận kinh tế gồm có công nghệ, buôn bán, nông nghiệp.
Ngành nào cũng quan trọng. Nhưng lúc này, quan trọng nhất là nông
nghiệp, vì "có thực mới vực được đạo".
Có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và nhân dân, thì kháng chiến
mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mau thành công [43, tr. 687].
Mùa xuân năm 1955, trong lời kêu gọi thi đua sản xuất tiết kiệm, Người
viết: "Hiện nay, nhiệm vụ vẻ vang của đồng bào là phải ra sức thi đua khôi
phục và phát triển sản xuất nông nghiệp để làm cho đồng bào nông dân ấm
no, để cung cấp cho quân đội, để đảm bảo tiếp tế cho các thành thị, để đẩy
mạnh việc khôi phục kinh tế nước nhà" [45, tr. 461].
Khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiếp thu quan điểm của Lênin
về vị trí của sản xuất nông nghiệp, Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện Việt
Nam, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì con đường công nghiệp hóa nước nhà
là tất yếu nhưng phải bắt đầu từ nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm cơ sở nền

tảng: "Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi của
chúng ta" [48, tr. 40]. Theo Người, phải phát triển nền kinh tế một cách toàn
diện, nghĩa là chú ý đến tất cả các ngành, nhưng nông nghiệp phải là ngành
sản xuất chính: "nhân dân ta phải bám lấy đồng ruộng. Ruộng là chính. Nông
nghiệp là chính" [47, tr. 12]. Các ngành khác phải lấy phục vụ nông nghiệp là
trung tâm, vì hơn hết nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm để nuôi
sống cả nước, nông nghiệp là cơ sở tiền đề cho quá trình công nghiệp hóa đất
nước. Người nói: "Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện,
phải chú ý cả mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao


13

thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế v.v. các ngành này phải lấy phục vụ
nông nghiệp làm trung tâm" [49, tr. 396].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh sản xuất nông nghiệp có nhiệm vụ to lớn
trong cách mạng: một mặt phải cung cấp lương thực thực phẩm để trước mắt
giải quyết nhu cầu ăn mặc ở của nhân dân, mặt khác là một mặt trận để nhân
dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong nền
kinh tế quốc dân thì nông nghiệp phải là ngành trung tâm, là cơ sở nền tảng
cho công cuộc công nghiệp hóa nước nhà.
Vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về nông nghiệp, Đảng ta
luôn quan tâm nền tảng nông nghiệp, ổn định đời sống nhân dân, làm cơ sở
hậu phương vững chắc cho hai cuộc kháng chiến thắng lợi. Trong kháng chiến
kiến quốc, Đảng đã quan tâm thực hiện khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất.
Khi tiến hành lãnh đạo miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lần lượt thực
hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, các kế hoạch 5 năm,… nhằm xây dựng nền
tảng vật chất để tiến hành công nghiệp hóa ở hậu phương miền Bắc.
Ngày nay, sau hơn 20 năm đổi mới trong điều kiện nông nghiệp luôn là
ngành sản xuất chính ở nước ta với hơn 70% [59, tr. 48] dân số sống bằng

nghề nông, lương thực thực phẩm dồi dào chẳng những đảm bảo an ninh
lương thực mà còn đóng góp to lớn cho ngân sách quốc gia khi đứng thứ hai
trên thế giới về xuất khẩu gạo, tạo uy tín lớn cho đất nước, điều này khẳng
định tầm nhìn chiến lược và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về sản
xuất nông nghiệp ở một nước "lấy canh nông làm gốc" như nước ta.
1.1.2. Phương thức phát triển sản xuất nông nghiệp là xây dựng các
"hợp tác xã nông nghiệp" và "xã hội hóa nông nghiệp"
Theo Hồ Chí Minh phương thức sản xuất nông nghiệp phải hướng đến đó
là xây dựng thành công các hợp tác xã và phát triển nền nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa mà Người thường dùng cụm từ xã hội hóa, làm cơ sở để
thực hiện mục tiêu chung là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nhằm đem lại ấm


14

no, hạnh phúc cho nhân dân. Người khẳng định: "Hiện nay, chúng ta lấy sản
xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ
lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục
tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự cho nhân dân ta" [48, tr. 41].
Về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, trên cơ sở tiếp thu quan điểm
của C. Mác và Ph. Ăngghen về việc phác thảo con đường hợp tác hóa nông
nghiệp ở các nước tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm của
Lênin về chế độ hợp tác xã văn minh ở một nước tư bản trung bình, Hồ Chí
Minh đã vận dụng và xây dựng quan điểm của mình về hợp tác xã vào điều
kiện Việt Nam - một nước nông nghiệp lạc hậu.
Quan điểm về hợp tác xã lần đầu tiên được Người đề cập đến từ năm 1927,
trong tác phẩm Đường cách mệnh, đây là một quan điểm nhất quán mà Người
cùng Đảng ta triển khai thực hiện vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh chỉ rõ:
Trước hết cần nhận rõ mục đích của việc tổ chức hợp tác xã là

gì? Là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nông dân được no ấm,
mạnh khỏe, được học tập, làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu
thì nước mới mạnh. Đó là mục đích riêng và mục đích chung của việc
xây dựng hợp tác xã [47, tr. 537].
Ngoài ra, xây dựng hợp tác xã còn nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, "hợp tác xã bản thân nó đã là hình thức của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bởi vì hợp tác xã vừa mang tính kế thừa, vừa
mang tính phát triển" [61, tr. 141-142]. Ở đây, mục tiêu của hợp tác xã và chủ
nghĩa xã hội là đồng nhất, đều do nhân dân lao động thực hiện, nhằm trực tiếp
xây dựng cho mình đời sống ấm no, hạnh phúc, còn quá trình nông dân xây
dựng hợp tác xã cũng là quá trình nông dân tự chuyển từ cách làm ăn đơn lẻ
sang tập thể ở trình độ cao hơn. Đó là bước đi thích hợp với giai đoạn đầu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta.


15

Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng hợp tác xã nông
nghiệp và đề ra các nguyên tắc để xây dựng, tổ chức, quản lý hợp tác xã bởi "nó
quy tụ và thể hiện những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội" [2, tr. 26],
bao gồm tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Một là, nguyên tắc tự nguyện. Theo Hồ Chí Minh, với tư tưởng tiểu
nông thì lúc đầu không phải người nông dân nào cũng nhận thức đúng đắn
tầm quan trọng của hợp tác xã và chấp nhận tham gia vào, vì vậy muốn đông
đảo nông dân tham gia không phải bằng hình thức bắt buộc, cưỡng chế mà
ngược lại phải bằng sự tự nguyện của họ, Người nói:
Tổ chức tổ đổi công, hợp tác xã là phải tự nguyện, nghĩa là tuyên
truyền giải thích ai muốn vào thì vào, không phải nắm cổ người ta kéo
vào. Ví dụ: mấy gia đình này vào hợp tác xã, tổ đổi công, thu hoạch 200
gánh, mấy nhà kia làm riêng lẻ thu hoạch 100 gánh thôi. Như thế những

nhà làm riêng lẻ sẽ muốn xin vào. Như thế để người ta tự xin vào. Người
ta thấy tổ đổi công, hợp tác xã làm tốt, người ta sẽ tự xin vào, không phải
nắm cổ người ta kéo vào [47, tr. 441].
Người khẳng định rằng để nông dân có thể tự nguyện xin vào hợp tác
xã thì công việc giáo dục, tuyên truyền đóng vai trò quan trọng và đây là khâu
quyết định để nông dân lựa chọn có vào hợp tác xã hay không.
Hai là, nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Theo Hồ Chí
Minh, để hợp tác xã phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp thì cần
phải đảm bảo cho mọi xã viên có quyền dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Người chỉ dạy: "Muốn xây dựng tổ đổi công, hợp tác xã được tốt phải đoàn
kết, phải làm cho mọi người tự nguyện tham gia, phải bàn bạc dân chủ và phải
tính toán công bằng, hợp lý" [47, tr. 133], do đó Người yêu cầu người cán bộ
cũng phải có tác phong làm việc dân chủ "muốn quản lý tốt hợp tác xã, cán bộ
quản trị phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh, làm việc gì cũng cần bàn
bạc kỹ với xã viên" [47, tr. 538] đảm bảo quyền bình đẳng của xã viên trong


16

hợp tác xã "đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều góp ít, vào trước vào sau, ai cũng
bình đẳng như nhau" [40, tr. 318].
Đây là mục tiêu và động lực để mọi xã viên gắn bó, đoàn kết với nhau
nhằm xây dựng hợp tác xã và để nâng cao đời sống của mình, bản chất xã hội
của hợp tác xã được thể hiện ngay trong nguyên tắc này.
Ba là, nguyên tắc không nóng vội, phải theo trình tự từ tổ đổi công lên
hợp tác xã cấp thấp rồi hợp tác xã cấp cao. Theo Hồ Chí Minh, sự phát triển
của hợp tác xã quy định bởi cả yếu tố vật chất và yếu tố tư tưởng. Do đó
Người cho rằng xây dựng hợp tác xã không nên nóng vội mà phải theo trình
tự "đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm mống xã hội
chủ nghĩa), tiến lên hợp tác xã cấp thấp (nữa xã hội chủ nghĩa), rồi tiến lên

hợp tác xã cấp cao (xã hội chủ nghĩa)" [48, tr. 15].
Sự phát triển đó không phải do ý muốn chủ quan mà do các điều kiện
khách quan quy định như trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất, năng lực
quản lý của cán bộ và trình độ nông dân, quá trình này phát triển nhanh thì
cần sự tác động của Đảng, Nhà nước với chủ trương chính sách đúng đắn.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò
quản lý của Nhà nước. Hồ Chí Minh kế thừa những quan điểm về xây dựng
hợp tác xã nông nghiệp vốn có từ trước và vận dụng sáng tạo vào điều kiện
nước ta, Người yêu cầu các hợp tác xã phải phát triển để làm cơ sở xã hội cho
sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng: "Các hợp tác xã nông nghiệp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải
trở thành những đội quân vững mạnh của mười mấy triệu nông dân lao động
trong công cuộc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, giáo dục tư tưởng và
xây dựng nông thôn phồn thịnh của nước ta" [48, tr. 21].
Tổ chức hợp tác xã theo Hồ Chí Minh cần có sự giúp đỡ của Nhà nước
nhất là về mặt tài chính, mỗi hợp tác xã phải có ban quản trị để điều hành hợp
tác xã phát triển, Người khẳng định:


17

Chính phủ có trách nhiệm xây dựng những công trình thủy
lợi lớn và cùng nông dân, hợp tác xã làm những công trình thủy lợi
vừa. Để phát triển nông nghiệp, hợp tác xã phải tậu trâu bò, sắm
nông cụ, mua phân hóa học v.v... hợp tác xã còn nghèo, thường
thường Chính phủ phải giúp đỡ, phải cho vay vốn [48, tr. 414].
Từ cuối những năm 1950, dưới sự lãnh đạo của Người và Trung ương
Đảng, quá trình hợp tác hóa nông nghiệp diễn ra và đã từng bước giải phóng
nông dân, góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trong mười năm, từ năm 1976 đến năm 1986, do phạm một số sai lầm "duy

tâm, chủ quan duy ý chí, nóng vội…" trong đường lối phát triển kinh tế của
Đảng đã dẫn đến sự tan rã của một loạt các hợp tác xã. Những sai lầm đó đã
được Đảng ta kiểm điểm và sửa sai trong thời kỳ đổi mới, bắt đầu từ cuối năm
1986. Nhờ đó, trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiện nay, trước yêu cầu hợp
tác hóa, nhiều hợp tác xã đã hình thành trở lại và hoạt động tương đối hiệu
quả, nhất là dưới hình thức dịch vụ, điều đó đã chứng tỏ tính thời sự và soi
đường của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển
nước ta hiện nay.
Về xã hội hóa trong sản xuất nông nghiệp, khi nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, trong đó có sản xuất nông nghiệp, quan
điểm về xã hội hóa biểu hiện rõ nét.
Trước hết, Hồ Chí Minh nêu bật quan điểm cần thiết phải áp dụng khoa
học kỹ thuật tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất.
Xuất phát điểm của kinh tế Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu nên Người luôn xem việc phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ quan
trọng nhất của sản xuất nông nghiệp: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta
là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền
Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại có
văn hóa và khoa học tiên tiến" [48, tr. 13].


18

Hồ Chí Minh cho rằng thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là
phải phát triển khoa học kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân. Người nói: "Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi
chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả
trong công nghiệp và trong nông nghiệp" [48, tr. 40-41].
Để phát triển khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, cần thiết
phải tiến hành ở hầu hết các công đoạn từ giống, phân, nước, thuốc trừ sâu,…

nhất là sử dụng máy móc: phải cải tiến máy móc hiện có kết hợp với phát
triển những máy móc mới. Công cuộc cải tiến kỹ thuật không chỉ tiến hành
trong sản xuất nông nghiệp mà phải trong tất cả các ngành "người đông thì sức
mạnh và ý kiến dồi dào" [48, tr. 138]. Khoa học cũng vậy, chỉ phát huy được giá
trị khi "trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất
lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ
nghĩa xã hội thắng lợi" [49, tr. 78], "cho nên mọi ngành, mọi người đều phải
tham gia công tác khoa học, kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất
ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi" [49, tr. 78].
Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp áp dụng khoa học kỹ thuật rộng rãi trong
toàn xã hội là tuyên truyền, vận động và phổ biến để đông đảo nhân dân am
tường, thực hiện được "công nhân phải giúp nông dân, giúp hợp tác xã cải
tiến công cụ từ những cái thô sơ trở đi…" [48, tr. 181]. Tại Đại hội thành lập
Hội phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam (18/5/1963) Người căn dặn các
Hội viên: "các đồng chí phải đi xuống tận các xí nghiệp, các hợp tác xã, hỏi
han công nhân, nông dân yêu cầu gì, họ làm ăn và sinh sống như thế nào và
phổ biến những điều cần thiết giúp đỡ họ cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất,
cải thiện đời sống" [49, tr. 78]. Ngoài ra, cần thiết phải "mở rộng sự hợp tác
với các nước anh em trong việc nghiên cứu khoa học, kỹ thuật" [49, tr. 77].
Đó là sự xã hội hóa lực lượng trong sản xuất nông nghiệp vì không chỉ
nông dân là lực lượng chính tham gia sản xuất nông nghiệp mà còn có cả thợ


19

thủ công, công nhân và các giai tầng khác cùng tham gia sản xuất phân, cung
cấp nước, giống, cây con và công cụ cải tiến, máy móc hiện đại sản xuất nông
nghiệp. Điều này thể hiện sự kế thừa và vận dụng những cái đã có để làm
thành sức mạnh tổng hợp, phát triển kinh tế đất nước.
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh để phát triển lực lượng sản xuất cần thiết

phải đảm bảo xây dựng cơ cấu kinh tế cân đối, hợp lý giữa các ngành, nhất là
các ngành công - nông - thương nghiệp, Người xem đây là ba mặt quan trọng
nhất và có quan hệ chặt chẽ với nhau của nền kinh tế.
Thứ hai, để thực hiện xã hội hóa trong sản xuất nông nghiệp, theo Hồ
Chí Minh cần chú trọng phát triển quan hệ sản xuất, đó là xây dựng các quan
hệ sở hữu, phân phối và tiêu dùng.
Về quan hệ sở hữu, nước ta tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau
vì vậy, xây dựng nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh
thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế và các hình thức
sở hữu khác nhau, trong đó hình thức sở hữu nhà nước và tập thể giữ vai trò
chủ đạo. Đối với sản xuất nông nghiệp thì xây dựng hợp tác xã là kết quả tất
yếu của xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, "quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa vững chắc thì nông nghiệp nhất định phát triển tốt" [48, tr. 15].
Người cũng coi trọng sự tồn tại và phát triển của các hình thức sở hữu khác
như sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư bản.
Về quan hệ quản lý, Hồ Chí Minh nêu yêu cầu phải nâng cao trình độ
người nông dân và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong sản xuất
nông nghiệp. Trong đó phải chú ý để người nông dân phát huy vai trò làm chủ
trên mảnh đất của mình, đồng thời đảm bảo sự quy hoạch, hỗ trợ hợp lý của
Nhà nước, tập huấn kỹ thuật, vốn vay cho nông dân trong quá trình sản xuất.
Về quan hệ phân phối, với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là một
xã hội công bằng, hợp lý, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc phân phối theo
lao động, phải luôn đồng cam cộng khổ, chống tư tưởng bình quân và chú ý


20

đến vấn đề công bằng "sản xuất được nhiều, đồng thời phải chú ý phân phối
cho công bằng" [46, tr. 537]. Phúc lợi xã hội phải đi đôi với hiệu quả của sản
xuất, nghĩa là hiệu quả sản xuất càng tăng thì phúc lợi càng lớn và phúc lợi

lớn sẽ tạo động lực để thúc đẩy người lao động càng có quyết tâm cao để
đóng góp sức lao động phát triển sản xuất.
Thứ ba, để xã hội hóa sản xuất nông nghiệp cần phải thực hiện hợp tác
chặt chẽ với các ngành khác và mở rộng hợp tác kinh tế với các nước.
Hồ Chí Minh xem sự liên kết là tất yếu để phát triển toàn diện nền kinh
tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Người nhận thức rõ tầm quan
trọng của quá trình hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, cả trong lĩnh vực
kinh tế. Người khẳng định từ năm 1919: "Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung
phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi
các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường" [39, tr. 9-10]. Người đặc
biệt quan tâm hợp tác với các nước nhằm tranh thủ về vốn và kỹ thuật để phát
huy nội lực, có nghĩa là trong phát triển sản xuất thì nội lực vẫn là yếu tố
quyết định còn ngoại lực chỉ như "thêm vốn cho ta".
Trong hợp tác quốc tế về kinh tế, Người chủ trương hợp tác với các
nước tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa nhằm phục vụ cho việc
kiến thiết quốc gia, Hồ Chí Minh nói: "Có thể rằng: chúng ta sẽ mời những
nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho
chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia" [42, tr. 74].
Như vậy, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo Hồ Chí
Minh là sự kết hợp của các yếu tố về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, sự
hợp tác hóa trong nước và quốc tế để phát huy tối đa nội lực, tận dụng ngoại
lực, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Vận dụng quan điểm trên trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng ta một mặt phát huy tối đa sức mạnh
hệ thống chính trị, sức mạnh toàn dân xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ


21

sản xuất, mặt khác luôn xem vấn đề hợp tác quốc tế là điều kiện để tranh thủ

vốn và khoa học kỹ thuật từ nước ngoài, phát triển nền nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn. Đại hội X khẳng định: "Phải phát triển nông
nghiệp toàn diện, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường" [18, tr. 39].
1.1.3. Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện
Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện vừa là nội dung vừa
là giải pháp trong sản xuất nông nghiệp. Hồ Chí Minh khẳng định "sản xuất
phải toàn diện", "nông nghiệp phải toàn diện",… trong một số bài nói chuyện
với đồng bào tỉnh Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, Bắc Giang, Thanh Hóa,… Người
quan tâm đến xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện vì: xuất phát
từ điều kiện tự nhiên của Việt Nam phong phú đa dạng về địa hình, thổ
nhưỡng cũng như quan điểm "tự lực" là chính trong kháng chiến và xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
"Tư duy của Người là tư duy của một thiên tài, luôn nhìn thấy và tìm cách
huy động tiềm năng mà đất nước có" [4, tr. 172]. Hơn ai hết Hồ Chí Minh am
tường về điều kiện tự nhiên của đất nước, Người cũng hiểu rõ tùy vào điều kiện
tự nhiên mà phát triển các loại cây trồng cho phù hợp: "Vùng đồng bằng miền
Bắc tuy ruộng ít, người nhiều; nhưng chúng ta trồng xen, tăng vụ, thì một mẫu
đất có thể hóa ra hai. Miền ngược thì có nhiều vùng đất rộng mênh mông và
màu mỡ, tha hồ cho chúng ta vỡ hoang. Như thế là địa lợi rất tốt" [48, tr. 544].
Vì vậy, xây dựng, phát triển nền nông nghiệp toàn diện là giải pháp tận
dụng mọi nguồn lực của đất nước từ tài nguyên thiên nhiên đến sức người,
trước hết là nông dân vì họ là lực lượng đông đảo nhất và để phát huy vai trò
nền tảng của nông nghiệp trong xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
"Đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân" là mục tiêu của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp nói


22


riêng, do đó Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng và phát triển nền nông nghiệp
toàn diện nhằm phục vụ cho sự nghiệp nâng cao đời sống nhân dân, phục vụ
sản xuất công nghiệp vì bên cạnh ăn no thì người dân còn yêu cầu được ăn
ngon, ngoài thóc thì các sản phẩm khác của sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu
cầu này, một mặt làm tăng thu nhập khi người dân bán các sản phẩm cho công
nghiệp, mặt khác cải thiện bữa ăn cho người dân. Người nói: "Sản xuất phải
toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải coi trọng hoa màu, cây ăn
quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ" [48, tr. 397].
Như vậy, nền nông nghiệp toàn diện theo Hồ Chí Minh bao gồm:
Một là, sản xuất nông nghiệp có ngành trồng trọt phát triển. Trong
bài nói chuyện với cán bộ và công nhân trường Đông Hiếu (Nghệ An) ngày
10/12/1961 Hồ Chí Minh khẳng định "trong trồng trọt phải chú ý toàn
diện" [48, tr. 478], bao gồm các loại cây trồng mà trong đó quan trọng nhất là
cây lương thực, nhất là cây lúa, bởi theo Người lương thực là sản phẩm chủ
yếu nhất của sản xuất nông nghiệp và trong điều kiện nước ta, cây lúa là cây
trồng chính, phải coi trọng cây lúa "sản xuất thóc là chính" [48, tr. 397].
Bên cạnh trồng lúa, Hồ Chí Minh rất chú trọng trồng hoa màu như ngô,
khoai, sắn "ngô, khoai, sắn là những thứ lương thực phụ rất cần thiết cho
người và gia súc. Nếu hoa màu thu hoạch kém thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến
nhiều việc" [48, tr. 547]. Trong những lần đến thăm và nói chuyện với cán bộ
và nhân dân, Bác thường nêu rõ tình trạng các nơi chưa phát triển được ngành
chăn nuôi là do chưa chú ý đến cây hoa màu như nói chuyện ở xã Đại Nghĩa
ngày 7/10/1961, hoặc trong bài viết Cần phải ra sức trồng nhiều hoa màu trên
báo Nhân dân ngày 17/4/1962, Người nêu lên một số tỉnh trồng khoai, sắn
chưa đạt kế hoạch và đề nghị cấp ủy các cấp hướng dẫn, động viên nhân dân
sản xuất để có một vụ hoa màu thắng lợi.
Ngoài ra, còn phải trồng cả cây công nghiệp, vì nông nghiệp làm nhiệm
vụ cung cấp nguyên liệu cho phát triển công nghiệp và sự nghiệp công nghiệp



23

hóa, do vậy "cây công nghiệp không đạt được kế hoạch thì ảnh hưởng đến
phát triển công nghiệp" [48, tr. 320], Người đặc biệt chú ý đến điều kiện khí
hậu và thổ nhưỡng cụ thể của từng nơi như ở Nghệ An thì chú ý trồng cà phê,
lạc, vừng; ở Hà Đông thì trồng mía; ở Thái Nguyên thì trồng chè… vừa tận
dụng được đất đai vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trồng trọt phải chú ý cả cây ăn quả và cây lấy gỗ để một mặt sử dụng
tối đa hiệu quả của các loại cây trồng lấy quả, lấy gỗ, mặt khác phát huy được
truyền thống dân tộc: phát động tết trồng cây tạo điều kiện xanh, sạch, đẹp
cho môi trường góp phần xây dựng đời sống mới. Quan niệm này gắn với yêu
cầu phát triển ngành lâm nghiệp, phải chú ý trồng trọt, bảo vệ và khai thác tài
nguyên rừng một cách hợp lý, vì Người xem đây là nguồn tài nguyên quốc gia
không được lãng phí:
Phải chú ý bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Tục ngữ nói "rừng
vàng, biển bạc".
Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ vàng của chúng
ta [48, tr. 321].
Hai là, nông nghiệp toàn diện phải có ngành chăn nuôi phát triển. Hồ
Chí Minh khẳng định "chăn nuôi là một mục quan trọng trong kế hoạch phát
triển nông nghiệp" [47, tr. 461] vì "chăn nuôi nhiều gia súc để đủ trâu bò cày
ruộng; nuôi nhiều lợn, gà để cung cấp thịt ăn cho nhân dân" [46, tr. 92],
nhưng trên hết theo Người chăn nuôi "là những nguồn lợi để tăng thu nhập
cho xã viên" [47, tr. 565].
Chăn nuôi còn để cung cấp phân bón cho trồng trọt, mà trong điều kiện
đất nước còn nghèo chưa có điều kiện sử dụng nhiều phân bón nhập từ bên
ngoài cũng như chưa có đủ nhiều nhà máy sản xuất phân bón, thì tận dụng
triệt để nguồn phân bón sẵn có phát triển ngành trồng trọt là rất cần thiết,
quan điểm này của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị khi trong một thời



24

gian dài nhiều tấm gương lao động giỏi kết hợp hữu hiệu mô hình vườn - ao chuồng: tận dụng triệt để cả chăn nuôi và trồng trọt.
Người cũng hết sức lưu ý mặc dù chăn nuôi cung cấp thịt ăn nhưng người
dân phải chống giết mổ bừa bãi nhất là trâu bò vì một mặt "nông dân sẽ thiếu
bò cày" [47, tr. 461], mặt khác gây "lãng phí rất nghiêm trọng" [47, tr. 460].
Trong điều kiện đất nước còn nghèo thì những lời chỉ dẫn của Người về tăng
gia sản xuất thực hành tiết kiệm rất thiết thực và cụ thể, đã tận dụng tối đa
mọi nguồn lực để phát triển sản xuất nông nghiệp làm tròn vai trò hậu phương
trong cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ba là, nền nông nghiệp toàn diện có ngành ngư nghiệp và các ngành
gắn với kinh tế biển phát triển. Nước ta có đường bờ biển tương đối dài từ
Bắc xuống Nam, khoảng 3.200km và hàng nghìn đảo lớn nhỏ, do đó kinh tế
biển đóng vai trò quan trọng, vừa tận dụng diện tích mặt nước vừa tạo điều
kiện để nhân dân xây dựng vùng biển, giữ vững an ninh quốc gia.
Ngành ngư nghiệp theo Hồ Chí Minh bao gồm cả nuôi trồng và đánh
bắt cá ở vùng sông hồ và vùng biển, riêng ở vùng biển thì Hồ Chí Minh chú
trọng phát triển các nghề gắn với biển như "nghề làm muối, nuôi dưỡng và
bảo vệ các thứ hải sâm, trân châu…" [48, tr. 354].
Người nhiều lần chỉ rõ bên cạnh khai thác thì phải kết hợp chặt chẽ với
nuôi trồng, nói chuyện với Hội nghị tổng kết công tác nông lâm ngư nghiệp
năm 1956, Người nói: "Ngoài việc đánh cá, phải chú ý nuôi cá" [46, tr.153],
nói chuyện với các nơi như Hà Đông, Hưng Yên, Hải Dương Người căn dặn:
"Cần đẩy mạnh thả cá để cung cấp thêm thực phẩm bổ sung cho thịt, cải thiện
đời sống nhân dân. Nuôi cá cũng dễ. Có nước và có công người thì cá phát
triển" [48, tr. 407].
Phát triển ngành ngư nghiệp là một trong những ngành chủ yếu vì tận
dụng tối đa điều kiện tự nhiên của "biển bạc", điều này thể hiện tầm nhìn

chiến lược của Hồ Chí Minh trong phát huy ưu thế đất nước khi ngày nay


25

nuôi trồng và xuất khẩu thủy hải sản là một trong những thế mạnh của Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, chú trọng phát triển kinh tế hộ gia đình. Hồ Chí Minh căn dặn
"phát triển thích đáng kinh tế phụ gia đình của xã viên" [48, tr. 407] vì nó
đóng vai trò quan trọng "miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại
nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập" [48, tr. 352], Người căn dặn cán bộ
phải chú ý đến phát triển kinh tế phụ của hộ gia đình: "Phải sắp xếp thế nào
để xã viên làm tốt công việc chung của hợp tác xã, đồng thời có thể săn sóc
miếng vườn của họ. Phải bố trí thế nào vừa phát triển được nghề phụ, vừa
không để nghề phụ lấn át nông nghiệp" [48, tr. 352].
Người nắm vững thói quen của người nông dân, có khi bước vào thời
vụ nhưng cũng có lúc nông nhàn, đó là thời gian để họ làm thêm nghề phụ.
Cần cù và sáng tạo vốn là một truyền thống quý báu của dân tộc nên bên cạnh
nông nghiệp thì nhân dân ta còn có nghề phụ là các làng nghề thủ công truyền
thống như dệt, gốm, đúc đồng,… các làng nghề này tồn tại và phát triển song
song với trồng trọt, chăn nuôi và chúng hỗ trợ cho nhau làm nên sự phong
phú của ngành nghề Việt Nam.
Phát triển quan điểm của Hồ Chí Minh, hiện nay chúng ta chủ trương
giữ vững và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc, các nghề thủ công
đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân khôi phục, phát huy để một mặt giữ
gìn bản sắc văn hóa, mặt khác kết hợp phát triển du lịch nhằm quảng bá văn
hóa dân tộc rộng rãi trong nước và quốc tế.
1.1.4. Phát triển mạnh hai chân nông nghiệp và công nghiệp
Theo Hồ Chí Minh đây vừa là mục tiêu để phát triển nền kinh tế nói
chung vừa là giải pháp để phát triển sản xuất nông nghiệp trong quá trình

công nghiệp hóa đất nước vì xuất phát điểm "từ một nước nông nghiệp lạc
hậu" nên bên cạnh phát triển nông nghiệp làm nền tảng thì phải phát triển
"công nghiệp hiện đại":


×