Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

THƠ PHÙNG QUÁN từ góc NHÌN tư DUY NGHỆ THUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THU HẰNG

THƠ PHÙNG QUÁN
TỪ GÓC NHÌN TƢ DUY NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Hà Nội - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THU HẰNG

THƠ PHÙNG QUÁN
TỪ GÓC NHÌN TƢ DUY NGHỆ THUẬT



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Thành

Hà Nội – 2013

2


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Văn học, Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã dạy dỗ em trong suốt
những năm học Cao học và tạo điều kiện để em thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn, PGS.
TS. Nguyễn Bá Thành, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình
hoàn thành luận văn. Em đã học được ở thầy một tinh thần nghiên cứu khoa học
nghiêm túc và thái độ làm việc hết mình. Xin gửi đến thầy sự biết ơn và kính trọng
chân thành nhất.
Cảm ơn gia đình và những người bạn thân thiết đã luôn tin tưởng, động viên
và giúp đỡ em.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Vũ Thu Hằng

3


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho

kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 9
5. Một số thuật ngữ sử dụng trong luận văn ............................................................ 10
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 10
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................... 10

PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 11
Chương 1: Khái quát về tư duy nghệ thuật và quá trình sáng tác của Phùng Quán ...11
1.1. Khái niệm tư duy nghệ thuật và tư duy thơ ....................................................... 11
1.1.1. Tư duy nghệ thuật .......................................................................................... 11
1.1.2. Tư duy thơ ..................................................................................................... 12
1.2. Quá trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật của Phùng Quán .......................... 18
1.2.1. Sơ lược về tiểu sử ............................................................................................ 18
1.2.2. Sự nghiệp văn học ........................................................................................... 19
1.2.3. Tìm hiểu thơ Phùng Quán từ góc độ tư duy nghệ thuật ................................. 26

Chương 2: Nhân vật trữ tình và cảm hứng chủ đạo trong thơ Phùng Quán .. 29
2.1. Cái tôi trữ tình ................................................................................................... 29
2.1.1. Cái tôi công dân ............................................................................................. 30
2.1.2. Cái tôi nội cảm ................................................................................................ 42

2.1.3. Hình ảnh người mẹ ......................................................................................... 52
2.2. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Phùng Quán: Phê phán, đấu tranh đến
cùng với những mặt trái của xã hội ................................................................... 55

Chương 3: Biểu tượng và ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Phùng Quán ........ 61
3.1. Biểu tượng nghệ thuật ........................................................................................ 61
3.1.1. Liên tưởng, tưởng tượng ................................................................................. 61

4


3.1.2. Một số biểu tượng đặc sắc............................................................................... 66
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................................................... 72
3.2.1. Ngôn ngữ đời sống, khẩu ngữ ......................................................................... 72
3.2.2. Ngôn ngữ triết lí .............................................................................................. 78
3.3. Cấu tứ và thể loại ............................................................................................... 81
3.3.1. Cấu tứ .............................................................................................................. 81
3.3.2. Thể loại............................................................................................................ 85

PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 94

5


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien

mien phi
phi
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một thời gian dài đã trôi qua sau những biến động chính trị, xã hội, văn hóa
mà báo Nhân văn và tập san Giai phẩm tạo ra, và khi những ảnh hưởng và hậu quả
của nó đối với đời sống văn học Việt Nam đã dần trở thành một phần của lịch sử
văn học thì cũng là lúc nhu cầu xét lại, đánh giá lại những tác phẩm nghệ thuật,
những tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm trở thành một xu hướng nghiên
cứu, viết lịch sử văn học ở Việt Nam. Trước hết phải kể đến hai tư liệu khá đầy đủ
về Nhân văn-Giai phẩm là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí xuất
bản tại Sài Gòn năm 1959, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá xuất bản, và Bọn
“Nhân văn-Giai phẩm” trước tòa án dư luận cùng năm 1959 in ở Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội. Tuy nhiên, hai tư liệu này đều đánh giá Nhân văn-Giai phẩm trên
quan điểm chính trị một chiều, một tư liệu thì thiên về phê phán, đả kích, một tư
liệu thì thiên về ca ngợi, cường điệu hóa vai trò của Nhân văn-Giai phẩm. Ngoài
ra, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về các tác giả mà cuộc đời họ cách
này hay cách khác phải chịu những ảnh hưởng nhiều mặt từ sự thất bại của Nhân
văn-Giai phẩm. Trên phương diện học thuật có thể kể đến những tên tuổi như
Phan Khôi, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo; trên phương diện nghệ thuật thị giác
có các họa sĩ như Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng; trên phương diện âm nhạc có
Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Tử Phác. Còn trên phương diện văn học, những người
được nói đến nhiều nhất là các nhà thơ Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt. Nghiên
cứu về thơ văn Phùng Quán không được đề cập đến nhiều. Nghiên cứu này của
chúng tôi, chính là một nỗ lực nhỏ nhằm khỏa lấp những khoảng trống trong việc
đánh giá những cống hiến nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ Phùng Quán. Nghiên
cứu này cũng xuất phát từ nhu cầu cần thiết đưa ra một góc nhìn toàn diện hơn,
đầy đủ hơn về nhóm Nhân văn-Giai phẩm và về lịch sử văn học Việt Nam thời kì
hiện đại.
Khi bàn luận hay nhắc đến nhóm Nhân văn-Giai phẩm, việc Phùng Quán ít

được nhắc đến hơn những nhà thơ như Trần Dần, Hoàng Cầm và Lê Đạt là điều có
thể lí giải. Thơ Phùng Quán không nổi bật bằng mảng văn xuôi của ông, thơ ông
6


cũng ít nhiều bị coi là đơn điệu, ít cách tân hơn những nhà thơ như Trần Dần,
Hoàng Cầm, Lê Đạt. Thơ Phùng Quán là mảng ít được bàn tới, chưa nói đến việc
xa hơn là có những nghiên cứu quy mô về thơ ca của ông. Đây là một nguyên
nhân thứ hai, khiến chúng tôi, trong luận văn này đặc biệt chú ý đến trường hợp
thơ Phùng Quán, như một nỗ lực tiếp theo, hầu cung cấp một hình dung đầy đủ
hơn về gia tài văn chương nghệ thuật của ông.
Từ góc độ lí thuyết nghiên cứu thơ ca những năm gần đây, xu hướng nghiên
cứu nghệ thuật lấy trọng tâm là cấu trúc tác phẩm, tự sự tác phẩm, tự sự cá nhân
tác giả đã có những thành quả vang dội với tên tuổi của những nhà nghiên cứu như
Andrew H. Miller, Caroline Rosenthal, Eve O'Callaghan (những nghiên cứu về
các sáng tác của nữ giới), Roberto Gonzalez Echevarria (tự sự trong văn học Mỹ
Latin), Irene Kacandes (tự sự văn chương bình dân)… và ngày càng có nhiều thêm
những tác giả, tác phẩm mới ra đời, đề cập đến phương diện nội tại của tác phẩm
nghệ thuật.
Và đôi khi, trong dòng chảy của nghiên cứu văn học đương đại đó, do quá
nhấn mạnh vào tác phẩm mà người ta chưa đem đến cảm giác thỏa đáng cho người
đọc. Một phần là vì tác giả và tác phẩm vốn là hai phạm trù không thể tách rời
trong quá trình nghiên cứu nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Trong bối
cảnh đó, có một số xu hướng đã nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc cân bằng
hai yếu tố này trong nghiên cứu văn học. Tác phẩm là nơi chúng ta soi thấy những
vấn đề của tác giả. Và tác giả trở thành một chủ thể sáng tạo thực sự những giá trị
của nghệ thuật. Sau một quá trình cân nhắc, chúng tôi nhận thấy tính chất khả thi
và thuyết phục của những nghiên cứu liên quan đến tư duy nghệ thuật và sự thể
hiện của tư duy nghệ thuật trên văn bản. Những nghiên cứu này sẽ đề cập toàn
diện hơn mối quan hệ vốn phức tạp giữa tư duy nghệ thuật của chủ thể sáng tác và

kết quả của quá trình sáng tác là tác phẩm. Đó là lí do vì sao chúng tôi muốn áp
dụng hướng nghiên cứu này với thơ của Phùng Quán, như một nghiên cứu trường
hợp (case study), một hiện tượng nghệ thuật cụ thể của văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phùng Quán sớm nổi danh với tiểu thuyết Vượt Côn Đảo và trường ca Tiếng
7


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
hát trên địa ngục Côn Đảo nhưng có thể nói những phê bình, đánh giá về ông
cũng như tác phẩm của ông chỉ bắt đầu xuất hiện sau vụ Nhân văn-Giai phẩm
(1957-1958). Ngay sau đó, tên tuổi và tác phẩm của ông lại biến mất khỏi văn đàn.
Chỉ đến khi Phùng Quán được phục hồi hội tịch Hội nhà văn (3.2.1988), những bài
phê bình đánh giá về ông và tác phẩm của ông mới xuất hiện trở lại. Như vậy,
chúng tôi tạm chia phê bình, đánh giá về Phùng Quán thành hai giai đoạn: trước
khi Phùng Quán được phục hồi hội tịch Hội nhà văn (1988) và sau năm 1988.
Mặt khác, khi nhắc đến Phùng Quán, người ta thường nghĩ đến một nhà văn
nổi tiếng với tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội, hơn là một nhà thơ có ảnh hưởng rộng
khắp và có tính cách tân như một số nhà thơ cùng thời với ông. Chính bởi vậy sẽ
rất khó khăn để tìm được những nghiên cứu cụ thể về thơ của ông. Số lượng
nghiên cứu liên quan đến thơ Phùng Quán là không nhiều.
Trước năm 1988, phê bình về thơ Phùng Quán rất ít, chủ yếu tập trung trong
hai tư liệu: Bọn “Nhân văn-Giai phẩm” trước tòa án dư luận và Qua cuộc đấu
tranh chống nhóm phá hoại “Nhân văn Giai phẩm” trên mặt trận văn nghệ. Ngoài

ra, có bài thơ ““Lời mẹ dặn” có phải là bài thơ chân thật?” của Trúc Chi phê bình
bài Lời mẹ dặn của Phùng Quán. Những phê bình về thơ Phùng Quán trong giai
đoạn này chỉ tập trung trong thời gian ngắn (1957-1958). Đáng chú ý, phê bình về
thơ Phùng Quán trong thời gian này đã kết hợp công kích cả con người, nhân cách
của ông. Đây là tính chất phê bình văn chương một thời: thơ chính là người, thơ
nói những lời hay ý đẹp thì con người làm ra thơ cũng cao cả, tuyệt vời, ngược lại,
thơ nói lên những ý kiến trái chiều thì tác giả của nó hẳn cũng là kẻ chống phá, có
mưu đồ phản động.
Thứ nhất, về mặt nhân cách, Phùng Quán bị đánh giá là một cá nhân có những
biểu hiện chống đối, đi ngược lại với những yêu cầu của lí tưởng chung. Tác giả
Xuân Dung đánh giá Phùng Quán là kẻ “ăn chơi đàng điếm”, làm tâm hồn quần
chúng xa rời những vấn đề quan trọng, cấp thiết của đời sống lúc bấy giờ: “Đó là
chưa nói tới những câu chuyện ăn chơi đàng điếm làm “ngẩn ngơ bao điệu tâm
hồn” như Phùng Quán” [49, tr. 44]; Tác giả Lưu Trùng Dương cho rằng Phùng
Quán xa rời quần chúng, không chung tay xây dựng sự nghiệp chung, mà còn “phá
8


phách”, “chửi bới lung tung”, đó là thái độ của một kẻ “vong ân”, “bội nghĩa”:
“Phùng Quán phá phách vô kỷ luật, không chịu làm việc theo phân công của tổ
chức và chửi bới lung tung những người khuyên ngăn hắn, kể cả Đảng và quân đội
là những người có công ơn nuôi nấng dạy dỗ hắn cho nên người.” [49, tr. 108];
Tác giả Bàng Sĩ Nguyên thì đánh giá Phùng Quán là kẻ bất tài nhưng lại gian lận,
háo danh: “Trong văn nghệ cũng có số ít người như Phùng Quán (mới học hơn lớp
ba mà mộng vào Đại học đã được Tửu chấm gian điểm định đưa vào Đại học làm
tay chân).” [49, tr. 119]. Về vị trí của Phùng Quán trong vụ Nhân văn-Giai phẩm,
tác giả Hồng Cương cho ông là kẻ nhẹ dạ, cả tin, dễ kích động, một đối tượng để
xúi giục, lôi kéo vào phong trào chống Đảng và Chính phủ: “Như đối với Phùng
Quán và Phan Vũ thì chủ trương “chẳng cần xúi giục một việc gì cụ thể, chỉ cần
khích một câu” là Phùng Quán và Phan Vũ sẵn sàng làm đủ mọi việc mà Trần Dần

muốn, như Phùng Quán và Phan Vũ đã tự kiểm thảo là trong thời kỳ Nhân văn chờ
khi có biểu tình nổ ra là sẵn sàng xung phong vác cờ đi đầu và cầm súng bắn vào
Đảng và Chính phủ.” [49, tr. 130]. Tương tự với ý kiến của Hồng Cương, Tố Hữu
cho rằng: “Anh chàng Phùng Quán trẻ tuổi rơi vào tay mụ ngoáo ộp Thụy An, tên
phù thủy Trương Tửu, có khác gì con dê con ấy.” [23, tr. 32].
Thứ hai, về mặt tác phẩm, chất lượng tác phẩm của ông bị đánh giá là tồi. Lưu
Trùng Dương cho rằng những điều Phùng Quán viết ra đao to búa lớn, nhưng thực
chất là rỗng tuếch: “Phùng Quán mở mồm là hùng hổ lắp đi lắp lại như con vẹt
mấy tiếng “lớn”, “vĩ đại”, “bất tử”…” [49, tr. 109]. Lưu Trùng Dương mượn lời
những tác giả khác trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm để chê bai tác phẩm của
Phùng Quán: “Phùng Quán trâng tráo khoe “quyển” “Chiến sĩ mù” chính tao cũng
thấy tồi nhưng tao cũng cứ đút vào nhà xuất bản để lấy tiền”. [49, tr. 110]. Bàng Sĩ
Nguyên “giễu nhại” bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán, cho rằng nguyên mẫu
“người mẹ” và những lời khuyên dạy của mẹ về lẽ sống ở đời thực chất là Trương
Tửu, người đã cho Phùng Quán những cái “danh hão”: “phục Tửu như thánh sống,
coi Tửu nói như “lời mẹ dặn.” [49, tr. 119]. Những tác phẩm của Phùng Quán
cũng như của những tác giả Nhân văn-Giai phẩm bị Vũ Đức Phúc cho là cố ý “bôi
bác”, bôi đen, hạ thấp giá trị của những người vốn được tôn sùng như “thánh
9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
nhân”, không bao giờ mắc sai lầm. “Đọc qua một ít “tác phẩm” của họ như
“Những người khổng lồ” của Trần Duy, “Bức thư gửi một người bạn cũ” của Trần

Lê Văn. “Chống tham ô lãng phí” của Phùng Quán (Giai phẩm mùa thu tập I và
tập II), “Con người Trần Dần” của Hoàng Cầm (Nhân văn số 1) chúng ta thấy họ
bôi bác cán bộ, bộ đội ta thành những hạng người hèn hạ, quan liêu, tham ô, lãng
phí, độc đoán, hách dịch, tóm lại là “không tim”, “không óc”, “đáng khinh”, “đáng
ghét”.” [49, tr. 117] Sáng tác của Phùng Quán cũng như của những nghệ sĩ Nhân
văn-Giai phẩm bị tác giả Quang Đạm chỉ trích là “nấm độc”, “cỏ dại” gieo rắc
những tư tưởng phi chính thống, đi ngược lại những yêu cầu chính trị bấy giờ:
“Đặc biệt là nhiều bài của Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,
Phùng Quán… thì chỉ là những cỏ dại, những nấm độc. Để cho những thứ đó mọc
bừa lên một cách tự phát theo ý muốn của Nhân văn-Giai phẩm thì lãnh đạo chẳng
còn là lãnh đạo, và xã hội nhất định sẽ biến thành một cái “Thiên đường riêng của
văn học nghệ thuật” phản động.” [49, tr. 198-199] Nguyên Hồng xác nhận những
sai lệch trong tư tưởng tác phẩm của Phùng Quán và các tác giả của Nhân vănGiai phẩm: “Hay với những bài thơ như “Lời mẹ dặn”, “Ông vỗ ngực” nhận thấy
có thái độ và tư tưởng có nhiều sai lệch, chủ định đăng lên rồi phê bình nhưng rồi
buông trôi hay chỉ làm một cách hời hợt.” [49, tr. 303] Tố Hữu cho rằng tác phẩm
của Phùng Quán và các tác giả Nhân văn-Giai phẩm là sự bôi xấu chế độ: “Được
bọn “Nhân văn cổ võ, khen ngợi”, báo Văn lại cho ra cả một loạt bài và tranh của
bọn Nhân văn ra mặt chống Đảng, đả kích dư luận phê bình, bôi đen chế độ: “Hãy
đi mãi” của Trần Dần, “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán.” [23, tr. 22]
Trên đây là hai tư liệu đánh giá, phê bình chính thống về Phùng Quán. Còn bài
thơ ““Lời mẹ dặn” có phải là bài thơ chân thật?” của Trúc Chi là hiện tượng phê
bình giấu mặt. Theo Phùng Quán, đây là bài thơ làm ông vừa buồn cười vừa giận,
và hơn hai mươi năm ông đã đi tìm tác giả của bài thơ ấy để làm rõ ngọn ngành.
Phải đến năm 1979, khi được một người bạn gửi tặng tập thơ Một đôi vần ông
mới biết Trúc Chi chính là Hoàng Văn Hoan. Nhưng lúc này Hoàng Văn Hoan đã
“tị nạn chính trị” ở Trung Quốc. Trong bài thơ này, Trúc Chi phê phán lời thơ của
Phùng Quán là kiểu nói ỡm ờ, nói yêu ghét mà không nói rõ là yêu ghét “ai”. Trúc
10



Chi đưa ra cái lí: người mẹ đã dạy con không đến nơi đến chốn, cần dạy con phân
biệt kẻ xấu, người tốt để ghét hay yêu. Trúc Chi lập luận chính vì sự ỡm ờ, bất
minh đó mà lời thơ của Lời mẹ dặn thực chất là sự cổ vũ cho một lòng yêu ghét
bất chính.
Như vậy, giai đoạn trước năm 1988, cũng như các tác giả khác trong nhóm
Nhân văn-Giai phẩm, Phùng Quán bị đánh giá trên cả mặt tư cách con người và
tác phẩm. Bản chất các đánh giá này quy kết ông là kẻ “phá hoại”, có mưu đồ bất
chính với chế độ.
Sau năm 1988, chúng tôi thống kê được những công trình, bài viết của các tác
giả sau về thơ Phùng Quán:
- Nhớ Phùng Quán, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh, 2003. Cuốn sách tập hợp
những bài viết về đời tư và sáng tác thơ của Phùng Quán.
- Văn đàn-thời sự và bình luận, Nguyễn Hoàng Sơn, Nxb Văn học, 2003.
Nguyễn Hoàng Sơn đưa ra bình luận về một số sáng tác của vài tác giả, trong đó
có Phùng Quán.
- Phùng Quán viết “Trăng hoàng cung”, Hà Khánh Linh, Nxb Thuận Hóa,
2007, ghi lại hoàn cảnh và chặng đường viết tiểu thuyết thơ Trăng hoàng cung.
- Phùng Quán còn đây, Nxb Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2007, ghi lại
những di cảo của Phùng Quán và những hồi ức của bạn bè về ông.
- Những gương mặt thân yêu: Ghi chép về một số nhà văn, Huy Thắng, Nxb
Hội nhà văn, 2008. Cuốn sách gồm những bài viết về quá trình sáng tạo, về cuộc
đời và những kỉ niệm với một số nhà văn, nhà thơ. Trong đó, Huy Thắng đưa ra
khá nhiều ý kiến trái chiều về cuộc đời “cá trộm, rượu chịu, văn chui” của Phùng
Quán.
- “Về một bài thơ của Phùng Quán” đăng ở Tạp chí Thơ số 3 (2008) và đăng
lại trong Tạp chí Nhật Lệ số 160 (tháng 7/2008) của tác giả Hoàng Thái Sơn, bàn
luận về bài thơ Hoa sen của Phùng Quán. Trong bài viết này, Hoàng Thái Sơn cho
rằng Phùng Quán đã suy diễn, bình giá văn chương mà không căn cứ vào văn bản.
Ông cho rằng Phùng Quán đã hiểu lầm về những giá trị của “bùn”, đã “quay lưng
lại với triệu triệu đồng bào”, đã đọc thơ mà như “đấu tố”.

11


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
- Phản bác lại ý kiến của Hoàng Thái Sơn về bài Hoa sen, tác giả Mai Văn
Hoan có bài “Phùng Quán nhầm lẫn hay Hoàng Thái Sơn nhầm lẫn?”. Mai Văn
Hoan cho rằng Hoàng Thái Sơn đã nhầm lẫn trên nhiều phương diện, khẳng định
trong bài thơ Hoa sen Phùng Quán đã đứng về phía nhân dân để phê phán phường
bội nghĩa vong ân. [41]
- Tác giả Mai Văn Hoan tiếp tục tranh luận với Hoàng Thái Sơn về những yếu
tố nghệ thuật của bài thơ Hoa sen. Mai Văn Hoan phản đối ý kiến của Hoàng Thái
Sơn cho rằng việc Phùng Quán sử dụng thao tác lập luận phê bình trong một bài
thơ là không hợp lí. Ông cũng cho rằng việc Hoàng Thái Sơn phê bình về thơ và
cả nhân cách của Phùng Quán là một việc “nhầm lẫn, đã trót quy chụp nặng nề với
một nhà thơ mà về tài năng lẫn nhân cách đều đáng kính nể”. [42]
- Những người thắp lửa: Tiểu luận và chân dung văn học, Nguyễn Chu Nhạc,
Nxb Văn học, 2009. Cuốn sách gồm những bài tiểu luận về nhiều nhà văn, nhà thơ
Việt Nam, nước ngoài, đề cập đến những con người thật, những sự việc có thật
trong đó có nhà thơ Phùng Quán.
- Nhà phê bình Đường Văn cũng có bài bình luận về bài Hoa sen của Phùng
Quán. Đường Văn cho rằng Phùng Quán đã “xuấ t phát từ quan niê ̣m giai cấ p xã
hô ̣i rấ t cực đoan và có phầ n bảo thủ

, dung tu ̣c để phân tić h tác phẩ m , đánh giá


thiên lê ̣ch tác giả và kế t án .” Ông cũng cho rằng Phùng Quán đã hiểu hạn hẹp và
cứng nhắc về chữ “gần” trong bài ca dao.
- Quê quán của thơ: Tiểu luận và bút kí thơ, Ngô Minh, Nxb Thuận Hóa,
2013. Cuốn sách gồm các bài tiểu luận, bút kí viết công việc sáng tác thơ, phê bình
về thơ của các nhà thơ, trong đó có Phùng Quán.
Những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của chúng tôi
trong luận văn này như đã nói đến ở trên, không phải là quá nhiều. Ngoài ra, khi
xét đến lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi cũng tìm hiểu về lịch sử của phương
pháp được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn này.
Từ góc độ này, chúng tôi đã thừa hưởng được về mặt phương pháp những
nghiên cứu của những nhà nghiên cứu tiền bối như Nguyễn Bá Thành, Mã Giang
Lân, Hà Minh Đức, Lí Hoài Thu… Những nhà nghiên cứu này đã có những công
12


trình liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tư duy thơ, những nghiên cứu đã gợi
mở rất nhiều cho chúng tôi trên bình diện lí thuyết văn chương. Hầu hết những
nghiên cứu này đều là những nghiên cứu có tính chất thị phạm và khả năng trở
thành hình mẫu cho những nghiên cứu tương tự về tư duy thơ.
Theo thống kê của chúng tôi, sử dụng hướng nghiên cứu tư duy nghệ thuật cho
nhóm tác giả trên báo Nhân văn và tập san Giai phẩm, hiện có những công trình
sau: “Thơ Trần Dần – Từ quan niệm nghệ thuật đến hành trình sáng tác (Luận văn
Thạc sĩ của tác giả Hà Thị Hạnh, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội,
2009); “Thơ Lê Đạt nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật” (Luận văn Thạc sĩ của tác
giả Nguyễn Thị Thùy Dung, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội,
2010); “Thơ trên báo Nhân văn và tập san Giai phẩm nhìn từ góc độ tư duy nghệ
thuật” (Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thu Phương, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Hà Nội, 2012). Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về
tư duy thơ trong thơ Phùng Quán, nên chúng tôi ít nhiều hi vọng sẽ có những đóng

góp nhất định cho đề tài này, cũng như bổ sung một mảnh ghép theo hướng nghiên
cứu này về tác giả, tác phẩm trên báo Nhân văn và tập san Giai phẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi trong luận văn là tư duy thơ của
Phùng Quán. Những tư liệu thơ Phùng Quán mà chúng tôi sưu tầm được giới hạn
chủ yếu trong những tuyển tập sau:
Thơ Phùng Quán 1932 – 1995 (1995), Nxb Hội Nhà văn. Đây là tuyển tập thơ
đầu tiên được chính thức công bố của Phùng Quán sau khi ông đươc phục hồi hội
tịch Hội nhà văn, nhờ công sưu tầm lại của vợ ông là bà Vũ Thị Bội Trâm.
Thơ Phùng Quán (2003), Nxb Văn học, Hà Nội. Đây là tuyển tập gần như đầy
đủ nhất các tác phẩm thơ của Phùng Quán (74 bài thơ) nên được chúng tôi sử dụng
là nguồn tài liệu chính.
Nhớ Phùng Quán (2003), Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. Đây là tuyển tập ngoài
những sưu tầm thơ Phùng Quán, còn có thêm những phần viết về tiểu sử, cuộc đời
của Phùng Quán giúp soi rọi thêm những vấn đề liên quan đến Nhân văn-Giai
phẩm cũng như những ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành tư tưởng của
13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
nhà thơ.
Trong số những tác phẩm của Phùng Quán, chúng tôi lưu ý trường hợp của
tiểu thuyết thơ Trăng hoàng cung. Đây là tác phẩm có thể loại đặc biệt, có kết cấu
như một tiểu thuyết gồm 13 chương, có cấu trúc tự sự, có cốt truyện, có trình tự

lớp lang các tình tiết được kể lại xoay quanh tình yêu đơn phương cay đắng của
nhân vật chính. Nhưng điểm đặc biệt là bên cạnh những lời kể chuyện bằng văn
xuôi là sự xen kẽ của 14 bài thơ. Mười bốn bài thơ này nếu không có những lời kể
chuyện xen vào thì không thể kết nối với nhau. Dựa trên tài liệu Phùng Quán viết
“Trăng hoàng cung” của Hà Khánh Linh, chúng tôi nhận thấy ban đầu Phùng
Quán chỉ viết riêng lẻ từng bài thơ để gửi tặng “Nàng thơ” của ông (tức Hà Khánh
Linh). Sau đó, ông đã thêm vào những lời kể chuyện, dẫn dắt để kết nối các bài
thơ thành một câu chuyện tình yêu với đầy đủ cung bậc cảm xúc. Phùng Quán
cũng nhắc đến điều này trong phần Hậu từ của Trăng hoàng cung: “Nó xuất xứ từ
những bài thơ tình tôi viết tặng mối tình si mê mộng tưởng và… trong cơn say bất
tận. Đến lúc tỉnh mộng, tỉnh mê, tỉnh say, và đã ở cách xa nàng ngàn dặm, tôi đọc
lại, thêm vào những lời chú giải… Và thế là tự nhiên không khiến cuốn tiểu thuyết
thành hình.” Vì vậy, chúng tôi cho rằng hoàn toàn có thể tiếp cận tác phẩm này từ
góc độ tư duy thơ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này giới hạn trong những bài thơ trong ba
tuyển tập thơ ca trên. Chúng tôi cũng cố gắng tìm kiếm thêm những bài thơ được
xuất bản lẻ tẻ trên hệ thống báo chí Việt Nam trước và sau Nhân văn-Giai phẩm để
bổ sung và mở rộng thêm phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để
tiếp cận thơ Phùng Quán:
Phương pháp tiểu sử tác giả: Từ những đặc điểm về tiểu sử của tác giả, chúng
tôi đánh giá sự ảnh hưởng của những đặc điểm này lên sự nghiệp văn học của ông.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội: Chúng tôi khảo sát và đánh giá các
vấn đề về thơ Phùng Quán trong sự soi chiếu với hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt
Nam những năm 1954-1995. Từ đó, có thể thấy những tác động nhất định của các
14


vấn đề lịch sử xã hội lên thơ Phùng Quán, cũng như cách Phùng Quán phản ứng

trước các tác động đó.
Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh
thơ Phùng Quán với thơ của một số tác giả Nhân văn-Giai phẩm để tìm ra những
điểm tương đồng, dị biệt nhất định giữa các sáng tác của họ, ngõ hầu đưa ra những
kiến giải ban đầu về vị trí, vai trò của Phùng Quán trong Nhân văn-Giai phẩm.
Phương pháp thống kê: Khi khảo sát thơ Phùng Quán trên một số bình diện cụ
thể như: sự xuất hiện của các biểu tượng, cách sử dụng đại từ nhân xưng… chúng
tôi phải sử dụng phương pháp thống kê để bạn đọc tiện theo dõi.
Phương pháp nghiên cứu loại hình: Chúng tôi sử dụng những đặc trưng về thể
loại để nghiên cứu về ngôn ngữ, biểu tượng, cấu tứ, thể loại trong thơ Phùng
Quán.
5. Một số thuật ngữ sử dụng trong luận văn
Luận văn của chúng tôi sử dụng một số thuật ngữ như tự sự, tư duy thơ, nghiên
cứu cấu trúc, nghiên cứu loại hình văn học là những thuật ngữ lí thuyết chuyên
sâu. Đối với từng trường hợp, nếu cần thiết, chúng tôi sẽ có những giới định nội
hàm ngắn gọn và cụ thể.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn sẽ bước đầu đưa ra những thông tin có tính chất định tính về mảng
thơ ca của Phùng Quán, đồng thời làm rõ được tầm quan trọng của mảng thơ ca
trong số những sáng tác của ông. Từ đó góp phần hoàn thiện hơn bức chân dung
nghệ thuật của nhà thơ, nhà văn Phùng Quán.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận, luận văn sẽ được cấu trúc như sau:
Chương 1. Khái quát về tư duy nghệ thuật và quá trình sáng tác của Phùng
Quán
Chương 2. Nhân vật trữ tình và cảm hứng chủ đạo trong thơ Phùng Quán
Chương 3. Biểu tượng và ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Phùng Quán

15



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TƯ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA PHÙNG QUÁN
1.1. Khái niệm tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy thơ
1.1.1. Tƣ duy nghệ thuật
Tư duy là quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính, bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng. Tư duy
của con người có bản chất xã hội, chịu sự chế ước của các nhu cầu xã hội và sử
dụng ngôn ngữ, là cái chỉ tồn tại trong xã hội loài người. Tư duy là một quá trình
tâm lí phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, là sự phản ánh những
thuộc tính chung và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật
của sự vật, hiện tượng. Tư duy hướng đến sự thành thục, khi sự thành thục đã có
thì tư duy kết thúc.
Tư duy nghệ thuật là tư duy sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ thuật.
“Tư duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và
tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Bản chất của nó do phương thức thực tiễn tinh thần
của hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng quy định. Tư duy nghệ thuật là
một phương thức hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hiện thực và giải quyết
nhiệm vụ thẩm mĩ. Phương tiện của nó là các biểu tượng, tượng trưng và có thể
trực quan được. Cơ sở của nó là tình cảm. Dấu hiệu bản chất của tư duy nghệ thuật
là: ngoài tính định giá ước lệ, nó hướng tới sự nắm bắt những sự thật đời sống cụ
thể, cảm tính, mang nội dung khả nhiên, có thể cảm thấy, theo xác suất khả năng

và tất yếu.” [16, tr. 281]. Như vậy, tư duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ
của thế giới quan và nhân sinh quan của người sáng tạo trong việc lựa chọn biểu
tượng nghệ thuật để truyền tải cách tư duy, cách nhìn thế giới của mình.
Trong sáng tạo nghệ thuật, tư duy hình tượng là kiểu tư duy đặc thù. Cái tôi
nghệ sĩ tham gia vào quá trình tư duy với chức năng điều khiển, điều chỉnh tư duy
đi theo đúng quy luật nhận thức và đặc trưng của sáng tạo nghệ thuật. Nó nội quan
hóa thực tại và tự biểu hiện mình qua hình tượng nghệ thuật. Đó là sự thống nhất
hài hòa giữa cảm tính và lí tính, giữa chủ quan và khách quan.
16


1.1.2. Tƣ duy thơ
1.1.2.1. Tư duy thơ là sự thể hiện cái tôi đang tư duy
Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Đặc điểm
quan trọng nhất của tư duy thơ là sự biểu hiện của cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc,
cái tôi đang tư duy. Trong Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, nhà nghiên
cứu Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Thơ trữ tình là “bản tốc kí nội tâm”. Nghĩa là sự
tuôn trào của hình ảnh, từ ngữ trong một trạng thái cảm xúc mạnh mẽ của người
sáng tạo. Chính vì vậy, về bản chất, mọi nhân vật trữ tình trong thơ chỉ là những
biểu hiện đa dạng của cái tôi trữ tình.” [71, tr. 166]
Theo định nghĩa của Karx Marx thì “cái tôi là trung tâm tinh thần của con
người, của cá tính người, có quan hệ tích cực với thế giới và với chính bản thân
mình. Chỉ có con người độc lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng
thể hiện tính chủ động toàn diện mới có cái tôi của mình.” [79, tr. 66]. Như vậy,
cái tôi vừa mang bản chất xã hội, vừa mang dấu ấn cá nhân. Cái tôi là sự thể hiện
của chủ thể trong nhận thức và sáng tạo, là nền tảng của sự sáng tạo. Vì vậy, với
một hoạt động đặc trưng là sáng tạo nghệ thuật, cái tôi đương nhiên giữ vai trò chủ
đạo. Nhân vật trữ tình trong sáng tạo nghệ thuật là sự biểu hiện trực tiếp của cái tôi
đang tư duy.
Trong thơ trữ tình, cái tôi trữ tình đóng một vai trò quan trọng. Theo định

nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học, thơ trữ tình “chỉ chung các thể thơ thuộc
loại trữ tình. Trong đó, cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình
trước các hiện tượng đời sống được thực hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá thể
hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là dấu hiệu tiêu biểu
của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm từ các cung bậc tình cảm cho tới những
chính kiến, những tư tưởng triết học.” [16, tr. 317] Cái tôi trữ tình có nhiều biểu
hiện nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành, nó được biểu hiện dưới hai
dạng chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình
coi trọng sự biểu hiện chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài thơ.
Tuy nhiên, do sự chi phối quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại
17


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định.
Thứ nhất là cái tôi trữ tình trực tiếp, cái tôi thứ nhất, khi nó phản ánh tình cảm
của cái tôi, ta có tư duy thơ thiên về hướng nội, khi nó phản ánh khách thể, ta có tư
duy thơ thiên về hướng ngoại. Hướng nội và hướng ngoại trong tư duy thơ không
đối lập mà bao hàm. Có hướng nội trực tiếp, và có hướng nội gián tiếp; hướng
ngoại cũng có hướng ngoại trực tiếp và hướng ngoại gián tiếp. Giữa chúng có mối
quan hệ tương đồng, tuy nhiên tư duy thơ lúc thiên về chủ thể, lúc thiên về khách
thể. “Hướng ngoại gián tiếp là đặt chủ thế ở vị trí thứ yếu, không quan trọng. Mục
đích phản ánh của thơ là hiện thực khách quan. Cái tôi, chỉ là phương tiện phản

ánh hiện thực mà thôi. Nhưng cái tôi ở đây là cái tôi hiện thực, cái tôi trữ tình
không đối lập với cái tôi tác giả, phản ánh những tình cảm điển hình, những trạng
thái tiêu biểu của cái tôi trong mọi liên hệ đối với thực tại. Đặc điểm này dễ bị lẫn
với đặc điểm hướng nội gián tiếp. Nhưng hướng nội gián tiếp thì mục đích biểu
hiện là cái chí khí cá nhân, tình cảm cá nhân. Tình cảm, chí khí ấy không mang
tính chất đại diện cố ý cho cái chung. Còn hướng ngoại gián tiếp thì cái riêng được
nhấn mạnh ở khía cạnh đại diện cho cái chung chứ không phải được nhấn mạnh ở
phía đặc thù.” [73, tr. 216]. “Như chúng ta đã biết, thơ trữ tình được coi là “những
bản tốc kí nội tâm”. Nhưng nội tâm không chỉ là những lời độc thoại. Nội tâm
cũng được biểu hiện bằng hình ảnh, bằng biểu tượng trực quan. Khi trong thơ
không còn những sự lí giải, biện luận có tính chủ quan mà chỉ giữ lại những biểu
tượng, những hình ảnh hiện thực khách quan, cái tôi trữ tình ẩn khuất đi để cho
hình ảnh tự vận động… thì ta nói tư duy thơ hướng ngoại hoàn toàn, hay hướng
ngoại trực tiếp.” [73, tr. 218]
Một điểm cần nhấn mạnh là cái tôi trữ tình không hoàn toàn đồng nhất và
trùng khít với cái tôi của nhà thơ mà là sự thể hiện tinh thần và tư duy sáng tạo
nghệ thuật của nhà thơ.
Thứ hai là cái tôi trữ tình gián tiếp, cái tôi thứ hai, hay cái tôi đã được nghệ
thuật hóa trong tác phẩm. Cái tôi này là cái tôi nhập vai, mang nhiều vai. Theo GS.
Hà Minh Đức, đó là trường hợp nhập vai vào một nhân vật nào đó, có thể có thật
(ví dụ như trong bài Mẹ Tơm – Tố Hữu). Nhưng cái tôi trực tiếp vẫn có mặt trong
18


tác phẩm, biểu hiện ở cách cảm cách nghĩ. Và ngay từ cảm hứng chủ đạo đến
giọng điệu thi ca vẫn mang dấu ấn của chủ thể sáng tạo.
1.1.2.2. Tư duy thơ là sự khôi phục sáng tạo các biểu tượng trực quan để bộc
lộ nhận thức chủ quan
Thơ có một khả năng biểu đạt phong phú nhờ hệ thống biểu tượng đa dạng.
Biểu tượng trong thơ vừa mang tính chất biểu tượng thính giác, vừa mang tính

biểu tượng thị giác. Chính vì thế mà trong thơ vừa có nhạc vừa có họa.
Trong cuốn Từ điển triết học của M.Rudentan và P.Iudin, biểu tượng được
hiểu là “hình ảnh cảm tính cụ thể về những hiện tượng của thế giới bên ngoài.
Biểu tượng cùng với cảm xúc và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính… Tri giác
phản ánh một sự vật riêng lẻ tác động vào giác quan của chúng ta trong những
trường hợp cụ thể nhất định. Biểu tượng phản ánh khái quát hơn, trừu tượng hơn.”
[40, tr. 62].
Tư duy hình tượng là đặc trưng của nghệ thuật. “Tư duy logic thường thoát
khỏi những biểu tượng trực quan mà chủ yếu vận dụng khái niệm. Tư duy khoa
học mang tính khách quan. Ở tư duy hình tượng, các biểu tượng trực quan do quá
trình quan sát, thu nhận được là công cụ trực tiếp của tư duy. Có thể coi tư duy
hình tượng là quá trình khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan. Sáng tạo
các biểu tượng mới và thể hiện lại dưới một hình thức cụ thể. Còn tư duy toán học,
tư duy logic là làm biến đổi các mối quan hệ đã biết để tìm các mối quan hệ mới
giữa các khái niệm, các đại lượng.” [71, tr. 28] Cụ thể trong văn học, biểu tượng
văn học “là những hình ảnh, tín hiệu ngôn ngữ trong tác phẩm có tính khái quát và
phổ biến đến mức có khả năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất,
một số đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện.” [20, tr. 20] Trong Từ điển thuật
ngữ văn học, biểu tượng được định nghĩa là “đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là phương thức
chuyển nghĩa của lời nói hoặc của một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng
truyền cảm lớn vừa khái quát được bản chất của hiện tượng, vừa thể hiện một quan
điểm, một tư tưởng, hay triết lí sâu xa về con người và cuộc đời…” [ 16, tr. 23]
Tuy có tính khái quát và phổ biến, nhưng biểu tượng không mang giá trị cũ
19


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
mòn, mà luôn sống động nhờ sự làm mới biểu tượng từ trong tư duy của người
nghệ sĩ. Biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm
nhưng mang những ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc. Biểu tượng
mang tính đa nghĩa, tính văn hóa truyền thống. Biểu tượng chịu sự chi phối của
ngôn ngữ, của tâm lí, quan niệm dân tộc và thời đại. Biểu tượng đôi khi cũng
mang sắc thái riêng của người sáng tác. Nhờ có tính biểu tượng mà ngôn ngữ văn
học nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng có khả năng biểu đạt phong phú, sâu sắc
hơn ngôn ngữ thường nhật. Bên cạnh đó, sự lặp lại các biểu tượng tạo nên những
mô típ quen thuộc trong thế giới nghệ thuật riêng của nhà thơ. Khi đó biểu tượng
cho thấy những ám ảnh, những suy nghĩ sâu kín của nhà thơ.
Trong Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Bá
Thành cho rằng: “Tư duy thơ nói riêng cũng như lao động trí óc nói chung đã để
lại trong sản phẩm của nó dấu ấn của một cuộc hành trình, hành trình của trí tưởng
tượng.” [71, tr. 66]. Tưởng tượng trong tư duy thơ khác với tưởng tượng trong
khoa học “Trí tưởng tượng của nhà khoa học khác với nhà thơ ở chỗ, nhà khoa học
thì mã hóa các tài liệu cảm tính, quy chúng về các đại lượng, các kí hiệu và con số,
quan sát và biểu diễn sự vận động của hiện thực thành sự vận động của khái niệm,
của kí hiệu. Khả năng tưởng tượng của tư duy khoa học là ở chỗ trừu tượng hóa,
vô hình hóa các sự vật và hiện tượng. Còn nhà thơ thì cụ thể hóa, hình tượng hóa
hiện thực khách quan theo một đường dây liên tưởng.” [71, tr. 59] Liên tưởng,
tưởng tượng trong thơ không bị ràng buộc bởi cái có thật, tư duy thơ chấp nhận
khả năng tưởng tượng của nhà thơ, chấp nhận cái được biểu đạt là cái có thật từ
những liên tưởng, tưởng tượng của nhà thơ. Như vậy, liên tưởng, tưởng tượng mở
ra khả năng vô tận cho nhà thơ tiếp cận với cuộc sống, mở ra những ý hướng mới,
phát hiện những phẩm chất mới. Nhưng mỗi nhà thơ, khi đứng trước cùng một đối
tượng, sẽ có những liên tưởng, tưởng tượng khác nhau bởi tư duy thơ của họ khác

nhau. Qua hệ thống biểu tượng ta sẽ thấy được những nét đặc thù của từng nhà
thơ.
1.1.2.3. Tư duy thơ thể hiện quan niệm sáng tác của nhà thơ
20


Quan niệm về thơ sẽ chi phối tư duy thơ. Những định hướng khái quát về quan
điểm nghệ thuật thơ chi phối sâu sắc tư duy thơ, rõ nhất là trong nhân vật trữ tình.
Quan niệm ấy đã trở thành một yếu tố thẩm mĩ khi được chuyển hóa thành cái tôi
thi sĩ.
Thơ trữ tình luôn gắn với cái tôi trữ tình, luôn dựa trên sự rung động và những
suy nghĩ, trải nghiệm của cái tôi cá nhân. Có thể nói rằng cái tôi ngoài đời có ít
nhiều ảnh hưởng lên cái tôi trong thơ. Đọc thơ của một tác giả, ta có thể thấy thấp
thoáng một nụ cười, một tiếng nói quen thuộc, gần gũi với tác giả ngoài đời. Nếu
như cái tôi của nhà thơ là toàn bộ con người nhà thơ trong đời thực thì cái tôi trữ
tình là biểu hiện tinh thần của nhà thơ trong tác phẩm. Sự vận động của cái tôi trữ
tình trong thơ chính là sự vận động của cảm xúc thơ. Đó là một hình thái vận động
mang nét riêng, là vận động từ cảm xúc đến suy nghĩ, từ những rung động trực
tiếp đến chiều sâu của nhận thức. Cái tôi trữ tình dù luôn vận động nhưng vẫn giữ
được nét ổn định, đánh dấu phong cách riêng của từng tác giả. Cái tôi cá nhân
mang số phận, cá tính, quan niệm của mình vào trong thơ trữ tình. Mỗi cái tôi có
quan niệm, số phận, cá tính khác nhau, vì vậy, thế giới của cái tôi trữ tình là không
cùng. Thế giới cái tôi trữ tình là một thế giới ước lệ và biểu tượng. Đó là một thế
giới của suy tư, cảm xúc, nỗi niềm vô hình, bí ẩn, được thể hiện ra bằng tiếng nói
trữ tình. Tiếng nói ấy xuất phát từ cái nhìn và ý thức bên trong. “Nhà thơ phải tuân
theo tiếng nói xuất phát từ thế giới bên trong mình, trước hết phải lắng nghe
chúng.” [71, tr. 41] Vì vậy, nghiên cứu cái tôi trữ tình là nghiên cứu tiếng nói sâu
thẳm bên trong của nhà thơ, ngõ hầu lí giải được ít nhiều thế giới tinh thần bí ẩn,
sâu kín của họ.
Tư duy thơ là phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Biểu tượng thơ

được lựa chọn theo tiêu chí nhất định để đáp ứng được nhu cầu thể hiện của nhà
thơ, thể hiện được tư tưởng chủ đề, và phù hợp với phương pháp sáng tác. Tính
chất trực quan của các biểu tượng gắn với sự nhạy bén của các giác quan mang
tính cụ thể sinh động nhưng chủ yếu được cấp thêm những ý nghĩa mới để thể hiện
tư tưởng của nhà thơ trước hiện thực. Sự lặp lại của các biểu tượng tạo nên những
mô típ quen thuộc, tạo nên trường sáng tác, thế giới nghệ thuật riêng của nhà thơ.
21


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Khi đó biểu tượng trở thành “mắt nhìn” của nhà thơ, chi phối các phương thức
biểu hiện của nhà thơ. Vì vậy, nghiên cứu biểu tượng thơ là rất cần thiết để hiểu
được quan điểm của nhà thơ.
1.1.2.4. Tư duy thơ chịu sự chi phối của sự vận động ngôn ngữ theo thể loại
Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là phương tiện trực tiếp của tư duy, là
hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Trong văn học, ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất, nói
theo văn hào Gorki. Văn học được xem là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Bằng chất
liệu đặc biệt là ngôn từ, văn học tái hiện cụ thể và trực tiếp quá trình tư duy của
người nghệ sĩ. Hơn nữa, với chất liệu ngôn từ, người nghệ sĩ không chỉ tái hiện
được đời sống đa dạng mang tính tạo hình mà còn mở ra chân trời tưởng tượng vô
cùng phong phú về thế giới tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người, từ đó tác
động đến người đọc, người nghe, đem đến những rung động sâu xa, những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú trong tâm hồn người đọc. Phương tiện để biểu đạt
tư duy chính là ngôn ngữ. “Không có ngôn ngữ thì tư duy chỉ là những dự báo mơ

hồ, những phản ứng có tính bản năng trước hiện thực. Không có tư duy thì ngôn
ngữ chỉ là tiếng kêu bập bẹ của trẻ sơ sinh mà thôi. Tư duy làm cho ngôn ngữ phát
triển phong phú, tinh xảo. Ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư duy đi sâu vào bản chất
của sự vật.” [71, tr. 19] Tương tự, trong tư duy nghệ thuật, cũng như trong tư duy
thơ, ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt của tư duy thơ.
Nhưng ngôn ngữ thơ là một loại ngôn ngữ đặc biệt. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Bá Thành cho rằng tư duy thơ là phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật.
Nhưng nó mang trong mình một khả năng biểu hiện phong phú nhờ khả năng biểu
hiện của ngôn ngữ thơ phong phú đa dạng, phương tiện ngôn ngữ của tư duy thơ là
một phương tiện giao tiếp có tính xã hội hóa cao độ. Cho nên thơ có thể biểu hiện
được nhiều tâm trạng, nhiều dạng cảm xúc, nhiều nội dung cụ thể và trực tiếp.
Chính ông cũng khẳng định thêm rằng ngôn ngữ là cái vỏ của tư duy, sự vận động
của ngôn ngữ nghệ thuật là biểu hiện trực tiếp của quá trình tư duy. Ngôn ngữ
nghệ thuật mang những đặc điểm loại hình nhất định. Nằm trong hệ thống tư duy
nghệ thuật, sự vận động của ngôn ngữ trong tư duy thơ cũng luôn tuân theo truyền
thống thể loại, ngay cả thể loại thơ tự do thì yêu cầu về nhịp, nhạc và hình thức
22


quan trọng. Tư duy thơ thường được biểu hiện thành những dòng phát ngôn trên
văn bản và từng khoảng ngắt hơi trong khi đọc. Như vậy, sự tồn tại của dòng thơ
tác động đến tư duy thơ.
1.2. Quá trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật của Phùng Quán
1.2.1. Sơ lƣợc về tiểu sử
Phùng Quán, họ tên khai sinh đồng thời là bút danh văn học là Phùng Quán.
Phùng Quán sinh tháng 1 năm 1932 (Tân Mùi), tại làng Thanh Thủy Thượng,
Tổng Dạ Lê, nay là Phường Thủy Dương, Thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa ThiênHuế. Ông tham gia Vệ Quốc Đoàn tháng 1 năm 1946 tại một đơn vị trinh sát
thuộc Trung đoàn 101 Trần Cao Vân, tỉnh Thừa Thiên. Sau đó ông gia nhập thiếu
sinh quân Liên khu, đoàn Văn công Liên khu 4, giữ chân hậu cần, bếp núc, kéo
phông màn và đọc thơ diễn tấu cho bộ đội nghe. Thời gian này ông được đi học

Thiếu sinh quân và Trường Quân chính, tham gia đoàn phóng viên quân đội về
Sầm Sơn, Thanh Hóa để thông tin về sự kiện trao trả tù binh Việt Minh-Pháp. Nhờ
chuyến đi này, Phùng Quán có tư liệu quý để viết tiểu thuyết đầu tay Vượt Côn
Đảo và trường ca Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo. Năm 1954, ông được điều về
Cơ quan Sinh hoạt Văn nghệ quân đội, thuộc Tổng Cục Chính trị, tiền thân của tạp
chí Văn nghệ Quân đội.
Ông là một trong những hội viên Hội nhà văn Việt Nam thế hệ đầu tiên năm
1957. Trong giai đoạn 1956-1958, ông tham gia viết bài cho báo Nhân văn, tạp chí
Giai phẩm, và báo Văn, bị kỷ luật, khai trừ ra khỏi Hội nhà văn, và phải đi lao
động cải tạo tại các nông trường, công trường ở Thái Bình, Thanh Hóa, Việt Trì
v.v. Năm 1964, sau khi hoàn thành chương trình “lao động cải tạo” ông được
chuyển về công tác tại Phòng tuyên truyền (Bộ Thủy Lợi), Vụ Văn hóa quần
chúng (Bộ Văn hóa), Nhà Văn hóa Trung ương. Thời kỳ này ông nhiều lần đi thực
tế sáng tác ở Vĩnh Linh, Quảng Bình. Phùng Quán về hưu năm 1985, và mãi đến
ngày 3-2-1988, ông được Hội Nhà văn Việt Nam ra văn bản “phục hồi hội tịch”.
Phùng Quán mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 do căn bệnh sơ gan cổ trướng.
1.2.2. Sự nghiệp văn học
Có thể nói, Phùng Quán là một đại diện tiêu biểu cho tinh thần tự học, hiếu
23


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
học và đặc biệt là lòng yêu văn chương sâu sắc. Ông sớm thành danh nhưng cũng
sớm gặp nhiều sóng gió. Một điểm mà chúng tôi nhận thấy trong sáng tác của

Phùng Quán là chính những tác phẩm thể hiện lòng trung thành với cách mạng và
nhân dân đưa lại danh tiếng cho ông, thì chính những tác phẩm cũng thể hiện tinh
thần, tư tưởng ấy (nhưng từ một cách tiếp cận khác) lại đẩy ông xuống “bùn-nhơlăng-nhục”. Nhưng trong 30 năm (1958-1988) sóng gió, tưởng chừng có lúc tuyệt
vọng ông chưa bao giờ ngừng viết. Phùng Quán sáng tác chủ yếu trong hai lĩnh
vực: văn xuôi và thơ.
1.2.2.1. Về văn xuôi
Phùng Quán sớm thành danh và nổi tiếng với tiểu thuyết Vượt Côn Đảo được
Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân in năm 1954. Cuốn tiểu thuyết này được tái bản
13 lần, từng được dịch và xuất bản bằng tiếng Nga năm 1956 bởi Nhà xuất bản
Văn học Thiếu nhi Liên Xô. Cuốn tiểu thuyết này đã được nhận giải thưởng của
Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955). Nhiều ý kiến cho rằng, dù chưa từng đến
Côn Đảo, chưa từng chứng kiến sự anh hùng, quả cảm của các chiến sĩ cộng sản
trước sự tra tấn của giặc thù, trước cái chết kề cận mỗi ngày, nhưng Phùng Quán
đã xây dựng được những hình tượng nhân vật cũng như những tình tiết như thật,
hợp logic đời thường, thể hiện một chủ nghĩa anh hùng cách mạng ngời sáng và
bất diệt.
Ngoài ra, Phùng Quán còn có những tập truyện dành cho thiếu nhi và một số
bút kí:
- Cuộc đời một đôi dép cao su, truyện thiếu nhi, Nxb Thanh niên, 1956.
- Thạch Sanh cháu Bác Hồ, truyện thiếu nhi, Nxb Thanh niên, 1955. Nxb
Thượng Hải (Trung Quốc) dịch và in năm 1956.
- Bên bờ Hiền Lương, bút kí, Nxb Văn nghệ, 1955, Nxb Thượng Hải (Trung
Quốc) dịch và in năm 1956.
Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, trong 30 năm, Phùng Quán phải mượn tên để
xuất bản các tác phẩm. Thứ nhất phải kể đến các tác phẩm viết lời cho truyện tranh
thiếu nhi:
- Chiếc cối giã trầu bằng thép, 1984, truyện tranh, tranh Huy Toàn, truyện
24



Phùng Quán, ký tên Thanh Tịnh, Nxb Văn hóa dân tộc, 1988.
- Thần hổ Chăm Pa, truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Trương Hiếu, Nxb
Văn hóa Dân tộc, 1986.
- Tượng A Vooc Hồ bằng gỗ trầm hương, truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh,
tranh Đỗ Xuân Doãn, Nxb Văn học dân tộc, 1986.
- Tiếng đàn đá, truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Huy Toàn, Nxb Văn
hóa dân tộc, 1986.
- Chuyện Tây Nguyên bên bờ Đanuyp xanh, truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh,
tranh Huy Toàn, Nxb Văn hóa, 1986.
- Pắc Bó đón Bác về, truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Nguyễn Bích,
Nxb Văn hóa dân tộc, 1986.
- Ngàn cánh hạc giấy, truyện tranh, lời Phùng Quán, tranh màu Lê Anh Vân,
Nxb Văn hóa dân tộc in 10.000 bản năm 1992, được sự tài trợ của tổ chức The
Japan Foundation (Quỹ Nhật Bản). Đây là truyện tranh duy nhất Phùng Quán ký
bằng tên ông. Ngoài các tác phẩm nêu trên, Phùng Quán còn có khoảng 60 truyện
tranh ký tên khác (không mượn tên).
Thứ hai là các tác phẩm truyện, kí, và tiểu thuyết:
- Như con cò vàng trong cổ tích, tập truyện thiếu nhi, tác phẩm ký bút danh Vũ
Quang Khải (em trai vợ) lúc đang làm cán bộ ở Diễn Châu, Nghệ An; Giải nhất
cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lênin, do hãng
Thông tấn Nôvôxti Liên Xô tổ chức năm 1970; Sở Văn hóa -TT Bình Trị Thiên
tái bản, 1987.
- Vĩnh Linh, lịch sử văn hóa, kí tên tác giả là Nguyễn Huy, Nxb Văn hóa, 1982.
In 6.100 bản.
- Dũng sĩ chép còm, truyện thiếu nhi, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,
1987, đang in với bút danh Trần Vỹ Dạ (tức nhà văn Thanh Tịnh) thì Phùng Quán
được phục hồi hội tịch Hội nhà văn nên đổi lại tên Phùng Quán (in 40.000 cuốn),
tái bản tại Nxb Kim Đồng.
- Tuổi thơ dữ dội, tiểu thuyết, Nxb Thuận Hóa in lần đầu năm 1983, với tên
sách Buổi đầu thử thách, tập 1, ký tên Đào Phương, in 5.150 bản. Sau khi Phùng

25


×