Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO dục học PHÁT TRIỂN GIÁO dục PHỤC vụ PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội, ý NGHĨA của nó TRONG sự NGHIỆP GIÁO dục HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.89 KB, 22 trang )

“PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI”. Ý
NGHĨA CỦA NÓ TRONG SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC HIỆN NAY.

Giáo sư- viện sĩ, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc sinh năm 1935 ở
Thanh Trì- Hà Nội, ông là tiến sỹ khoa học tâm lý học (1977) tại trường Đại
học tổng hợp Lômônôxốp, Nga, được phong Giáo sư (1984), phong Viện sỹ
Viện hàn lâm khoa học chính trị Nga (1999). Uỷ viên Trung ương Đảng khoá
VI, VII, VIII (1986-2001), Đại biểu Quốc hội khoá VII, VIII (1981- 1991),
Viện phó rồi Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục (1980-1987), Thứ trưởng
rồi Bộ trưởng Bộ giáo dục (1985- 1990), Viện trưởng Viện Nghiên cứu con
người (2000- đến nay).
Tác phẩm “Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển
xã hội-kinh tế” của giáo sư- viện sĩ, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc, là một
chương trình công nghệ nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX-07. Nó là kết
quả nổi bật của 5 năm triển khai chương trình thu thập các cứ liệu thực tế và
suy nghĩ lý luận nói lên sự cần thiết bức xúc tiến hành xây dựng ngành khoa
học nghiên cứu con người ở nước ta. Nó phù hợp với quan điểm “chiến lược
con người” của Đảng ta, cũng như các tư tưởng coi nhân tố con người, sự phát
triển người, nguồn lực người có ý nghĩa quyết định đối với sự sáng tạo tinh
thần và sáng tạo vật chất. Tư tưởng coi con người là trung tâm của sự phát
triển, coi phẩm chất của cuộc sống là chuẩn mực tổng hợp, con người là giá
trị của mọi giá trị.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra đường lối đổi mới, Nhà
nước ta đã xây dựng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm
2000. Trong đó tư tưởng xuất phát điểm của chiến lược này là đặt con người
vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế- xã hội. Đó là chiến lược của dân,
do dân, vì dân nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân,


từng tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc. Cho đến cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội Đảng toàn quốc lần


thứ VII thông qua và khẳng định: “Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của
chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ”. Mục
tiêu cao cả của CNXH là giải phóng con người, phát triển toàn diện cá nhân.
Với các đặc trưng cơ bản đó là: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước;
có nền kinh tế phát triển cao và nền văn minh tiên tiến, đậm dà bản sắc dân
tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân; công bằng xã hội và dân chủ được bảo đảm.
Xuất phát từ tư tưởng: con người giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển
kinh tế- xã hội, con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước,
nhằm phục vụ con người, vì lợi ích của từng người, từng tập thể và cả xã hội,
trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển, Chính phủ đã
quyết định đề ra một chương trình nghiên cứu con người trong hệ thống
chương trình nghiên cứu của Nhà nước thuộc kế hoạch 1991- 1995. Đó là
chương trình con người Việt Nam- mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế- xã hội. Chương trình này, nhằm nghiên cứu hiện trạng con người Việt
Nam và đánh giá hiện trạng đó, các vấn đề về nhân cách, các vấn đề về giáo
dục và đào tạo con người cũng như sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo lại, các vấn
đề xã hội gay cấn của con người, vấn đề lợi ích và nghĩa vụ của công dân,
quyền con người…Nghiên cứu các vấn đề này đã góp phần tạo dựng cơ sở
khoa học để thực hiện chính sách nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước. Giáo sư- viện sĩ, tiến sỹ khoa học Phạm Minh
Hạc đã tham gia chương trình nghiên cứu khoa học này và tác phẩm “Phát
triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội-kinh tế” được ra
đời trong bối cảnh đó.


Nội dung tác phẩm: “Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển xã hội- kinh tế” chương trình công nghệ cấp Nhà nước KX- 07 của
giáo sư- viện sĩ, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc gồm 4 phần:

Phần thứ nhất, đề cập thành tựu 50 năm nền quốc học nhân dân.
Phần thứ hai, đề cập văn hoá và giáo dục nhân cách văn hoá.
Phần thứ ba, đề cập các quan điểm tư tưởng chỉ đạo và cơ sở lý luận
tâm lý giáo dục học về giáo dục phát triển con người.
Phần thứ tư, đề cập vấn đề con người trong công cuộc đổi mới đi vào
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong khuôn khổ bài thu hoạch, qua nghiên cứu tác phẩm bản thân chỉ
đi sâu làm rõ vị trí, vai trò của phát triển giáo dục phục vụ phát triển kinh tếxã hội mà tác giả đã đề cập trong tác phẩm: “Phát triển giáo dục, phát triển
con người phục vụ phát triển xã hội- kinh tế”.
Thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng
hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Do đó, việc
phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, tăng cường nguồn
nhân lực được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng. Điều này được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo.
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự
tôn dân tộc, lý tưởng XHCN, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh
thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp
người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm
hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và
công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà


khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao
động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các
tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”1.
Để thực hiện được mục tiêu trên, trong những năm cuối của thế kỷ XX

và những năm đầu của thế kỷ XXI, chúng ta đã đổi mới tư duy, đẩy mạnh
phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời làm tốt công tác phát hiện,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài một cách hợp lý. Đó chính là
bí quyết thành công, là động lực để phát triển xã hội. Bởi mục đích của giáo
dục là đào tạo những con người phát triển toàn diện, làm tiền đề để phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc phát triển giáo dục chính là phát huy và làm
trường tồn những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và làm phong phú thêm
những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là
giáo dục nhân cách, hướng dẫn con người từ lối sống vô thức tới lối sống có ý
thức, từ lối sống chưa có giá trị đến lối sống có giá trị, từ lối sống phi lý đến
lối sống duy lý, và sau cùng là giáo dục để tạo ra giá trị của con người, phát
huy và phát triển hệ thống giá trị của dân tộc. Mục tiêu của phát triển giáo dục
nhằm nâng cao dân trí làm cơ sở đào tạo nhân lực và là nguồn gốc để đào tạo
và bồi dưỡng nhân tài trên nền tảng nhân cách tốt đẹp. Phát triển giáo dục và
đào tạo chính là tạo điều kiện để sản sinh ra nhiều nhân tài, làm giàu thêm
“nguyên khí của quốc gia”, đây chính là động lực thúc đẩy đất nước phát triển
nhanh và bền vững.
Vậy, phát triển giáo dục ở nước ta là phát triển những vấn đề gì? Quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề này như thế nào và chúng ta đã đưa ra
những giải pháp nào để thực hiện sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo
phục vụ phát triển kinh tế- xã hội?
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.
2001, Tr.201.


Trước hết, công cuộc phát triển giáo dục ở nước ta được xuất phát từ
đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta đề xướng chính thức từ Đại hội VI của

Đảng (12/1986); Đại hội VII (4/1991), với Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội, trong đó có đề cập đến nội dung giáo dục (bao gồm cả đào tạo) với cách
nhìn mới, quan niệm mới về giáo dục. Đó là, phải khắc phục tư tưởng coi giáo
dục chỉ nằm trong phạm vi của cách mạng tư tưởng- văn hoá, mà thật ra giáo
dục giữ vị trí trọng yếu đối với cả ba cuộc cách mạng và ngày nay với toàn bộ
công cuộc đổi mới đất nước. Chiến lược phát triển giáo dục là một bộ phận
trong chiến lược con người, và chiến lược con người đứng ở vị trí trung tâm
của toàn bộ chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước, bởi: “Con người là mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội”. Tiếp theo là phải khắc phục
quan niệm đầu tư cho giáo dục như là một thứ phúc lợi đơn thuần, đầu tư đến
đâu hay đến đó. Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Sau này,
quan điểm này được Đảng ta phát triển hoàn thiện qua các văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X, cũng như trong các văn kiện
của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư (khoá VII), Nghị quyết
Trung ương hai (khoá VIII) coi giáo dục là kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội,
nên phải đầu tư cho giáo dục như đầu tư vào giao thông, bưu điện…Phát triển
giáo dục phải đi trước một bước, đón đầu phát triển kinh tế- xã hội. Coi đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cơ bản cho chiến lược kinh tế. Một trong các khâu đột
phá đổi mới giáo dục là phải bắt đầu từ trường học- đơn vị cơ sở của hệ thống
giáo dục. Ở đây, cần xác định rõ nội dung giáo dục, đào tạo cụ thể, để sau này
khi học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học phải có ba giấy thông hành: giấy
thông hành hàn lâm (đủ vốn tri thức phổ thông), giấy thông hành nghề và giấy
thông hành doanh nghiệp. Toàn bộ quá trình đổi mới tư duy giáo dục phải
bám sát mục tiêu giáo dục là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách, đào
tạo con người có lòng yêu nước và lý tưởng XHCN, tiếp thu truyền thống tốt


đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá của loài người, có sức khoẻ, có phẩm
chất và kỹ năng để làm tốt một nghề, phải làm cho học sinh thực sự là chủ thể

của hoạt động học tập, học sinh cùng với giáo viên là chủ thể của hoạt động
dạy- học. Đồng thời xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng lực,
thực sự là người giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển giáo dục và thực
hiện chất lượng giáo dục. Từ những quan niệm mới về giáo dục trên, tại Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khoá VII), lần đầu tiên trong lịch
sử Đảng ta đã ra một nghị quyết riêng “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục- đào tạo” (1993) theo 4 quan điểm chỉ đạo đó là:
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều
kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội, xây dựng và
bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư
phát triển…
Mục tiêu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề
nghiệp,…Mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
Gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ
của thời đại.
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo; thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục,…
Từ những quan điểm trên có thể hiểu như sau:
Phương hướng tổng quát tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo là
phát triển mạnh giáo dục- đào tạo nhằm phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tếxã hội ở địa phương, từng tỉnh, từng vùng và trong cả nước.
Giáo dục có vai trò động lực, điều kiện cơ bản cho phát triển kinh tế- xã
hội.


Cách đi: phát triển giáo dục- đào tạo phải đi trước phát triển kinh tế- xã
hội.
Biện pháp tổng quát: coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của
đầu tư phát triển, xã hội hoá giáo dục- huy động toàn bộ xã hội làm giáo dục,

đa dạng hoá các hình thức đào tạo.
Để thực hiện tốt các quan điểm đề ra, Hội nghị đã đưa ra một số giải pháp:
- Làm cho toàn xã hội, mà trước hết là các cấp Đảng và chính quyền, nhất
là các ngành kế hoạch, tài chính quán triệt quan điểm “giáo dục là quốc sách
hàng đầu” vào thực tiễn bằng các quyết định cụ thể. Kinh nghiệm của các mô
hình làm giáo dục tốt, kể cả miền núi và những nơi khó khăn, từ cấp cơ sở lên
đến tỉnh, thành phố cho ta rút ra kết luận đó. Chỉ có bắt đầu từ đó thì giáo dục
mới được phát triển như là một bộ phận của kết cấu hạ tầng xã hội- kinh tếtiền đề của công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
-Phải giải quyết, cả trên bình diện lý luận lẫn bình diện thực tiễn, các
vấn đề như quy luật giá trị và giáo dục, cơ chế thị trường và giáo dục, xúc tiến
việc định hướng giá trị xã hội và giáo dục giá trị, nội dung giáo dục đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, truyền thống và hiện đại…Nhằm
giáo dục được những con người, các thế hệ thanh niên cách mạng đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Tất cả là ở chất lượng con
người ở các thế hệ nối tiếp.
-Nền giáo dục của chúng ta phải là nền giáo dục mang tính chất dân tộc,
nhân văn, khoa học và công nghệ, để giáo dục nên con người nhân văn, duy lý
khoa học, có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc và hiện đại.
- Phát triển giáo dục đa dạng hoá, xã hội hoá và dân chủ hoá; chấp nhận
phân hoá trên cơ sở bảo đảm công bằng, chú ý thích đáng đến các đối tượng
trong diện chính sách xã hội, thành phần nghèo, khu vực nông thôn, miền núi,
dân tộc ít người. Để có mặt bằng dân trí trong cả nước- tối thiểu cần thiết cho
đất nước đi lên- cần tập trung vào mục tiêu ưu tiên phổ cập giáo dục tiểu học,


ưu tiên cho đào tạo nhân lực thuộc mọi trình độ, mọi địa bàn- tiền đề tối thiểu
để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Bằng nhiều nguồn khác nhau, có đủ ngân sách để phát triển giáo dục,
thực hiện chất lượng. Đúng là phải có phong trào quần chúng: giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng, phải xã hội hoá giáo dục. Nhưng cũng đúng là giáo

dục phải được Nhà nước đầu tư thích đáng. Nên nói thẳng và làm thật đó là
thái độ đúng đắn. Thiếu giáo viên, không dạy đủ các môn học, lao động dạy
học không đủ sống, truyền thống tôn sư trọng đạo bị xói mòn, trường sở tồi
tàn, thiết bị còn nghèo nàn, quản lý bất cập…thì thật khó thực hiện các giải
pháp trên.
Phát triển tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII), nhằm đưa các
quan điểm, nhiệm vụ, nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng (khoá VIII) vào
cuộc sống. Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)
“Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”, tiếp tục khẳng định:
“Phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát huy nguồn
lực con người là khâu đột phá để tiến vào thế kỷ XXI” 2. Các quan điểm cơ
bản và tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục- đào tạo mà Nghị quyết hội nghị
đề cập được đông đảo các tầng lớp nhân dân mọi miền trong nước hoàn toàn
nhất trí ủng hộ. Toàn Đảng, toàn dân ta vui mừng nhận thấy trong thành công
của công cuộc đổi mới có những thành tựu quan trọng và tiến bộ đáng kể của
ngành giáo dục- đào tạo. Mặt khác, toàn xã hội cũng hết sức lo lắng trước
những yếu kém, bất cập của ngành giáo dục- đào tạo chưa đáp ứng kịp những
đòi hỏi của công cuộc phát triển đất nước, đặc biệt là sự lo lắng về công tác
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Hội
2

Đảng công sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghj lần thứ hai BCHTW (khoá VIII), Nxb CTQG,
H.1997, Tr.32


nghị nhận định là trong một bộ phận sinh viên, học sinh có tình trạng suy
thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập
thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Đất nước trong thời kỳ

đổi mới với nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, mở cửa có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, kéo theo biết bao cái mới
mẻ trong đời sống vật chất và tinh thần. Cả xã hội và ở từng người có biết bao
đổi thay trong quan niệm, cách nhìn, cách đánh giá cuộc đời. Mức sống được
cải thiện, lối sống cũng hết sức đa dạng và phức tạp. Xuất hiện xu thế ngày
càng phổ biến từ con người sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh vì nghĩa lớn
chuyển thành con người chạy theo đòi hỏi đời thường ngày càng mạnh, từ con
người hướng vào những giá trị tập thể, xã hội là chính chuyển sang hướng vào
lợi ích cá nhân và gia đình là chính. Nghiêm túc kiểm điểm Hội nghị Trung
ương 2(khoá VIII) thừa nhận trong những năm qua có phần lệch về dạy
“chữ”, ít “dạy nghề”, không chú trọng “dạy người”. Lẽ ra, ba mục tiêu dân trí,
nhân lực, nhân tài phải đặt trên mẫu số chung là nhân cách. Cho nên sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ
sự nghiệp giáo dục- đào tạo, tạo nên những con người mang đậm đà bản sắc
văn hoá dân tộc, kiên định mục tiêu giữ vững nền độc lập dân tộc, yêu quê
hương, thương đồng bào, xây dựng phát triển đất nước theo lý tưởng XHCN,
có trình độ khoa học, công nghệ, có sức khoẻ, được đào tạo có tay nghề, có tư
duy tốt, có tinh thần công dân, sống và làm việc theo pháp luật, có thế giới
quan Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại…
Kế thừa tư tưởng, quan điểm Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ hai (khoá VIII), Đại hội Đảng lần thứ IX, X tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục
quán triệt quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ
bản toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo. Triển khai thực hiện có
hiệu quả Luật Giáo dục. Định hình quy mô giáo dục và đào tạo, điều chỉnh cơ


cấu đào tạo, nhất là cơ cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo lãnh thổ phù
hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.
Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp” 3. “Giáo dục và đào tạo cùng với

khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc
đẩy công nghiệp hoạ, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy
và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo
dục Việt Nam” 4. Bởi hiện nay, bước vào thế kỷ XXI cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và quá trình toàn cầu
hoá làm cho khoa học, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực trở thành
nhân tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc phát huy nội lực, phát triển
đất nước, hợp tác và cạnh tranh khi nước ta hội nhập khu vực và quốc tế, và là
thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thì hơn lúc nào
hết chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo, phát triển toàn diện con người của
chúng ta phải đáp ứng yêu cầu của cả ba nền kinh tế: kinh tế lao động, kinh tế
tài nguyên và kinh tế tri thức. Giáo dục cần gắn với mục tiêu phát triển kinh
tế, xã hội, phát triển thị trường lao động, phát triển sản xuất, vì con người và
phục vụ con người và còn phải phù hợp với hoàn cảnh nền kinh tế nước ta
hiện nay. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải làm tốt một số nội dung sau:
Chuẩn hoá: Là phải hoàn thành mục tiêu chống mù chữ, phổ cập xong
giáo dục tiểu học, dân trí ngày càng cao, nhân lực ngày càng được nâng cao
dần về trình độ văn hoá, trình độ khoa học và công nghệ. Hiện giờ chúng ta đã
có một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, đủ sức để chuẩn
hoá tất cả các trường, các cấp học và bậc học, hoạt động dạy và học, các
phương tiện giáo dục- đào tạo nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Mọi thứ
3

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,
H.2001, Tr. 292.
4
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.
2006, Tr. 94,95.



từ giáo viên, chương trình, sách giáo khoa, giáo trình đến lớp học, trường học,
bàn ghế, thiết bị trường học từng bước, từng phần đều phải đạt chuẩn, lúc đầu
đạt chuẩn quốc gia và dần dần đến chuẩn quốc tế. Chuẩn hoá là tiêu chuẩn
của công nghiệp hoá, văn minh, hiện đại. Chuẩn hoá nhà trường theo hướng
giáo dục phát triển toàn diện con người và phát triển bền vững.
Hiện đại hoá: Trước hết, nội dung giáo dục, chương trình, sách giáo khoa,
giáo trình phải hiện đại hoá và cùng với nó là cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
Đặc biệt, quan trọng là người dạy phải có tinh thần hiện đại hoá. Phương pháp
dạy học, sách giáo khoa, giáo trình phải hiện đại hoá. Ngày nay, không chỉ có
nước ta mà nhiều nước trên thế giới coi cá thể phương pháp dạy và học,
phương pháp “giải quyết vấn đề” là hướng chủ yếu để hiện đại hoá bộ môn
giáo học pháp theo nguyên lý giáo dục, nhằm thức tỉnh tối đa tiềm năng của
người học và hình thành ở người học khả năng thích nghi tốt nhất, nhanh
nhất, tinh thần tư duy sáng tạo và có phương pháp tự học suốt đời. Do sự phát
triển của tin học hoá, Internet, sự đổi mới của công nghệ diễn ra nhanh chóng;
tính linh hoạt của thị trường lao động đã và đang làm cho tri thức nhanh
chóng bị lỗi thời. Vì vậy, giáo dục phải tạo cho con người tính nghi ngờ, tính
tương đối của tri thức để nhanh chóng thích ứng với những tri thức mới. Giáo
dục và đào tạo sẽ là nhân tố chính để duy trì và phát triển các giá trị văn hoá
dân tộc, phát triển xã hội và phát triển con người.
Dân chủ hoá: Dân chủ hoá giáo dục trước hết, thực hiện chủ trương giáo
dục cho mọi người, xoá mù chữ, từng bước phổ cập giáo dục từ thấp đến cao,
đem lại tri thức, trí tuệ cho mọi người dân. Mọi người dân đều có quyền bình
đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục, mọi người đều được đi học đó là quyền
cơ bản của con người. Dân chủ hoá giáo dục đi liền với công bằng xã hội
trong giáo dục, làm cho trường học thực sự là của dân. Người dân có trách
nhiệm và quyền được góp ý kiến xây dựng, cách tân, cải cách nội dung,
chương trình học, sách giáo khoa, giáo trình, kế hoạch dạy học, nhất là mục



tiêu đào tạo và tất nhiên cả việc triển khai thực hiện dạy và học. Dân chủ hoá
là tinh thần cốt yếu được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
Xã hội hoá giáo dục: Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước
mà là của toàn xã hội. Cho nên, xã hội hoá giáo dục là một trong những con
đường thực hiện dân chủ hoá giáo dục. Xã hội hoá giáo dục trước hết, nâng
cao trách nhiệm của mọi người đối với giáo dục thế hệ trẻ, tạo được một môi
trường giáo dục thống nhất tốt đẹp của cả xã hội, gia đình và nhà trường,
động viên khen thưởng kịp thời cả người dạy và người học, giúp đỡ các em
nghèo học giỏi, các em khó khăn khuyến khích các em chăm học. Xã hội hoá
giáo dục gắn liền với đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục…
Để thực tốt mục tiêu giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI
cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, chuyển đổi mô hình giáo dục.
Mô hình giáo dục của nước ta trước đây được xây dựng theo hệ thống
đóng kín của từng cấp học, ngành học, nặng về thi cử, lấy bằng cấp làm thước
đo. Nhiệm vụ hiện nay là chuyển dần sang mô hình giáo dục mở, mô hình xã
hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các
bậc học, ngành học với những hình thức học tập thực hành linh hoạt, đáp ứng
nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho
người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
Hai là, phát triển hệ thống hướng nghiệp và dạy nghề.
Đa dạng hoá các loại hình dạy nghề, phát triển nhanh hình thức đào tạo
nghề dài hạn theo hướng hiện đại. Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đaauf
tư thành lập các cơ sở dạy nghề tư thục, cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư của
nước ngoài hoặc tham gia hoạt động dạy nghề; mở rộng hình thức hợp đồng
liên kết đào tạo giữa cơ sở dạy nghề của Việt Nam với cơ sở dạy nghề của
nước ngoài. Đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình dạy nghề theo tiêu



chuẩn kỹ năng phù hợp tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và tiếp cận
với trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới, bảo đảm đào tạo liên thông.
Tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo nghề. Mục tiêu đề ra là trong 5 năm
tới dạy nghề cho 7,5 đến 8 triệu lao động (trong đó 27% đến 30% dài hạn).
Tăng số dạy nghề dài hạn 15%/năm. . Đến năm 2010 Tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo đạt 50% tổng lao động xã hội không phải là 40% như đã đề ra, Chính
phủ sẽ chi 1 tỷ USD cho đào tạo nghề, có 90 trường cao đẳng nghề, 270
trường trung cấp nghề (trong đó có 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp
cận trình độ tiên tién trong khu vực và thế giới) và 750 trung tâm dạy nghề.
Mở rộng hình thức hợp đồng với chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, thợ bậc cao của
các doanh nghiệp, viện nghiên cứu làm giáo viên thỉnh giảng cho các cơ sở
dạy nghề.
Ba là, đổi mới hệ thống giáo dục đại học, sau đại học.
Đào tạo đại học phải thực hiện tốt việc gắn đào tạo với sử dụng, trực
tiếp phục vụ việc chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân
lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, trọng dụng nhân tài, Có cơ chế và chính sách gắn kết có hiệu quả giữa
các trường đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và các doanh nghiệp để
chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh
doanh.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển đồng thời cả về quy mô và
nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Cải tiến công tác tuyển sinh để giảm
nhẹ công tác tuyển chọn đầu vào. Giữ gìn kỷ cương, nề nếp trong học tập,
giảng dạy và thi cử đánh giá. Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu
cực, gian dối trong dạy, học, thi và bệnh thành tích trong giáo dục- đào tạo để
bảo đảm chất lượng đầu ra, chất lượng đào tạo.
Chương trình đào tạo đại học phải thiết thực, vừa đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, vừa tiếp cận trình độ tiên tiến



của khu vực và thế giới. Quan tâm đến đội ngũ giảng viên, đẩy mạnh đào tạo,
lựa chọn đội ngũ nhà giáo cho các trường đại học, cao đẳng; cải tiến chế độ
tiền lương. Tập trung xây dựng một số trường đại học trọng điểm đạt trình độ
khu vực và quốc tế, xây dựng một đến hai trường đạt đẳng cấp quốc tế.
Bốn là, bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất
cả các cấp học, bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục,
phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học.
Hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Cải
tiến nội dung và phương pháp thi cử nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu tri
thức, khả năng học tập. Khắc phục những mặt yếu kém và tiêu cực trong giáo
dục. Triển khai hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục từng bước áp dụng
tiêu chí của các nước phát triển để đánh giá chất lượng đào tạo ở một số lĩnh
vực cụ thể; chuẩn bị điều kiện để tham gia vào hệ thống kiểm định chất lượng
giáo dục quốc tế.
Chất lượng đội ngũ giáo viên là khâu đột phá có ý nghĩa quyết định,
góp phần triển khai thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển giáo dục mà các
Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X đã thông qua. Do vậy phải chuẩn hoá giáo viên
về mọi mặt, không phải chỉ chuẩn hoá trình độ đào tạo mà cần tiếp tục đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo giáo viên theo hướng hiện
đại hoá; giáo viên tự rèn luyện khả năng thích nghi, tự cập nhật kiến thức và
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo. Coi trọng bồi dưỡng cho giáo viên năng lực
cải tiến phương pháp giảng dạy, có phương pháp tổng hợp để thích ứng, giáo
dục lòng yêu người, yêu nghề cho người thầy giáo thật sâu sắc. Phát triển đào
tạo giáo viên người dân tộc và giáo viên biết tiếng dân tộc cho các cơ sở giáo
dục ở vùng có nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số, có như vậy chúng ta
mới nhanh chóng chấn hưng được nền giáo dục của nước nhà.
Năm là, thực hiện xã hội hoá giáo dục và tăng cường hợp tác quốc tế về
giáo dục và đào tạo.



Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo cho
sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban,
ngành, tổ chức kinh tế- xã hội để mở mang giáo dục, tạo điều kiện cho mọi
thành viên trong xã hội được học tập.
Tiếp cận các chuẩn mực giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với yêu
cầu phát triển của nước ta để tham gia đào tạo nhân lực cho khu vực và thế
giới. Có cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường nước ngoài đầu tư hoặc
liên kết đào tạo.
Sáu là, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.
Phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến
hành giáo dục. Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các
chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ cho các vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, thực hiện việc miễn giảm
đóng góp và cấp học bổng cho học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học
sinh giỏi.
Tóm lại, phát triển giáo dục phục vụ phát triển kinh tế- xã hội thực chất
chính là thực hiện tốt mục tiêu giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trên
cơ sở giáo dục nhân cách. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhất thiết phải đổi mới tư duy về giáo dục và đào tạo, trước
hết chúng ta phải có quan niệm đúng về vai trò của giáo dục, của học vấn, của
tri thức trong công cuộc phát triển kinh tế- xã hội để thoát khỏi cảnh nghèo
nàn và lạc hậu. Từ đó, chúng ta có chính sách đầu tư thích đáng cho sự nghiệp
giáo dục như đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao chất lượng
cuộc sống, phát triển con người, có chính sách đào tạo nhân tài, trọng dụng
người tài. Đặc biệt là phải chăm lo cho giáo dục phổ thông, và trước hết là
giáo dục đạo đức, tư tưởng, chính trị. Có như vậy, chúng ta mới tạo ra một
nguồn nhân lực có trình độ cao, có khả năng tiếp cận nền khoa học hiện đại



phục vụ phát triển kinh tế- xã hội và thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới
đất nước do Đảng ta lãnh đạo. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo dục-đào tạo
cùng phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tác phẩm đối với sự phát triển giáo
dục phục vụ phát triển kinh tế- xã hội hiện nay.
Qua học tập, nghiên cứu tác phẩm “Phát triển giáo dục, phát triển con
người phục vụ phát triển xã hội- kinh tế” của giáo sư- viện sĩ, tiến sỹ khoa học
Phạm Minh Hạc, bản thân nhận thấy đây là một công trình nghiên cứu khoa
học có giá trị cả về mặt lý luận lẫn giá trị về mặt thực tiễn. Là kết quả 10 năm
miệt mài nghiên cứu của Giáo sư- viện sỹ, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc.
Nó được thể hiện ở một số vấn đề sau:
Đây là lần đầu tiên ở nước ta có một công trình khoa học công nghệ cấp
Nhà nước nghiên cứu về giáo dục và con người trên nhiều bình diện và liên
ngành. Trong đó vấn đề con người vốn là vấn đề hết sức phức tạp, đụng chạm
đến rất nhiều ngành khoa học và nghệ thuật. Trước đây cũng đã có một số
chương trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến con người và giáo dục như:
“Xây dựng con người mới”; “Giáo dục và đào tạo”; “Chính sách thế hệ trẻ”;
“Bảo hộ lao động”. Chương trình KX-07 mà giáo sư- viện sĩ, tiến sĩ khoa học
Phạm Minh Hạc tham gia và đề cập một phần trong tác phẩm đã kế thừa
thành tựu của các chương trình, đề tài này, tuy kết quả ban đầu của các công
trình này cũng chỉ mới giải quyết một số vấn đề còn tản mạn, chưa có điều
kiện nghiên cứu và kiến giải một cách tổng thể và có hệ thống, nhất là các vấn
đề về quan niệm đổi mới vị trí và vai trò của con người trong thời đại mới, là
cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con
người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi
nền văn minh của các quốc gia; con người phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực
của sự nghiệp xây dựng văn hoá mới, đồng thời là mục tiêu của CNXH.



Chương trình “Con người Việt Nam- mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế- xã hội” được thể hiện một phần trong tác phẩm đã nói lên bước
tiến mới trong đổi mới tư duy của Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta cùng
giới khoa học những người có sứ mệnh phải đi trước, phải dự báo những
thông tin, những sáng tạo làm cơ sở cho sự nghiệp phát triển, cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước.Đồng thời một lần nữa khẳng định sâu sắc vị trí
vai trò của con người, của nhân tố con người, của sự phát triển người, trong
công cuộc phát triển chung của đất nước.
Những nội dung đề cập trong tác phẩm là cơ sở lý luận, luận cứ khoa
học giúp cho Đảng, Nhà nước ta hoạch định, xác định các chủ trương, chính
sách nhằm chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh:
-Tăng cường nguồn lực con người Việt Nam, tạo ra khả năng lao động ở
một trình độ mới cao hơn nhiều so với trước đây.
- Làm phong phú đời sống tinh thần, bồi dưỡng con người về trí tuệ, đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh ngang tầm
sự nghiệp đổi mới đất nước, mau chóng bắt kịp xu thế phát triển của thời đại.
- Chăm lo sức khoẻ cho mọi người, nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người với tư cách là mục tiêu của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Những nội dung nói về giáo dục- đào tạo thể hiện trong tác phẩm, một
lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta coi giáo dục
và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời
khẳng định vị trí vai trò của giáo dục- đào tạo khi bước vào thế kỷ XXI, nhất
là công tác giáo dục- đào tạo thế hệ trẻ, trong đó trường học và gia đình phải
có trách nhiệm trực tiếp về vấn đề này. Trong thời đại ngày nay cần nhấn
mạnh vị trí giáo dục của gia đình, bởi gia đình có chức năng duy trì nòi giống,
con người sinh ra trong gia đình, giáo dục con người bắt đầu từ giáo dục gia



đình. Gia đình đặt nền móng cho tính người và tình người, từ đây xây dựng
nên nhân cách, tính cách của từng người, cơ sở ban đầu của nhân đạo, nhân
bản, nhân văn. Văn hoá, văn minh cũng bắt đầu từ đây.
Để có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ XXI, trong tác phẩm giáo sư- viện sĩ, tiến
sỹ khoa học Phạm Minh Hạc đã đưa ra những luận cứ khoa học xác định giá
trị, thang giá trị và những định hướng giá trị xã hội, có tính chất quyết định
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ ở
nước ta trong quá trình toàn cầu hoá, là thành viên của tổ chức Thương mại
thế giới (WTO):
- Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ mệnh
vẻ vang là công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển đất nước theo định hướng
XHCN.
-Con người có sức khoẻ cường tráng.
- Con người có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, mang bản chất nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan
hệ con người với con người và cộng đồng, sống cuộc sống có tình nghĩa.
- Con người khoa học và công nghệ, có đủ trí tuệ, có đầu óc duy lý của
thời đại và kỹ năng lao động lành nghề, biết làm ăn có hiệu quả cho bản thân
và xã hội, có tác phong (lối sống và nếp sống) văn hoá công nghiệp.
- Con người có tinh thần công dân; sống làm việc theo hiến pháp và pháp
luật, kỷ cương của tập thể và cộng đồng, thực hiện đúng các nghĩa vụ và biết
bảo vệ quyền lợi của mỗi người và toàn xã hội, của gia đình và đất nước, Tổ
quốc, sẵn sàng xả thân vì nền độc lập dân tộc.
Thực tiễn, đặt ra trong bối cảnh hiện nay không chỉ nước ta, mà cả các
nước trên thế giới đều cho rằng chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội phải gắn
bó với nhau, phụ thuộc vào nhau và hỗ trợ cho nhau. Bởi tất cả các chính sách
này đều xuất phát từ một ý tưởng nhân bản, nhân đạo của văn hoá, văn minh



nhân loại là lấy con người là trung tâm của sự phát triển, hướng tới đáp ứng
các nhu cầu của con người một cách có hiệu quả hơn, cả hiện tại và tương lai.
Điều này, được Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 (10/1987) đã thông qua kế
hoạch thực hiện cuộc vận động Thập kỷ văn hoá vì phát triển (1987-1997) với
4 mục tiêu lớn đó là:
- Thừa nhận vị trí của văn hoá trong phát triển, tìm mọi phương thức có thể
có cho sự hoà hợp giữa sản xuất và sáng tạo, để kinh tế có thể bắt rễ trong văn
hoá. Tuyệt đối không bao giờ hy sinh văn hoá để đổi lấy kinh tế.
- Tôn trọng tất cả các nền văn hoá của các dân tộc. Ở đây phải tuân thủ
nguyên tắc bình đẳng , không có thứ bậc, không có văn hoá dân tộc này tiên
tiến hơn văn hoá dân tộc kia.
-Mở rộng sự tham gia vào đời sống văn hoá, huy động mọi lực lượng và
bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, làm cho ngày càng có
nhiều người được bình đẳng trước các cơ hội hưởng thụ văn hoá, cũng như có
đóng góp bằng sản phẩm lao động, tác phẩm của mình vào sự phát triển văn
hoá của bản thân, gia đình, làng xã…
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hoá: thời đại này là thời đại của giao
lưu văn hoá trong vùng và trên thế giới, thời đại mở cửa, hoà nhập.
Trong báo cáo “Học tập: của cải nội sinh” của Uỷ ban quốc tế về giáo
dục trong thế kỷ XXI của tổ chức UNESCO có một chương nói về 4 cột trụ
của giáo dục, đó là: Học để biết; học để làm; học cùng chung sống, học cách
sống với người khác; học để tự khẳng định mình.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới “về phát triển xã hội” (Cô-pen-haghen, Đan Mạch, 3/1995) đã tập trung vào 3 chủ đề lớn: xoá đói giảm nghèo;
tạo việc làm và đảm bảo hoà nhập xã hội. Hội nghị đã ra tuyên bố: “Các mục
tiêu của phát triển xã hội đòi hỏi phải cố gắng liên tục để giảm và xoá bỏ các
nguồn gốc chủ yếu của cảnh khốn cùng và bất ổn định về mặt xã hội… chú
trọng và ưu tiên quan tâm đến cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ những điều kiện



trên thế giới gây ra mối đe doạ nghiêm trọng đối với sức khoẻ, an toàn, hoà
bình, an ninh và phồn vinh của con người”. Tại Hội nghị này, Nhật Bản đã
đưa ra kinh nghiệm với ba nguyên tắc phát triển kinh tế- xã hội: lấy con người
là trung tâm, lấy phát triển nguồn nhân lực là biện pháp quyết định, động viên
quần chúng tích cực tham gia.
Còn đối với nước ta quán triệt sâu sắc quan niệm đúng đắn về phát triển
đất nước, phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như
đường lối Đại hội VIII, IX, X quyết định. Đảng và Nhà nước ta đã thực sự coi
giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, đầu tư vào con người là đầu tư cơ bản. Và chúng ta đã xây dựng được
môi trường giáo dục ở cơ sở, thông qua liên kết giữa gia đình, nhà trường và
xã hội thực hiện các mục tiêu về chăm sóc, bảo vệ trẻ em, về phổ cập giáo dục
tiểu học, chống mù chữ. Thực tiễn chỉ rõ, nếu kết hợp không chặt chẽ với gia
đình và xã hội, nhà trường khó hoàn thành nhiệm vụ giáo dục của mình.
Chúng ta đã đầu tư vật chất cho nhà trường, xây dựng nhiều trường có phòng
học kiên cố, mua sắm trang thiết bị, tổ chức các thư viện, tiền bồi dưỡng thêm
cho giáo viên có thể bằng 1,5 đến 2 lần mức lương trung bình của giáo viên.
Chúng ta đã kích thích được động lực dạy của giáo viên, động lực học của
học sinh, thông qua cơ chế hợp đồng trách nhiệm, nhiều trường đánh giá khá
chính xác chất lượng học tập của từng học sinh vào đầu và cuối năm học, góp
phần chống được hiện tượng “ngồi nhầm lớp”, từng bước khắc phục tình
trạng chất lượng thấp kém. Tuy nhiên, nhìn lại thực tiễn cũng chỉ rõ hiện nay
nước ta còn có sự mất cân đối về phân bố tỷ lệ cán bộ khoa học kỹ thuật trong
tổng thể cán bộ các ngành ở nước ta, thể hiện trong số 23 ngành đào tạo ở
nước ta thì ngành giáo dục vẫn giữ vị trí số một, chiếm 34,6%; tiếp theo là
ngành kinh doanh và quản lý chiếm 19,3%; thứ ba là ngành kỹ thuật 8,1%;
ngành nông- lâm- ngư nghiệp đứng thứ 7, chiếm 4,41%; ngành chế tạo, chế



biến đứng thứ 17 chiếm 0,53% tổng số cán bộ khoa học và công nghẹ. Về
trình độ chuyên môn, cơ cấu về tỷ lệ cán bộ có trình độ từ đại học đến tiến sỹ
được phân bố như sau: cao đẳng 28,6%; đại học 68,29%; thạc sĩ 1,49%; tiến
sỹ và tiến sỹ khoa học chiếm 0,93%. Tỷ lệ cán bộ khoa học kỹ thuật hiện nay
được phân bố ở các khối ngành như: khoa học kỹ thuật 34%, khoa học nônglâm- ngư 24%, khoa học y- dược 18%, khoa học xã hội và nhân văn 13%,
khoa học tự nhiên 11%. Lao động đã qua đào tạo nghề chúng ta mới đạt
27,5%. Để điều chỉnh sự mất cân đối này, chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu bậc
học bằng cách tăng cường việc đào tạo cán bộ kỹ thuật ở bậc cao đẳng hoặc
trung cấp kỹ thuật, công nhân có trình độ cao trong một số ngành công nghiệp
chế tạo, công nghiệp chế biến, công nghiệp dịch vụ. Làm được điều này
chúng ta sẽ có một nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Như vậy phát triển giáo dục và đào
tạo nhân tài sẽ thúc đẩy nền kinh tế- xã hội nước ta phát triển thực hiện được
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng
thời cũng tạo điều kiện cho nền giáo dục- đào tạo nước nhà cùng phát triển.
Là một học viên qua học tập, nghiên cứu tác phẩm tôi thấy mình cần phải,
tích cực học tập, nắm vững kiến thức đã được học để sau này ra trường vận
dụng tốt kiến thức đã học vào trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa
học.
Quán triệt và nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.
Trên cơ sở đó giáo dục mọi người chấp hành và thực hiện tốt các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trên cương vị chức trách, nhiệm vụ được giao giúp học viên nắm vững
kiến thức được học để sau này khi ra trường sẽ là công dân có ích cho xã hội
và đơn vị, hoàn thành chức trách được giao, góp phần xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện, Quân đội ngày càng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng


bước hiện đại, làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực

thù địch.



×