Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài tập lớn môn Luật cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.27 KB, 14 trang )

A.MỞ BÀI
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả tiền để thực hiện việc giới
thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt động
truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn truyền
thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông tin
đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin. Do tính ảnh hưởng của
quảng cáo tới người tiêu dùng rất lớn nên các doanh nghiệp đều tăng cường quảng
cáo xây dựng thương hiệu nhằm xây dựng một hình ảnh hay sự nhận biết về một
thương hiệu về lâu dài. Nội dung quảng cáo này thường rất đơn giản vì chỉ nhấn
mạnh vào thương hiệu là chính. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường hiện nay để
thương hiệu của mình được người tiêu dùng biết đến mà còn lựa chọn thì bản thân
các doanh nghiệp đã coi quảng cáo như một phương tiện nhằm cạnh tranh không
lành mạnh, sẵn sàng gây tổn thất đến uy tín hàng hóa của đối phương. Do đó pháp
luật cạnh tranh Việt Nam phải thường xuyên điều chỉnh các vấn đề này.

B. THÂN BÀI
I. Khái quát chung về cạnh tranh không lành mạnh và quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh.
1. Cạnh tranh không lành mạnh.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 có quy định:
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng” . Bên cạnh đó Luật
cạnh tranh 2004 đã đưa ra các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định
tai Điều 39: “Hành vi cạnh trong không lành mạnh trong Luật này bao gồm:
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
1


2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;


3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản
4 Điều 3 của Luật này do chính phủ quy định.”
Như vậy theo Điều 39 của Luật cạnh tranh 2004 thì quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh thuộc một trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012: “1. Quảng
cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh
lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ
tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân.
2. Dịch vụ có mục đích sinh lợi là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá
nhân cung ứng dịch vụ; dịch vụ không có mục đích sinh lợi là dịch vụ vì lợi ích
của xã hội không nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ.
3. Sản phẩm quảng cáo bao gồm nội dung và hình thức quảng cáo được thể hiện
bằng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng và
các hình thức tương tự.”
Theo quy định tại Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004, Quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh 2004 không đưa ra định nghĩa quảng cáo nhằm cạnh tranh
2


không lành mạnh, mặc dù vậy, dựa vào định nghĩa “hành vi cạnh tranh không lành

mạnh” quy định tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh thì có thể hiểu “quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh là việc doanh nghiệp tiến hành hoạt động
quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh nhằm mục đích cạnh tranh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác
hoặc người tiêu dùng.”
Như vậy, các hoạt động quảng cáo bị cấm theo Luật cạnh tranh khi:
- Được tiến hành bởi các doanh nghiệp Việt Nam, hợp tác xã, doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam, Hiệp hội ngành, nghề kinh doanh trên thị trường
- Nhằm mục đích cạnh tranh
- Trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh
- Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng
Chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Về nguyên tắc, chủ thể của Luật cạnh tranh 2004 (điều 2) là các chủ thể
tiến hành các hoạt động kinh tế nhằm mục đích lợi nhuận, chủ yếu là các doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, khái niệm doanh
nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt
động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp. Bên cạnh đó,
chủ thể của luật cạnh tranh còn có thể là các nhóm doanh nghiệp liên kết với nhau
dưới hình thức hiệp hội doanh nghiệp, các nghiệp đoàn,... và các cá nhân hành
nghề tự do.
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định cụ thể tại Điều 45
của Luật cạnh tranh 2004 như sau: “Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
quảng cáo sau đây:
3


1. So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác;

2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;
3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội
dung sau đây:
a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản
xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia
công, nơi gia công;
b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
4. Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.”
II. Quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.
1. Quảng cáo nhằm so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá,
dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác.
Để giải thích cho trường hợp thế nào là so sánh trực tiếp thì trên thực tế
không có văn bản luật nào giải thích khái niệm “so sánh trực tiếp”. Theo cách giải
thích của Cục quản lý cạnh trạnh “so sánh trực tiếp” là phải “trực tiếp” mới vi
phạm quy định theo khoản 1 Điều 45 Luật cạnh tranh 2004. Tuy nhiên nếu hiểu
như thế thì trên thực tế, rất hiếm khi doanh nghiệp vi phạm việc trực tiếo đề cập tới
tên sản phẩm hoặc tên một doanh nghiệp khác. Vì vậy việc hiểu luật theo cách này
khiến khoản 1, Điều 45 Luật cạnh tranh 2004 rất khó áo dụng vào việc xử lý vi
phạm trong thực tế. Ví dụ thực tế điển hình: Vụ việc Acecook kiện Masan lên Cục
Quản lý cạnh tranh vì cho rằng quảng cáo mì "Tiến Vua bò cải chua" vi phạm
khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh cấm "so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của
mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của DN khác" như vậy Acecook có lập luận
rằng, Masan đã "so sánh trực tiếp" với sản phẩm của Acecook.
4


Như vậy, ở trường hợp này nếu hiểu khoản 1, Điều 45 Luật cạnh tranh
2004 theo Cục quản lý cạnh tranh thì Masan đã không “so sánh trực tiếp” đối với

sản phẩm mì của Acecook. Tuy nhiên nếu hiểu theo Cục quản lý cạnh tranh thì
khoản 1, Điều 45 Luật cạnh tranh 2004 rất khó áp dụng. Bởi khi vi phạm khoản
1 Điều 45 Luật cạnh tranh 2004 ít khi các doanh nghiệp chỉ hẳn tên doanh
nghiệp mà mình so sánh. Vì vậy hiểu theo cách hiểu của Cục quản lý cạnh tranh là
hoàn toàn chưa chính xác.
2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Sản phẩm quảng cáo bao gồm nội dung hình thức quảng cáo được thể hiện
bằng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng và các
hình thức tương tự. Do đó khi một doanh nghiệp bắt chước một doanh nghiệp khác
quảng cáo sản phẩm của doanh nghiệp mình sẽ gây nhầm lẫn đối với người tiêu
dùng về tên, nhãn hiệu của sản phẩm của cả 2 doanh nghiệp. Hành vi bắt chước
một sản phẩm quảng các khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng được nhiều doanh
nghiệp áp dụng với mục đích là lợi dụng thành quả đầu tư, lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng. Ảnh hưởng nhầm lẫn phát sinh
từ quảng cáo bắt chước đó là: nhầm lẫn về nguồn gốc tức là người xem khi tiếp
nhận các quảng cáo giống nhau có thể ngộ nhận rằng hai hàng hóa, dịch vụ được
quảng cáo thuộc cùng một nhà sản xuất. Thậm chí, người tiếp nhận thông tin quảng
cáo còn có thể cho rằng hai loại hàng hóa, dịch vụ của hai quảng cáo giống nhau
thuộc hai nhà sản xuất có mối liên quan, liên hệ trong kinh doanh, thuộc cùng một
hệ thống kinh doanh…Ngay cả khi người tiêu dùng không cho rằng giữa hai chủ
thể quảng cáo có mối liên hệ kinh doanh tập trung, liên tục, họ vẫn có thể hiểu việc
sử dụng quảng cáo tương tự thể hiện rằng một bên cho phép bên kia thực hiện theo
thỏa thuận trong thời gian nhất định.
Như vậy, chính những hậu quả từ việc hiểu lầm của người tiếp nhận thông
tin quảng cáo có thể dẫn tới doanh thu của một hay một số doanh nghiệp bị ảnh
5


hưởng xấu, vì vậy để ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh này
của một số doanh nghiệp Luật cạnh tranh 2004 lại một lần nữa phải được sử dụng

để điều chỉnh các vấn đề có liên quan.
3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Theo khoản 3, Điều 45 Luật cạnh tranh 2004 quy định về một trong các
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đó là: “Đưa thông tin gian
dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây:
a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản
xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia
công, nơi gia công;
b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.”
Đây là một hình thức quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh phổ biến
nhất bởi phần lớn các doanh nghiệp khi muốn cạnh tranh với doanh nghiệp đối
phương thường đưa ra các thông tin tốt về sản phẩm của mình hay xuất xứ ở những
nơi có uy tín về loại hàng hóa hay dịch vụ đó. Tính trung thực ở đây đang được
đánh đổi bởi lợi nhuận của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã có hành vi gian
dối đối với người tiêu dùng khi đưa sai thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp
mình từ chất lượng đến công dụng, nơi sản xuất…Hành vi này phải được nghiêm
khắc xử lý bởi các doanh nghiệp đã lợi dụng lòng tin của người tiêu dùng để đưa ra
các chiến lược quảng cáo không đúng sự thật khiến người tiêu dùng sai lầm trong
nhận thức đâu là sản phẩm tốt để rồi đổ xô đi mua một loại sản phẩm mà mình
không rõ nguồn gốc cũng như công dụng của nó.Nếu như hai hành vi quảng cáo so
sánh trực tiếp và quảng cáo bắt chước ở trên là hướng trực tiếp vào các doanh
nghiệp cạnh tranh thì ở hành vi thứ ba này người mà các doanh nghiệp hướng tới là
người tiêu dùng. Do đó Luật cạnh tranh lại một lần nữa cần phải điều chỉnh để
ngăn chặn hành vi sai trái, gian dối trong quảng cáo của các doanh nghiệp.
6


4. Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.
Điều khoản này được đưa vào nhằm dự trù những thiếu sót có thể xảy ra

trong khâu soạn thảo, đồng thời lường trước được những vấn đề có thể phát sinh.
Tuy nhiên, quy định này có thể làm phát sinh một số vướng mắc như là trong
trường hợp các hành vi quảng cáo nhất định đã được các văn bản pháp luật khác
điều chỉnh, không nhất thiết phải một lần nữa đưa vào phạm vi áp dụng của luật
cạnh tranh. Việc làm này gây ra tình trạng chồng chéo pháp luật, dẫn đến việc áp
dụng trong các trường hợp cụ thể trở nên gặp khó khăn và phức tạp hơn.
5. Hình thức xử lý đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh
Căn cứ theo Điều 33 của Nghị định 71/2014/NĐ-CP có quy định: “1. Phạt
tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo sau đây:
a) So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác;
b) Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.
2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 140.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo
đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội
dung: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày
sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người
gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo
hành; các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp
vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện
pháp khắc phục Hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định này.” Ngoài
ra đối với những hành vi có dấu hiệu tội phạm quảng cáo gian dối mà gây thiệt hại
lớn, đã bị xử phạt hành chính nhưng vẫn tái phạm … Cục quản lý cạnh tranh sẽ
chuyển toàn bộ hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
7


III. Thực tiễn áp dụng pháp luật cạnh tranh về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.

Tình trạng các doanh nghiệp trắng trợn chê bai đối thủ trên các bài quảng
cáo đã không còn nhưng thay vào đó là các chiêu thức khác như để hạ thấp đối thủ,
các doanh nghiệp đã sử dụng các chiêu thức vô cùng tinh vi như dùng các phương
tiện trung gian: viết trên báo chí, các phóng sự truyền hình, truyền thanh, các
chương trình tài trợ…để nói xấu doanh nghiệp đối thủ hay mua chuộc một người
nào đó viết thư khiếu nại chất lượng sản phẩm của đối thủ với tư cách là một khách
hàng. Sau đó, họ tạo dư luận bằng cách nhờ viết một bài báo về chuyện này. Dù
đúng hay sai thế nào nhưng khi đã bị lên báo, uy tín doanh nghiệp kia cũng đã ít
nhiều bị ảnh hưởng. Cũng không ít doanh nghiệp dù đã nhận thức rõ ràng việc so
sánh với sản phẩm của đối thủ trong quảng cáo là không được phép nhưng vẫn cố
đưa thêm vào đó những lời nói đánh bóng tên tuổi mình và so sánh theo kiểu "tôi
chả ám chỉ ai cả, cũng không nêu đích danh ai, chỉ nói chung chung thế thôi". Các
chuyên gia hy vọng, Luật Cạnh tranh ra đời, những hiện tượng như trên sẽ giảm
bớt và môi trường kinh doanh quảng cáo sẽ lành mạnh hơn Tuy nhiên, theo quy
định của Luật, những hành vi quảng cáo như so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ
chỉ phải chịu một mức phạt cao nhất là 25 triệu đồng. Ông Trần Nguyệt Đán, Chủ
tịch Hiệp hội quảng cáo VN, cho rằng, mức phạt như trên không thấm vào đâu so
với chi phí quảng cáo của doanh nghiệp. Do đó, số tiền trên chưa đủ sức răn đe
doanh nghiệp trong khi giới quảng cáo có muôn hình vạn trạng ví von so sánh sản
phẩm của mình với của đối thủ. Ông Đỗ Văn Hồng cũng đồng ý với nhận định trên
và cho rằng số tiền này khó có thể hạn chế doanh nghiệp làm sai vì chỉ cần dựng
bộ phim quảng cáo 30 giây đã tốn tới vài trăm triệu đồng. Nhiều chuyên gia còn lo
ngại, có luật rồi nhưng việc thực hiện liệu có được hiệu quả hay không? "Có luật
rồi nhưng thực hiện ra sao hay đâu lại vào đó. Nhiều ông giơ tay thống nhất luật
rồi lại sẵn sàng ra quyết định trái với luật", ông Đán nhận xét… Theo Luật sư
8


Phạm Liêm Chính, Đoàn luật sư Hà Nội, để hạn chế tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh trong quảng cáo, Luật Cạnh tranh mới chỉ đáp ứng được 50% điều kiện,

50% còn lại là những yếu tố cần thiết để luật thực sự đi vào cuộc sống. Một trong
những nhân tố quan trọng nhất là nhận thức của doanh nghiệp trong vấn đề này.
Thực tế, có những doanh nghiệp để đạt được mục đích quảng bá sản phẩm của
mình mà bất chấp mọi thủ đoạn, sẵn sàng "dìm chết" đối thủ. Do vậy, ông Chính
cho rằng, điều quan trọng là doanh nghiệp phải hiểu được rằng, cạnh tranh lành
mạnh sẽ giúp tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, có lợi cho sự phát triển
của cả hai bên.
Yếu tố quan trọng không kém là bên bị tổn hại phải lên tiếng với các cơ
quan chức năng khi phát hiện ra những trường hợp cố ý hoặc ngầm làm xấu đi hình
ảnh của mình. Khi khiếu nại lên cơ quan chức năng, doanh nghiệp đó phải đưa ra
đủ những bằng chứng chứng minh có hiện tượng quảng cáo cạnh tranh không lành
mạnh. Do việc cạnh tranh này có thể gây ra những thiệt hại về mặt vật chất nên nếu
muốn có sự bồi thường, bên bị hại phải kiện ra toà án dân sự. Trong trường hợp
không biết phải làm thế nào thì nên nhờ đến sự giúp đỡ của các luật sư tư vấn.1
IV. Vụ việc thực tế điển hình
1. Vụ việc
Ngày 14/11/2008, Panasonic Việt Nam giới thiệu dòng máy điều hòa không
khí mới Envio I2 và Envio P2. Dòng máy điều hòa Envio I2 và P2 mới không chỉ
làm lạnh hiệu quả, tiết kiệm đến 50% lượng điện năng tiêu thụ mà còn có khả năng
lọc không khí tuyệt vời, làm sạch đến hơn 99% bụi bẩn, vi khuẩn và nấm mốc. Hệ
thống lọc khí e-ion đã chứng tỏ khả năng thu gom bụi nhanh 5,5 lần so với thông
thường và hiệu quả hơn 10% so với các model năm 2007,… Bên cạnh đó,
Panasonic còn cho ra đời sản phẩm tủ lạnh mới mà theo quảng cáo thì tủ lạnh này
có tính năng tăng cường thành phần vitamin của thực phẩm lên tới 12%.
1 />
9


Nhận thấy có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh đã điều
tra, xử lý Công ty TNHH Panasonic Việt Nam về hành vi quảng cáo nhằm cạnh

tranh không lành mạnh:
- Ngày 22 tháng 3 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh đã ban hành
Quyết định số 36/QĐ- QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh đối với
Công ty TNHH Panasonic Việt Nam.
- Ngày 22 tháng 4 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh đã ký Quyết định
số 50/QĐ-QLCT về việc điều tra chính thức đối với Công ty TNHH Panasonic Việt
Nam do đã thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
- Sau khi điều tra, kết quả điều tra cho thấy, Quảng cáo của Panasonic với tính
năng “bất hoạt đến 99,9% vi khuẩn và nấm mốc” là không đúng thực tế, trong khi
doanh nghiệp mới chỉ thử nghiệm tác động kháng khuẩn với đối với 02 loại vi
khuẩn là Staphylocccus và Escherichia Coli mà không thể diệt hay vô hiệu hóa tất
cả các loại virus, vi khuẩn.
Đối với Mẫu quảng cáo tủ lạnh, kết quả thử nghiệm mà công ty cung cấp lại chỉ áp
dụng với rau quả chứ không phải thực phẩm nói chung.
- Ngày 16 tháng 6 năm 2010, Cục Quản lý cạnh tranh đã ra quyết định số 66/QĐQLCT xử phạt Công ty TNHH Panasonic Việt Nam với số tiền là 30 triệu đồng đối
với hành vi Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm quy định tại
khoản 3, Điều 45 Luật Cạnh tranh.
(Nguồn vụ việc: Cục Quản lý cạnh tranh điều tra, xử lý Công ty TNHH Panasonic
Việt Nam về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh - Quyết Thắng
– Bản tin Cạnh Tranh & Người tiêu dùng số 20 – 9/2010, Bộ Công Thương, Cục
Quản lí cạnh tranh).
Phân tích vụ việc:
Trong vụ việc này, chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh là Công ty TNHH Panasonic Việt Nam. Công ty Panasonic Việt
10


Nam là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thành lập 2005 tại Việt Nam, cung cấp
các sản phẩm từ điện tử tiêu dùng đến các thiết bị công nghiệp, xây dựng và gia
dụng, cung cấp các dịch vụ khác. Kể từ khi thành lập tại Việt Nam cho đến nay,

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Như vậy, có thể thấy rằng Công ty Panasonic Việt Nam – một doanh nghiệp tham
gia hoạt động kinh doanh trên thị trường, theo quy định của pháp luật cạnh tranh là
chủ thể của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
2. Hành vi vi phạm của Công ty TNHH Panasonic Việt Nam
Công ty TNHH Panasonic Việt Nam đã vi phạm Điểm a, Khoản 3 Điều 45
Luật Cạnh tranh 2004: “3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng về một trong các nội dung sau đây: a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng,
kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá,
người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công”, mà cụ thể hơn là
Công ty đã thực hiện hành vi quảng cáo đưa thông tin gây nhầm lẫn cho khách
hàng về công dụng của sản phẩm.
Theo pháp luật Việt Nam, quảng cáo đưa thông tin gây nhầm lẫn là việc chủ thể
thực hiện quảng cáo đưa ra các thông tin có thể không hoàn toàn sai lệch so với
thực tế nhưng lại không đầy đủ, không rõ ràng làm cho người tiêu dùng hiểu nhầm
về hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong trường
hợp này công ty TNHH Panasonic Việt Nam giới thiệu về dòng máy điều hòa
không khí mới (Envio I2, Envio P2) và tủ lạnh Panasonic, công ty đã đưa ra quảng
cáo về sản phẩm của mình như sau:
* Máy điều hòa Envio I2 và Envio P2: có khả năng lọc không khí tuyệt vời, làm
sạch đến hơn 99% bụi bẩn, vi khuẩn và nấm mốc.
* Tủ lạnh Panasonic: có tính năng tăng cường thành phần vitamin của thực phẩm
lên tới 12%.
11


Trong khi đó, căn cứ vào kết quả điều tra của Cục Quản lí cạnh tranh, quảng
cáo điều hòa Envio I2 và Envio P2 của Panasonic với tính năng “bất hoạt đến
99,9% vi khuẩn và nấm mốc” là không đúng thực tế, trong khi doanh nghiệp mới
chỉ thử nghiệm tác động kháng khuẩn với đối với 02 loại vi khuẩn là

Staphylocccus và Escherichia Coli mà không thể diệt hay vô hiệu hóa tất cả các
loại virus, vi khuẩn. Đối với tủ lạnh, kết quả thử nghiệm sản phẩm mà công ty
cung cấp lại chỉ áp dụng với rau quả chứ không phải thực phẩm nói chung. Hơn
nữa, điều kiện thử nghiệm sản phẩm phải đáp ứng điều kiện môi trường nghiêm
ngặt mà không phải được tiến hành trong môi trường bình thường.
Nếu như người tiêu dùng chỉ đọc thông tin mà công ty quảng cáo, rõ ràng họ
sẽ hiểu rằng sản phẩm điều hòa Envio có các tính năng ưu việt, tác dụng bất hoạt
99,9% đối với tất cả các loại vi khuẩn, nấm mốc, còn Tủ lạnh có thể làm tăng
cường vitamin của thực phẩm (bao gồm cả rau củ, thịt, cá,…) lên đến 12% mà
không nghĩ rằng các sản phẩm này không hề có tính năng ưu việt đến vậy, những
thông tin mà họ nhận được về sản phẩm là sai lệch so với thực tế.
Hành vi đưa thông tin quảng cáo sản phẩm đến khách hàng hoàn toàn khác với kết
quả thử nghiệm sản phẩm của Công ty TNHH Panasonic Việt Nam rõ ràng là hành
vi cố ý đưa thông tin gây nhầm lẫn về công dụng sản phẩm. Đây là hành vi không
trung thực, trái với chuẩn mực đạo đức thông thường trong kinh doanh, nhằm mục
đích cạnh tranh.
Xem xét kĩ quảng cáo của Công ty Panasonic thì hành vi quảng cáo của công
ty không thể là quảng cáo so sánh bởi Công ty không đưa ra bất cứ một sản phẩm
cùng loại nào để nhằm so sánh tính năng của sản phẩm, cũng không thể là hành vi
quảng cáo bắt chước bởi quảng cáo của công ty không khiến khách hàng nhầm
tưởng tủ lạnh, điều hòa của Panasonic là sản phẩm của một doanh nghiệp khác.
Về việc gây thiệt hại của hành vi quảng cáo trên, dựa vào các thông tin quảng cáo,
người tiêu dùng sẽ đem so sánh với các sản phẩm cùng loại của công ty khác, họ sẽ
12


có xu hướng muốn tiêu dùng sản phẩm điều hòa và tủ lạnh của Công ty Panasonic
hơn, vì thế sẽ làm giảm sức tiêu thụ sản phẩm của công ty khác. Việc công ty
TNHH Panasonic quảng cáo sản phẩm đưa ra thông tin sai lệch đến khách hàng đã
gây cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp đối thủ.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng Công ty TNHH Panasonic Việt
Nam đã thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Điểm
a Khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004, cụ thể là hành vi đưa thông tin gây
nhầm lẫn cho khách hàng về công dụng của sản phẩm.
3. Xử lí hành vi vi phạm của Công ty TNHH Panasonic Việt Nam
Về thẩm quyền xử lí vụ việc: theo quy định của Luật Cạnh tranh, vụ việc về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh do Cục Quản lí cạnh tranh thụ lí giải quyết
(Điều 49 Luật Cạnh tranh). Cơ quan này sẽ giải quyết căn cứ vào khiếu nại của
đối thủ cạnh tranh của chủ thể có hành vi vi phạm hoặc khiếu nại từ người tiêu
dùng hoặc Cơ quan Quản lí cạnh tranh tự phát hiện ra vi phạm (Điều 58 Luật
Cạnh tranh)
Về hướng xử lí: Tại thời điểm xảy ra vụ việc (năm 2010), Cục Quản lí cạnh
tranh đã xử lí hành vi vi phạm của Công ty TNHH Panasonic Việt Nam theo Nghị
định 120/2005/NĐ-CP Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh. Theo đó, hành vi quảng cáo đưa thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng về
công dụng sản phẩm nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể bị Phạt tiền từ
15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Nếu hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt
hàng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị định này hoặc quy mô quảng
cáo thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên thì bị phạt
tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng
Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một
hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục sau đây: a) Tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch
13


thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; b) Buộc
cải chính công khai.
Theo quy định trên, Cục Quản lí cạnh tranh đã phạt Công ty TNHH Panasonic Việt
Nam 30.000.000 đồng. Ngoài việc bị phạt tiền, công ty còn buộc phải cải chính

công khai.
Hiện nay, Nghị định 120/2005/NĐ-CP đã hết hiệu lực và được thay thế bởi
Nghị định 71/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết luật cạnh tranh về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Đối với việc xử lí hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, Nghị định 71/2014/NĐ-CP đã tăng mức phạt lên
nhiều so với Nghị định 120/2005/NĐ-CP, hơn nữa Nghị định 71/2014 quy định
các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh khác nhau thì chịu mức
phạt khác nhau chứ không đồng nhất mức phạt đối với tất cả các hành vi như Nghị
định 120/2005. Cụ thể, việc xử lí đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh được quy định tại Điều 33. Cụ thể nếu Công ty TNHH Panasonic
thực hiện hành vi tại thời điểm hiện nay thì căn cứ vào quy định trên, Công ty có
thể bị phạt tiền từ 80 000 000 đồng đến 140 000 000 đồng. Ngoài ra công ty còn có
thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục
Hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định 71/2014/NĐ-CP.

C. KẾT BÀI
Từ khi ra đời đến nay Luật cạnh tranh luôn cố gắng phát huy hết mình tác
dụng của Luật để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp cũng như người tiêu
dùng. Tuy nhiên hiệu quả thực tế của nó đem lại không nhiều do nhiều nguyên
nhân khách quan đến từ phía cơ quan chức năng và các doanh nghiệp. Để hạn chế
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, bản thân các doanh nghiệp bị cạnh tranh
không lành mạnh phải biết tự đấu tranh cho quyền lợi của mình, cũng như các
doanh nghiệp nên xây dựng được văn minh kinh doanh có như vậy mới chấm dứt
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
14



×