Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.35 KB, 68 trang )

Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội nào trên con đường phát triển của mình cũng luôn hướng tới sự
phồn thịnh, ấm no về vật chất cùng với sự đảm bảo công bằng và phúc lợi xã
hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, phải tiến hành nhiều hoạt động kinh tế xã hội. Mỗi hoạt động có những đặc thù và chức năng riêng của mình. Nhưng
có một hoạt động không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế mà ý nghĩa xã hội của
nó cũng không thể phủ nhận. Đó là Bảo hiểm - một hoạt động dịch vụ tài
chính dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Hàng năm nó mang lại một
nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, lợi nhuận cho người kinh doanh bảo
hiểm, đồng thời góp phần ổn định đời sống, sản xuất cho người tham gia.
Nhờ có bảo hiểm, những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra với một
người sẽ được bù đắp, san sẻ từ những khoản đóng góp của nhiều người. Do
đó, nó là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ năm 2000 đến 2006, tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành bảo
hiểm thương mại Việt Nam đạt từ 25% đến 30%. Nghị định 100/CP ngày
18/2/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm đã mở ra một hướng đi mới
cho ngành bảo hiểm Việt Nam, tạo điều kiện cho nhiều loại hình doanh
nghiệp cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm mới ra đời và phát triển.
Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn được bắt đầu triển khai từ
năm1989. Tuy nhiên, quá trình hoạt động và triển khai nghiệp vụ này chỉ đơn
thuần thực hiện các chức năng kinh doanh của nó. Sau nghị định 100/CP với
sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế
khác nhau đã làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm trở lên
gay gắt hơn, tính hiệu quả được chú trọng và đề cao hơn trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.Đặc biệt từ năm 2006 Chính phủ và Bộ Tài Chính đã

-1-




Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

đưa ra chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, đây là một chế độ có thể nói vừa
mới vừa cũ đối nước ta.
Làm thế nào để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao cho công ty
mà vẫn đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các tổ
chức, doanh nghiệp và cá nhân trong lĩnh vực bảo hiểm cháy nổ đang là mối
quan tâm lớn của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có Bảo
Việt Hà Nội.
Xuất phát từ thực tế đó và sau một thời gian công tác, tìm hiểu thực tế
tại Phòng bảo hiểm Cháy và rủi ro hỗn hợp của công ty bảo hiểm Hà nội
cùng với sự nhiệt tình, say mê nghề nghiệp, em đã chọn chuyên đề: Thực
trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được
sự giúp đỡ tận tình thiết thực của cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Nguyễn
Ngọc Hương và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm cháy nổ và
rủi ro hỗn hợp thuộc Tổng Công ty Bảo Việt Hà Nội. Xin chân thành bày
tỏ lòng cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê bình
của thầy giáo và các bạn đồng nghiệp.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Mạnh Cường

-2-



Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ
1.1 Sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ:
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm cháy:
Trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, cũng như các hoạt động sản
xuất, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn không lường
trước được, một khi rủi ro xảy ra thì việc giải quyết hậu quả là vô cùng tốn
kém và khó khăn, gây ra những xáo trộn trong cuộc sống. Chính vì thế, bảo
hiểm ra đời như một tất yếu khách quan nhằm san sẻ những rủi ro trong xã
hội, sự san sẻ giữa con người với con người, giúp ổn định cuộc sống cũng như
sản xuất kinh doanh khi rủi ro ập đến.
Quá trình tồn tại và phát triển loài người luôn phải đối mặt với những rủi ro,
thảm họa xảy ra bất ngờ trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro
nguy hiểm nhất. Nó thường mang tính chất thảm họa và khi xảy ra hậu quả để
lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ.
Theo lịch sử để lại từ thời Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có một hệ
thống phòng cháy hữu hiệu nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La
Mã trị vì. Ở các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô
đầy nước. Vào ban đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy
cơ cháy là họ báo ngay cho chủ nhà. Nếu có hỏa hoạn xảy ra thì thì thiệt hại
từ cháy có thể được phường hội giúp đỡ với điều kiện họ phải là hội vên. Tuy
nhiên khoản trợ giúp này chỉ mang tính chất động viên khích lệ chứ chưa thể
coi là một khoản bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên theo kiểu này do
các nhà buôn thành phô Rowen (Pháp) thành lập năm 1374 trong nhà thờ
Saint Ptree. Nhưng thời bấy giờ dân chúng vẫn có tư tưởng xem hỏa hoạn là

rủi ro không thể tránh khỏi cũng như nạn đói, chiến tranh và các bệnh dịch
khác…
-3-


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Sự xuất hiện của bảo hiểm cháy nổ được đánh dấu bằng vụ cháy thảm
khốc ở Luôn Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó
có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu
trợ được, lúc ngày người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập
hệ thống phòng cháy, chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó
những nhà khinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro
hỏa hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hỏa hoạn
như : Một số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy, chữa cháy và bảo hiểm
cháy “ Fire Office ” (năm 1667) , năm 1684 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu
tiên ra đời là công ty “ Friendly Society ” sau đó hang loạt các công ty bảo
hiểm khác đã ra đời: “ Hand and Hand ” năm 1696, “ Lom Bard House ” năm
1704… Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm
1786 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập là “ Company
L’assurance Centree L’incendie” và “ Company Royade” và dần lan rộng sang
các nước khác trên lục địa châu Âu. Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn
được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển.
Ở Việt Nam trước năm 1945 đã có mộ t công ty BH cháy của Pháp hoạt
động. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại
nhằm đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi họ không may gặp rủi ro.
Vì vậy BH nói chung và BH cháy nói riêng không có điều kiện phát triển.
Phải đến tận khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế tự

hạch toán kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tài
chính, về thiệt hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày
17/11/1989 của Bộ Tài Chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì
nghiệp vụ này mới chình thức được công ty Bảo Hiểm Việt Nam ( Bảo Việt)
triển khai và phát triển.

-4-


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài
Chính ban hành them một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy:
quyết định số 142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ
ngày 12/4/1993 thay thế biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số
28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy bắt
buộc. Việc Chính Phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006
quy định về chế độ BH cháy nổ bắt buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ
Tài Chính về quy tác và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp
lý đầu tiên để Bảo Việt cũng như các công ty bảo hiểm khác triển khai nghiệp
vụ cháy.
Từ năm 1990, nước ta đã có 16 công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
cháy với giá trị tham gia bảo hiểm lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 bảo
hiểm cháy được thực hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố, them nhiều công ty
triển khai như : PJICO, PVI, Bảo Minh… với tổng giá trị bảo hiểm là gần
28.000 tỷ đồng. Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm đạt 16.200.000 USD tăng
16% so với năm 1999. Ngày càng có nhiều công ty tham gia cung cấp các sản
phẩm bảo hiểm hỏa hoạn, gần đây có các công ty như: AAA, BIC… làm cho

thị trường bảo hiểm hỏa hoạn đa dạng và phong phú, tăng tính chất cạnh tranh
từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm.
Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn ngày được triển khai rộng khắp,
mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu nghiệp
vụ này. Đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết của nền kinh tế xã hội.
1.1.2 Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc:
Điều 8, Luật kinh doanh bảo hiểm có ghi rõ: “ …Bảo hiểm bắt buộc chỉ
áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công
cộng và an toàn xã hội”. Theo quy định này thì chỉ những thiệt hại gây hậu
quả cho lợi ích của người khác hoặc của xã hội mới thuộc phạm vi bảo hiểm

-5-


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

bắt buộc. Do đó loại bảo hiểm này chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Thực hiện bắt buộc loại bảo hiểm này giúp giải quyết tốt các tranh chấp khi
xảy ra tai nạn làm thiệt hại cho người khác hoặc của Nhà nước. Nó đáp ứng
được nhu cầu hội nhập khi văn hóa khiếu nại sẽ là phương pháp chủ yếu giải
quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đã ban hành
nghị định 130/CP-NĐ quy định các doanh nghiệp, cơ sở có nguy cơ cháy nổ
bắt buộc phải tham gia bảo hiểm cháy… Vì sao lại có quy định này khi mà
đối tượng của bảo hiểm cháy nổ là tài sản riêng của một số cá nhân, đơn vị, và
nếu họ không gây thiệt hại cho ai khác ngoài bản thân thì họ không phát sinh
trách nhiệm gì với xã hội. Trên thực tế các nước chủ yếu áp dụng bảo hiểm
cháy nổ dưới dạng tự nguyện, nhưng đối với những cơ sở kinh tế trọng điểm,
tập trung như nhà máy điện, lọc dầu, ciment… thường áp dụng bảo hiểm bắt

buộc. Bởi chẳng may gặp rủi ro và xảy ra tổn thất lớn sẽ có ảnh hưởng đáng
kể đến nền kinh tế quốc dân. Do đó tham gia bảo hiểm cháy nổ như một hình
thức đảm bảo an toàn xã hội. Hiện nay, các quốc gia duy trì qui trình bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc tại khu vực Châu Á là Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Trung
Quốc. Ở Hong Kong, Đài Loan, Philipin, Singapore không bắt buộc. Tại Việt
Nam, tất cả các cơ sở được coi là có nguy cơ cháy nổ, như đã quy định tại
Nghị định 35/NĐ-CP của Chính Phủ về PCCC, đều là đối tượng tham gia bảo
hiểm cháy nổ bắt buộc. Những đối tượng này tập trung vào bắt buộc nhóm
lớn :


Nhóm có sản xuất, chế biến, vận chuyển, tang trữ, xuất nhập khí, chất
nổ, khí đốt, xăng dầu…



Nhóm nhà máy điện, trạm biến áp từ 110KV trở lên.



Nhóm địa điểm công cộng, tập trung dân cư cao…( chợ, trung tâm
thương mại, nhà tập thể, chung cư, rạp hát, rạp chiếu phim, nhà ga…).

-6-


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


Vậy đối tượng của bảo hiểm cháy nổ không chỉ là những cơ sở có nguy cơ
cháy nổ cao mà còn có khả năng gây thiệt hại mang tính thảm hỏa đối với xã
hội. Chính từ đặc điểm này đã giải thích phần nào về ý nghĩa của sự bắt buộc
trong bảo hiểm cháy nổ. Cháy xảy ra tại các cơ sở sản xuất vật liệu cháy nổ,
tại các cơ sở khai thác chế biến dầu mỏ, hay kho vật liệu nổ… đều có khả
năng cháy rộng và cháy lớn rất cao. Hơn nữa, do các cơ sở trên là những cơ
sở có vai trò quan trọng hàng đầu với các nghành kinh tế, nên rủi ro xảy ra
dẫn tới sự trì trệ không chỉ của riêng nghành đó mà còn có thể ảnh hưởng đến
các nghành khác có liên quan.
Do đó thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc xuất phát từ mục đích bảo
hiểm vệ lợi ích công cộng và an toàn cho xã hội. Bởi vậy ngày nay với sự
phát triển không ngừng của nền kinh tế, cơ sở kinh doanh, trụ sở của các
doanh nghiệp không ngừng lớn mạnh, hơn nữa với tốc độ đô thị hóa cao mật
độ nhà cửa, dân cư trên mỗi m2 ngày càng dày đặc. Theo số liệu thống kê mà
Tổng cục thống kê công bố vào tháng 7 năm 2002, đến năm 1995 bình quân
mỗi Km2 có 6,2 cơ sở kinh tế, năm 2002 là 8,8 cơ sở; đến nay con số này có
thề là 11 cơ sở. Vì vậy, cháy nổ xảy ra sẽ là thảm họa chung của cả xã hội,
không còn là vấn đề riêng của mỗi cá nhân doanh nghiệp.
Thực hiện quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc sẽ mang lại rất nhiều lợi
ích đối với nhà nước, với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm nói
riêng:
Thứ nhất, đối với nhà nước và xã hội thực hiện cháy nổ bắt buộc tạo ra
những lợi ích sau:
• Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc gián tiếp nâng cao tinh thần
trách nhiệm phòng cháy chữa cháy trong xã hội. Trước khi tham gia
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, cơ sở và doanh nghiệp buộc phải sở hữu
giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy. Do vậy, đây

-7-



Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

là cơ hội để chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc một lần nữa công
tác PCCC.
• Tăng thu ngân sách: Do doanh nghiệp bảo hiểm tăng doanh thu từ
chi phí bảo hiểm cháy nổ, lợi nhuận tăng, kết quả là thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp nhiều hơn.
• Bảo hộ nghành kinh tế bảo hiểm trước tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế. Hiện nay, tại Luật kinh doanh bảo hiểm bắt buộc phải xin
phê duyệt của cơ quan quản lý là Bộ Tài chính. Luật cũng quy định
các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài được
phép bán sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nói chung, chứ không nói
rõ là trong lĩnh vực nào. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có doanh
nghiệp bảo hiểm nào trong khối này ( có vốn đầu tư nước ngoài )
được phép bán bảo hiểm bắt buộc. Như vậy, rõ rang qui định chế độ
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp
trong nước. Nó tạo ra sự giới hạn sân chơi cho các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài trước thị trường bảo hiểm cháy nổ đầy hấp dẫn.
Đây sẽ là bước đệm để tăng cường hơn nữa nội lực của các doanh
nghiệp, tạo ra vị thế vững chắc cho các doanh nghiệp trước thời
điểm hiệp đinh thương mại Việt- Mỹ và các cam kết quốc tế, cam
kết WTO về lĩnh vực bảo hiểm chính thức được dỡ bỏ.
• Giảm chi ngân sách cho hoạt động chi PCCC. Để PCCC hàng năm,
ngân sách nhà nước dành cho công tác này là khá lớn. Số tiền đó
được chi cho các hoạt động như tuyên truyền, quảng bá về sự cần
thiết của PCCC, hoặc tài trợ cho cơ quan PCCC thực hiện các dự án
xây dựng các công trình như bể chứa nước ngầm, tăng cường trạm

bơm công cộng…; tăng cường trang thiết bị cho lực lượng PCCC;
đầu tư cho giáo dục tại các trường đại học và cao đẳng về PCCC…
-8-


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện bảo hiểm cháy nổ cho các đối
tượng có nguy cơ cháy nổ, vì lợi ích của chính mình cũng sẽ thực
hiện những biện pháp trên, phần nào đó đã giảm bớt gánh nặng cho
nhà nước. Ngoài ra với nghĩa vụ phải trích một quỹ khá lớn cho các
khoản chi PCCC, như vậy ngân sách dành cho công tác PCCC có
thể cắt giảm…
• Giảm nguy cơ cháy nổ, từ đó gián tiếp bảo hiểm vệ môi trường
sống: Do nhà bảo hiểm có những chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn
về quản trị rủi ro, nên khi tham gia bảo hiểm, các cơ sở và doanh
nghiệp sẽ nhận được những ý kiến hữu ích nhất cho công tác PCCC.
Để xảy ra tình trạng cháy sẽ gây tác hại không lường tới chủ doanh
nghiệp, xã hội, và công ty bảo hiểm (do bồi thường). Do đó, vì ích
lợi của chính mình, doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải chủ động
trong công tác PCCC tại các cơ sở. Biện pháp mà các doanh nghiệp
áp dụng ngoài tư vấn còn có cử cán bộ thường xuyên xuống cơ sở
thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động… Hạn chế được số vụ cháy,
nổ tức là hạn chế lượng khí độc hại CO2 thải ra môi trường, như vậy
đã góp phần giảm bớt sự ô nhiễm.
• Sự bắt buộc sẽ tạo ra một xã hội an toàn hơn, bởi tất cả các cơ sở
doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, khi bị tổn thất sẽ nhanh chóng
nhận được tiền bồi thường đầy đủ, từ đó khôi phục nhanh chóng

hoạt động của chính mình. Nếu không có bảo hiểm cháy nổ bắt
buộc, sẽ có rất nhiều người không nhận thức hết sự nghiêm trọng
của vấn đề…
Thứ hai: Ích lợi của sự bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy nổ đối với doanh
nghiệp và cơ sở:
-9-


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

• Tạo ra động lực mạnh hơn khi tham gia bảo hiểm. Vì bắt buộc,
doanh nghiệp để tránh những phiền phức nhất định, sẽ đặt biệt chú ý
đến việc tham gia bảo hiểm cháy nổ. Không có sự bắt buộc, chủ
doanh nghiệp có thể vì những lý do khác nhau trì hoãn việc mua bảo
hiểm …
• Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác thực hiện nghiệp vụ bảo
hiểm cháy nổ, từ đó tạo ra sự minh bạch hơn nữa trong thực hiện
bảo hiểm cháy nổ… Trước khi có nghị định 130/NĐ-CP, nghiệp vụ
này đã được qui định bắt buộc tại Luật PCCC và Luật bảo hiểm,
song các quy định và chế tài trong áp dụng còn rất sơ sài. Hiệu quả
áp dụng không cao, do vậy sau văn bản quy phạm pháp luật này, hệ
thống các văn bản về cháy nổ, bảo hiểm cháy nổ đã đầy đủ hơn, góp
phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho người tham gia. Có đầy đủ cơ sở
cho khiếu kiện hơn…
• Tạo điều kiện cho DN được tiếp cần với tất cả những tác dụng của
bảo hiểm cháy, như đã trình bày…
Thứ ba, đối với doanh nghiệp bảo hiểm



Tốc độ tăng doanh thu phí lớn hơn tốc độ tăng chi phí kinh doanh:
Không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm cần tới sự tham gia bảo hiểm của
doanh nghiệp, cơ sở mà chính những đối tượng này, để tránh bọ phạt
hành chính, tước giấy phép hoạt động… sẽ phải tìm tới các doanh
nghiệp bảo hiểm… Như vậy, khách hàng tăng, trong khi chi phí cho
khai thác có thể không tăng hoặc tăng không nhiều.

• Sự bắt buộc tạo ra lợi thế hơn hẳn của các doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Cho đến
nay, chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào được cấp
- 10 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

phép kinh doanh bảo hiểm bắt buộc, trong khi đó thị trường bảo
hiểm cháy nổ rất tiềm năng.
• Ngoài các doanh nghiệp bảo hiểm, còn có các cơ quan hữu quan
khác tham gia vào thực hiện giám sát việc thực hiện bảo hiểm cháy
nổ, như công an, cơ quan PCCC, địa phương… Như vậy gánh nặng
của doanh nghiệp bảo hiểm đã được chi nhỏ và san sẻ.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc:
1.2.1 Cơ sở pháp lý:
Luật dân sự quy định chung về hoạt động bảo hiểm, hợp đồng bảo
hiểm doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm … đây cũng là cơ sở
của hoạt động bảo hiểm cháy, nổ.
Luật phòng cháy chữa cháy có hiệu lực từ ngày 29/06/2001 tại điều 9

– Bảo hiểm cháy nổ quy định “Cơ quan, tổ chức và cá nhân có cơ sở nguy
hiểm về cháy, nổ phải thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của
cơ sở đó…”
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ngày 09/12/có quy định “ Bảo
hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về phí bảo hiểm, mức
phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo
hiểm va doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện.
Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng bởi một số loại bảo hiểm nhằm mục
đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.
Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm
của người vận chuyển hàng không đối với khách.
b) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật.
c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm.

- 11 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

d) Bảo hiểm cháy nổ.
Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tưng thời kỳ, Chính Phủ
trình Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.”
( Điều 8 – Luật Bảo hiểm)
• Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 18/11/2006 quy định chi tiết thi
hành chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo Luật PCCC và Luật kinh
doanh Bảo hiểm.

• Thông tư lien tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/04/2007
hướng dẫn chi tiết về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài
sản của cơ sở phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, trách nhiệm của
doanh nghiệp bảo hiểm trong việc trích lập kinh phí cho hoạt động
PCCC và cơ chế quản lý, cấp phát, thanh toán quyết toán nguồn kinh
phí này.
• Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc
và Biểu phí bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc.
1.2.2 Đối tượng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan, tổ chức, và cá nhân có cơ sở có nguy hiểm
về cháy, nổ có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo qui
định.
Chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định là bảo hiểm tài sản đối với
các rủi ro về cháy, nổ của:
a) Nhà, công trình kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo.
b) Máy móc thiết bị.
c) Hàng hóa, vật tư, tài sản khác.
Những tài sản này chỉ thực sự được bảo hiểm hiểm khi giá trị của chúng tính
được thành tiền và được ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.

- 12 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Bên cạnh đó Nhà Nước cũng khuyến khích các cơ quan, tổ chức và các cá
nhân không thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo
quy định mua bảo hiểm cháy, nổ trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các quy

định pháp luật có liên quan.
1.2.3 Phạm vi bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm bồi thường cho thiệt hại của tài sản được bảo hiểm do hai rủi ro
được bảo hiểm là Cháy và Nổ ( được định nghĩa trong Quy tắc bảo hiểm hiểm
cháy nổ bắt buộc đính kèm ) gây ra. Doanh nghiệp bảo hiểm không có nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại do một trong những nguyên nhân sau đây:
a) Động đất, núi lửa phun hay những biến động khác của thiên nhiên.
b) Tài sản tự lên men hoặc tỏa nhiệt.
c) Tài sản chịu tác động của tác động của một quá trình xử lý có dung
nhiệt.
d) Sét đánh trực tiếp vào tài sản được bảo hiểm nhưng không gây Cháy,
Nổ.
e) Thiệt hại xảy ra đối với máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của
thiết bị điện do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, hồ
quang điện hay rò điện do bất kỳ nguyên nhân nào, kể cả do sét đánh.
f) Những thiệt hại do hành động cố ý gây cháy nổ của người được bảo
hiểm nhằm mục đích đòi bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bảo hiểm.
g) Những thiệt hại do cố ý vi phạm các quy định về phòng cháy và chữa
cháy để xảy ra cháy, nổ.
h) Hàng hóa nhận ủy thác hay ký gửi trừ khi những hàng hóa đó được xác
nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và Người được
bảo hiểm trả them phí bảo hiểm theo quy định.
i) Nguyên liệu vũ khí hạt nhân gây cháy nổ.

- 13 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


j) Tiền, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tài liệu, bản
thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản
mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế, trừ khi những hạng
mục này được xác nhận trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
k) Chất nổ, trừ khi được xác nhận là được bảo hiểm trong Giấy chứng
nhận bảo hiểm.
l) Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được bảo hiểm theo
đơn bảo hiểm hàng hải hoặc thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo đơn bảo
hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá.
m) Những thiệt hại do cháy, nổ cho bên thứ bắt buộc.
n) Những thiệt hại đối với dữ liệu, phần mềm và các chương trình máy
tính.
o) Những thiệt hại do những biến cố chính trị, an ninh và trật tự an toàn xã
hội gây ra.
1.2.4 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tối thiểu là giá trị tính thành tiền
theo giá thị trường của tài sản phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tại
thời điểm tham gia bảo hiểm. Cần lưu ý là bên mua bảo hiểm liệt kê số tiền
bảo hiểm riêng rẽ của từng hạng mục tài sản bảo hiểm và tính tổng cộng số
tiền bảo hiểm hiểm (gọi là Tổng Số tiền bảo hiểm). Theo luật định, trong mọi
trường hợp, trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm sẽ không vượt quá
Số tiền bảo hiểm của từng hạng mục và tổng cộng sẽ không vượt quá Tổng số
tiền bảo hiểm.
Trường hợp không xác định được giá thị trường của tài sản thì số tiền
bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc do các bên thỏa thuận.

- 14 -



Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.2.5 Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc là mức phí bảo hiểm được tính trên cơ
sở 1 năm. Trường hợp thời gian bảo hiểm khác 1 năm, phí bảo hiểm được tính
tương ứng theo tỷ lệ của thời gian bảo hiểm.
Đối với số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị tối đa thì phí bảo hiểm
được tính toán cụ thể như sau:
a) Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá
trị tối đa theo thông báo của bên mua bảo hiểm hiểm. Doanh nghiệp
bảo hiểm chỉ được thu trước 75% số phí bảo hiểm tính trên cơ sở giá trị
tối đa này.
b) Cuối thời hạn bảo hiểm, căn cứ các giá trị tối đa được thông báo doanh
nghiệp bảo hiểm tính giá trị tài sản tối đa bình quân của cả thời hạn bảo
hiểm và tính lại phí bảo hiểm trên cơ sở giá trị tối đa bình quân này.
Nếu phí bảo hiểm được tính lại nhiều hơn phí bảo hiểm đã nộp thì bên
mua bảo hiểm phải trả thêm cho doanh nghiệp bảo hiểm số phí còn
thiếu. Nếu số phí bảo hiểm được tính lại này thấp hơn số phí bảo hiểm
đã nộp thì doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả số chênh lệch cho bên
mua bảo hiểm. Tuy nhiên, số phí bảo hiểm chính thức phải nộp không
được thấp hơn 2/3 số phí bảo hiểm đã nộp.
c) Nếu trong thời gian bảo hiểm đã có tổn thất dược doanh nghiệp bảo
hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân
tính đến thời điểm xảy ra tổn thất thì số tiền bảo hiểm đã bồi thường
được coi là số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số
tiền bảo hiểm này.
1.2.5 Giám định và bồi thường.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tổ chức

được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền sẽ tiền hành giám định tổn thất để

- 15 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chi phí giám định tổn thất do
doanh nghiệp bảo hiểm chịu
Trong trường hợp bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm
không thống nhất về nguyên nhân và mức độ tổn thất thì có thế trưng cầu
giám định độc lập. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được việc
trưng cầu giám định viên độc lập thì một trong các bên được yêu cầu tòa
án nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi bên mua bảo hiểm cư trú chỉ định giám
định viên độc lập. Kết luận của giám định viên độc lập có trị bắt buộc đôi
với các bên.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền lựa chọn một trong các phương
thức bồi thường dưới đây:
•Sửa chữa tài sản bị thiệt hại
•Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác
• Trả tiền bồi thường
1.3 Quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm Hoả
hoạn gồm các bước cơ bản sau:
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất

Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước
này ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một
chu trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm.
Công tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công
- 16 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm
họ sẽ được lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước
này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn - nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan
như: cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành
để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm cháy nổ. Qua đó mới có
thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh
để giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách
hàng hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại
đọc. Một phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết ý nghĩa,
tác dụng của bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ
sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy những rủi
ro mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải

thích rõ cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính
số phí mà họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu
rõ, gây cho họ lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy
rằng, hướng tuyên truyền vận động nên tập trung vào những đối tượng "ăn
nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo Việt đã chú ý đến các đơn vị,
doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính khai thác như: Công ty liên doanh về
các thiết bị viễn thông COMVIK đã mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là
19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công ty liên doanh INDOCHINA
CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội thất đã mua với số
tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.

- 17 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ
khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại
chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối hợp với
các ngân hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy
yêu cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các
đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng
với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi
cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời
khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc

chịu lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu
hoả, bảo vệ...), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ
(với đơn vị kinh doanh dịch vụ v), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong
kho, cửa hàng, từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh
giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm
sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ
hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng
tác với cảnh sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện
chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với
số lượng là bao nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai
thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó
yêu cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải có
sự năng động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá

- 18 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

rủi ro là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra
mức phí phù hợp.
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy
chứng nhận bảo hiểm cháy nổ bao gồm:
- Số đơn bảo hiểm

- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại
không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo
Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi
như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể
hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của
từng loại đó:
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản: Một bản trao
cho khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công
ty.Hiện nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng
công ty. Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì

- 19 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

công ty chỉ cần gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp,
trước khi cấp giấy chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho

Tổng công ty xem xét và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được
bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần
xem xét kỹ yêu cầu thay đổi như: giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến
tỷ lệ phí để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích
hợp. Bản bổ sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận
nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối
tượng bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng
cường công tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo
dõi việc đóng phí của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn
bảo hiểm sắp hết.
1.4 Hoa hồng
Hoa hồng. Đây là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số
phí bảo hiểm. Khoản hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra
tham gia bảo hiểm hoặc trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích
họ nhiệt tình công tác, thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây
cũng là một hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm
1995, để tạo tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa hồng
được tính vào chi quản lý nghiệp vụ.
Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty
bảo hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.

- 20 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi
thường. Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định: nguyên nhân rủi
ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao
nhiêu...
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay
hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra
tai nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu
hỏi: tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá
trình điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại thông tin: các tang vật và
lời khai của nhân chứng.
- Tang vật: Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những
sự việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện
trường hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng: Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân
chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời
khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan
đến tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những
lời khai xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi
mâu thuẫn với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám
định viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC.
Qua đó, nguyên nhân cháy nổ, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp cháy nổ, người được bảo hiểm rất hoang
mang và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện


- 21 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

trường và song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải
góp ý kiến với người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản
để tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên
nhân gây cháy nổ. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến
hoả hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt
hại và lập biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên công
Mục tiêu của của công tác phòng cháy chữa cháy là đề phòng hỏa hoạn
phát sinh và không cho đám cháy lan rộng. Cùng với cảnh sát PCCC, công ty
bảo hiểm Hà Nội đã hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công
tác phòng cháy chữa cháy khu vực dễ xảy ra rủi ro, đè nghị họ có biện pháp
ngăn ngừa kịp thời và hợp lý.
Hàng năm, Bảo Việt Hà Nội đã tổ chức các buổi gặp gỡ khách hàng để
tuyên truyền về các biện pháp phòng cháy chữa cháy, đề phòng và hạn chế tổn
thất. Bên cạnh đó công ty còn trợ giúp kinh phí cho khách hàng để khách
hàng thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy. Hơn nữa công ty còn cử
cán bộ, nhân viên xuống tận cơ sở sản xuất nghiên cứu và chỉ cho khách hàng
thấy những nơi dễ xảy ra hỏa hoạn và hướng dẫn họ thực hiện các biện pháp
đề phòng.


- 22 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Bảng 3: Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất
Đơn vị: Triệu đồng

Tổng
Năm

Chi tuyên truyền

Chi hỗ trợ kinh

chi

Chi hội nghị

phí
Mức

Tỷ lệ %/ Mức chi Tỷ lệ %/

chi

Tổng chi


Mức

Tỷ lệ %/

Tổng chi

chi

Tổng chi

1997

176,20

52,860

30,0

105,720

60,0

17,620

10,0

1998

203,79


61,137

30,0

122,274

60,0

20,379

10,0

1999

230,42

69,126

30,0

138,252

60,0

23,042

10,0

2000


260,68

74,435

29,0

150,870

57,8

34,735

13,2

2001

221,69

64,152

28,9

128,304

57,9

29,234

13,2


Nguồn số liệu: Công ty BVHN
Như vậy có thể thấy hàng năm BVHN đã chi ra một khoản tiền lớn cho
công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Việc chi này đã đem lại hiệu quả lớn
cho công ty. Trong các khoản chi thì khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi
lớn nhất, thường chiếm 60% trong các tổng chi. Điều đó cho thấy công ty đã
rất quan tâm đến việc phối hợp cùng các doanh nghiệp trong công tác phòng
cháy chữa cháy, không những hướng dẫn cho họ cách đề phòng cháy, chỉ cho
họ những nơi có độ rủi ro cao mà công ty còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh
nghiệp để công tác phòng cháy được tiến hành tốt hơn.
Một khoản chi khác cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đề
phòng hạn chề tổn thất là chi tuyên truyền quảng cáo. Đây là khoản chi có tác
dụng quan trọng không chỉ đối với việc khai thác mà còn góp phần hạn chế
- 23 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

tổn thất khá hiệu quả. Khoản chi này thường chiếm khoảng 30% trong tổng
chi đề phòng hạn chế tổn thất.
Nhờ đó, số vụ cháy hàng năm hiện nay đã giảm xuống, số tiền bồi
thường mà công ty phải chi hàng năm cũng giảm theo. Năm 97, số vụ cháy
xảy ra là 7 vụ, đến năm 98 con số này đã giảm xuống còn 3 vụ. Nhưng đến
năm 99, số vụ cháy lại là 9 vụ, nguyên nhân là do năm 99 có nhiều vụ cháy
xảy ra nhất trong 5 năm trở lại đây. Năm 2000 giảm xuống còn 6 vụ và đến
năm 2001 thì chỉ còn 4 vụ.
Tóm lại, việc chi đề phòng hạn chế tổn thất ở công ty đã đem lại hiệu
quả cao, làm giảm số chi bồi thường, do đó làm tăng lợi nhuận cho công ty.

ty một bản và Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan
trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu
sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được
thể hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải
quyết bồi thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ
số một của người làm công tác bồi thường và là một trong những biện pháp
tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng
tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường,
cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau:

3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem
xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo

- 24 -


Nguyễn Mạnh Cường – BH47B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và
ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy
tắc bảo hiểm và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách
nhiệm bảo hiểm. Cụ thể: khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm
không; có điểm loại trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không;
có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi

được bảo hiểm của khiếu nại không?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại
thực tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh
doanh cho người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo
việc bồi thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác
định giá trị thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc: phải xác định ngay tại
thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức
độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu
nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối
tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là
thuộc phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến
hành xác định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau:
- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường)
- Mức miễn thường: sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc
nhỏ hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải

- 25 -


×