Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện ba vì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

ĐỖ VĂN THÀNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ MINH TIẾN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, khách quan và chưa từng đươc
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Đỗ Văn Thành


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Tiến sĩ Vũ Minh Tiến đã luôn quan tâm, hết lòng hướng dẫn cũng như
động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.


- Khoa Sau Đại học - Viện Đại học mở Hà Nội, các thầy cô của Viện đã
đem hết tâm huyết của mình truyền đạt tri thức chuyên ngành ở bậc Cao học, giúp
cho tôi tiếp cận tri thức với cách tư duy mới, tạo nền tảng vững chắc cho tôi trong
quá trình học tập, nghiên cữu cũng như viết Luận văn.
- UBND huyện Ba Vì, các cơ quan chuyên môn, TAND huyện Ba Vì,
UBND các xã, thị trấn, các đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Ba Vì.
- Các bạn cùng lớp 15M-LKT41 đã song hành, chia sẻ, hợp tác và giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
 Đặc biệt tôi xin gửi lời tri ân đến PGS, TS Nguyễn Thị Nga đã cung cấp
cho tôi những kiến thức ở hai chuyên đề: Lý luận về Luật Đất đai và Giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai; PGS.TS Trần Hữu Tráng, TS Nguyễn Mai
Hương đã giúp cho tôi về phương pháp nghiên cứu khoa học và kỹ năng nghiên cứu
luật học phục vụ thiết thực cho việc viết Luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2017
Người viết

Đỗ Văn Thành


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT:

DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................7

1.1.Những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai............ 7
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp đất đai. ...............................7
1.1.2.Khái niệm, đặc điểm và phân loại giải quyết tranh chấp đất đai .........11
1.1.3.Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai chủ yếu. .....................14
1.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam. .............................. 25
1.2.1.Sự hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai…… .......................................................................................................25
1.2.2.Các quy định về phương thức giải quyết và thẩm quyền, thủ tục........29
1.2.3.Các quy định về thi hành bản án, quyết định, thoả thuận giải quyết
tranh chấp đất đai. .............................................................................................32
1.2.4.Các quy định về xử lý hành vi vi phạm trong và sau quá trình giải
quyết tranh chấp................................................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾTTRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI........................................................39
2.1. Đặc điểm, tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Ba Vì .............. 39
2.1.1.Vài nét về huyện Ba Vì. .......................................................................39


2.1.2.Tình hình tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai trên địa
bàn huyện Ba Vì ...............................................................................................41
2.2.Thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về phương thức, thẩm quyền,
thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai. .................................................................... 42
2.2.1.Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã. .........................................................42

2.2.2. Đối với Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì .................................... 44
2.2.3. Đối với Tòa án nhân dân huyện Ba Vì ..................................... 46
2.3.Ưu điểm, hạn chế - nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong công tác giải
quyết tranh chấp đất đai. ....................................................................................... 51
2.3.1.Ưu điểm và nguyên nhân. ....................................................................51
2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân. .....................................................................57

2.3.3.Bài học kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp đất đai bằng pháp luật
trên địa bàn Ba Vì. ............................................................................................70
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......74
3.1.Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay....... 74
3.2.Hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai ..... 77
3.2.1.Nhóm các giải pháp chung. ..................................................................77
3.2.2 Nhóm các giải pháp hoàn thiện pháp luật. ...........................................80
3.2.3. Nhóm các giải pháp bảo đảm thực hiện các luật về giải quyết tranh
chấp đất đai. ......................................................................................................86
KẾT LUẬN ...........................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................95

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT:

Cơ quan nhà nước:

CQNN

Cơ quan hành chính:

CQHC

Cơ quan hành chính Nhà nước:

CQHCNN


Giải phóng mặt bằng:

GPMB

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

GCNQSDĐ

Hành chính Nhà nước:

HCNN

Hành vi hành chính:

HVHC

Hội đồng nhân dân:

HĐND

Quản lý hành chính:

QLHC

Quản lý nhà nước:

QLNN

Quản lý đất đai


QLĐĐ

Quyền sử dụng đất:

QSDĐ

Quyết định hành chính:

QĐHC

Mặt trận tổ quốc:

MTTQ

Tài nguyên - Môi trường:

TNMT

Thi hành án:

THA

Thi hành án hành chính:

THAHC

Thi hành án dân sự:

THADS


Thủ tục hành chính:

TTHC

Tòa án nhân dân:

TAND

Tranh chấp đất đai:

TCĐĐ

Tranh chấp dân sự:

TCDS

Ủy ban nhân dân:

UBND

Viện kiểm sát nhân dân:

VKSND

Vi phạm hành chính:

VPHC

Sử dụng đất:


SDĐ


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả giải quyết TCĐĐ của UBND huyện Ba Vì.... 46
Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả giải quyết TCĐĐ của TAND huyện Ba Vì .... 48


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành một
loại hàng hóa đặc biệt có giá trị thì tranh chấp đất đai (TCĐĐ) có xu hướng ngày
càng gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ phức tạp. Và hiện nay, TCĐĐ là một
hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội. Tình trạng TCĐĐ diễn ra kéo dài dẫn đến
số lượng người dân khiếu kiện ngày càng đông. Đây là vấn đề rất đáng được quan
tâm. TCĐĐ phát sinh nhiều sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, ảnh hưởng đến phong tục đạo đức tốt đẹp của người dân Việt Nam, gây ra sự
mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Có nhiều cách để giải quyết một vụ việc TCĐĐ như:
Giải quyết TCĐĐ theo quy định của pháp luật. Tức là: Các bên tranh chấp tự
hòa giải, thương lượng với nhau. Trường hợp các bên không thỏa thuận được có thể
nhờ tổ Hòa giải ở cơ sở giải quyết. Trường hợp hòa giải thông qua hòa giải ở cơ sở
không thành thì các bên có thể gửi đơn đến Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã để
giải quyết. Trường hợp UBND cấp xã hòa giải không thành, các bên có thể lựa chọn
hoặc là gửi đơn đến UBND hoặc là Tòa án nhân dân (TAND) cấp có thẩm quyền để
được giải quyết theo quy định của pháp luật. Đây là cách giải quyết TCĐĐ chính
thống theo hướng tích cực.
Bên cạnh việc giải quyết TCĐĐ theo cách chính thống, hiện nay trong xã hội
đang diễn ra (tồn tại) một dạng giải quyết TCĐĐ theo hướng tiêu cực cực gọi là

không chính thống. Tức là: Bên có quyền, lợi ích bị xâm hại có thể sử dụng mọi
biện pháp như: lôi kéo đông người để dùng sức ép tập thể; thông qua các cơ quan
ngôn luận (Báo, đài) để tạo dư luận xã hội. Thậm chí, họ “tự giải quyết” bằng cách
thuê “xã hội đen” để giải quyết tranh chấp. Những cách giải quyết này tuy không
chính thống nhưng đôi khi đem lại hiệu quả nhất định.

1


Tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện nay đang là một thách thức đối
với các cơ quan nhà nước (CQNN) có thẩm quyền. Việc giải quyết dứt điểm, có
hiệu quả vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì sự ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội trong cả nước nói chung, ở mỗi địa phương nói riêng. Vì vậy,
việc tìm hiểu, nhận dạng các nguyên nhân phát sinh tranh chấp, khiếu nai, tố cáo về
đất đai là rất cần thiết nhằm tìm kiếmcơ chế thích hợp để giải quyết dứt điểm, triệt
để loại tranh chấp này.
TCĐĐ kéo dài nếu không được giải quyết dứt điểm sẽ dễ dẫn đến “điểm
nóng”, bị kẻ xấu lợi dụng, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về giải quyết TCĐĐ trong giai đoạn hiện naylà rất
cần thiết. Với lý do đó, học viên đã lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp đất đai
trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu tổng quát những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn đánh giá
thực trạng giải quyết TCĐĐ trên địa bàn huyện Ba Vì giai đoạn 2011 - 2016. Qua
đó, tìm ra những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong giải quyết TCĐĐ. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết TCĐĐ, góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; tăng cường trách nhiệm của cơ quan
Nhà nước (CQNN) có thẩm quyền đối với hoạt động quản lý Nhà nước (QLNN)
trong lĩnh vực đất đai.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Thứ nhất, Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về giải quyết TCĐĐ như:
Khái niệm, đặc điểm, phân loại TCĐĐ; khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa
giải quyết TCĐĐ.
Thứ hai, Phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết TCĐĐ ở Việt Nam dưới
các góc độ: sự hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, pháp luật
hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ trên địa bàn huyện Ba
Vì (thành phố Hà Nội).

2


Thứ ba, Từ những phân tích, đánh giá về lý luận và thực tiễn giải quyết
TCĐĐ, luận văn đưa ra định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết TCĐĐ trên địa bàn huyện Ba Vì (thành phố Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về giải quyết TCĐĐ và thực tiễn giải
quyết TCĐĐ trên địa bàn huyện Ba Vì (thành phố Hà Nội) giai đoạn 2011 - 2016.
5. Tổng quan tài liệu.
Từ nhiều năm nay, tình hình TCĐĐ luôn là vấn đề bức bách được Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết
về vấn đề này. Các văn bản đó đã và đang được triển khai thực hiện, có tác động
tích cực đến việc giải quyết TCĐĐ. Nhờ vậy, nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc
phức tạp đã được giải quyết, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà thời gian gần đây
tình hình TCĐĐ diễn ra không bình thường, số lượng gia tăng, tính chất phức tạp.
Tình hình TCĐĐ diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả
nước, nhiều nơi đã trở thành “điểm nóng”. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ
quan ở Trung ương nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận
với cách giải quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại
trực tiếp tại phòng tiếp công dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương

hàng năm cao. Nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, băng zôn, khẩu hiệu
kéo đến các cơ quan của Đảng, chính quyền nhằm gây áp lực đòi được giải quyết
quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở các kỳ Đại hội
đảng, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp hay tại các kỳ tiếp xúc
cử tri, có nơi công dân tập trung huy động thương binh, phụ nữ, người già ... bao
vây trụ sở chính quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.
Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để
thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở, nâng
giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ,

3


TCĐĐ, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách
xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức ... Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán
bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai
(QLĐĐ), tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, cổ phần
hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người
bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Liên quan đến vấn đề giải quyết TCĐĐ mà học viên lựa chọn nghiên cứu, đã
có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như: “Giải quyết tranh chấp hành chính
trong lĩnh vực đất đai ở nước ta hiện nay”- năm 2015 của tác giả Nguyễn Thắng
Lợi; “Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đaicủa cán bộ quản lý hành chính cấp cơ
sở”- năm 2016 của tác giả Hồ Thị Song Quỳnh; “Tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hà Nội” -năm
2007 của tác giả Trần Tú Cường ... Nhìn chung, các đề tài này cũng đã chỉ ra được
một số hạn chế, bất cập trong giải quyết TCĐĐ; đồng thời đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ. Tuy nhiên, với việc sửa đổi Luật đất đai
2003 cùng với việc ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian qua
và thực tiễn áp dụng tại địa bàn huyện Ba Vì cho thấy vẫn còn một số vướng mắc,

bất cập cần tháo gỡ.
Do vậy, trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đã được công bố về giải quyết TCĐĐ theo quy định của pháp luật, luận
văn đi sâu tìm hiểu pháp luật về giải quyết TCĐĐtrên địa bàn huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội.
6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu.
Tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ của
UBND cấp xã, UBND huyện và TAND huyện Ba Vì giai đoạn 2011 - 2016.

4


6.2. Phương pháp nghiên cứu.
6.2.1. Thời gian nghiên cứu.Từ 15/6/2017 đến 30/8/2017
6.2.2. Địa điểm nghiên cứu.
Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội.
Với tổng diện tích 424km2, dân số hơn 265 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc Kinh,
Mường, Dao).Huyện Ba Vì có 30 xã, 1 thị trấn. Trong đó có 7 xã miền núi, 1 xã
giữa sông Hồng. Phía đông giáp thị xã Sơn Tây, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía
tây giáp tỉnh Phú Thọ và phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc. Thực hiện Nghị quyết 15
của Quốc Hội khóa XII, huyện Ba Vì tái nhập vào Thủ đô Hà Nội từ ngày
01/8/2008.
Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2 nhóm, nhóm vùng đồng bằng và nhóm
đất vùng đồi núi. Nhóm đất vùng đồng bằng có 12.892 ha bằng 41,1% diện tích đất
đai toàn huyện. Nhóm đất vùng đồi núi: 18.478 ha bằng 58,9% đất đai của
huyện[36].
Trong những năm gần đây, hoà chung với cả nước, được Đảng và Nhà nước
quan tâm, với nền tảng sẵn có, với con người cần cù chịu khó và sự đổi mới trong
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, Ba Vì đã có những bước chuyển đáng kể, đời sống

nhân dân được nâng cao, cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển. Nông nghiệp nông
thôn ngày càng khởi sắc, các trang trại kinh tế ngày càng phát triển. Cùng với sự
phát triển chung của cả nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và việc
sát nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây vào Thủ đô Hà Nội, nhiều cụm công nghiệp, doanh
nghiệpđược mở ra. Kéo theo đó là việc thu hồi đất, bồi thường GPMB, chuyển
nhượng đất ... Từ đó, giá trị của đất được nâng lên. Đây chính là nguyên nhân dẫn
đến trình trạng TCĐĐtrên địa bàn huyện Ba Vì trong thời gian vừa qua.
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu.
Chương 1, chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;
phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh;

5


Chương 2, chủ yếu nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết
TCĐĐ, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và so sánh;
Chương 3, chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh, đối chiều và sử dụng
phương pháp dự báo khoa học.
7. Dự kiến kết quả.
Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về giải quyết TCĐĐ. Một số bài học
kinh nghiệm về giải quyết TCĐĐ của một số huyện ngoại thành Hà Nội;
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ trên địa bàn
huyện Ba Vì để tìm ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, rút ra bài học kinh
nghiệm về giải quyết TCĐĐ trên địa bàn huyện Ba Vì. Đồng thời, đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết TCĐĐ trên địa bàn huyện Ba
Vì nói riêng và trên cả nước nói chung.

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017
HỌC VIÊN


6


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu “Hôn nhân điền thổ, vạn cố chi thù”. Câu
nói trên có nghĩa là: Có hai chuyện thường xảy ra khúc mắc, dễ kết thù oán và thù
oán lâu nhất trong xã hội, đó là: là hôn nhân và ruộng đất.
Thực tế cho thấy, tính phổ biến và phức tạp của các TCĐĐ đã tồn tại từ lâu
và có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Tính phức tạp, gay gắt của nó không chỉ dừng lại ở
khía cạnh tranh chấp dân sự(TCDS) mà còn có thể dẫn đến các vụ án hình sự, thậm
chí có thể mang tính chính trị, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Vì vậy, giải quyết
TCĐĐ là một nội dung rất quan trọng và không thể thiếu của pháp luật đất đai.
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp đất đai.
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai.
Thực tế cho thấy, đất đai luôn có vai trò và vị trí quan trọng đối với con
người, góp phần quyết định sự phát triển phồn vinh của mỗi quốc gia. Cùng với sự
phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu sử dụng đất của con người ngày càng
phong phú và đa dạng hơn. Xuất phát từ lợi ích của cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đất đai nhằm tạo lập
một môi trường pháp lý lành mạnh cho hoạt động khai thác và sử dụng đất đai hợp
lý, có hiệu quả. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết dứt điểm và có
hiệu quả những TCĐĐ nảy sinh.
“Tranh chấp” hiểu theo tính từ có nghĩa là: Không đồng ý với nhau trong
một cuộc thảo luận.
Ví dụ: Ý kiến tranh chấp.
“Tranh chấp” hiểu theo động từ có nghĩa là: Giành giật.


7


Ví dụ: Tranh chấp thị trường.
Theo từ điển Việt - Việt, tranh chấp là một động từ. Có nghĩa là:
Thứ nhất: giành nhau cái không rõ thuộc về bên nào.
Ví dụ: Phần đất tranh chấp giữa hai nhà hay tranh chấp bản quyền tác phẩm.
Thứ hai là: giằng co khi bất đồng ý kiến.
Ví dụ: giải quyết vụ tranh chấp tài sản[35].
Trong dân sự: “Tranh chấp dân sự là những tranh chấp về quyền, quyền lợi
và nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tranh
chấp trong việc ký kết, thi hành và thanh toán các hợp đồng mua bán, đầu tư,
chuyển giao công nghệ, vận chuyển, bảo hiểm… hoặc trong việc thực hiện các
quyền về nhân thân có gắn liền với quan hệ tài sản như quyền tác giả, phát minh,
sáng chế, trong ly hôn, thừa kế...”[36].
Trong lĩnh vực kinh tế: “Tranh chấp kinh tế là mâu thuẫn, xung đột về quyền
và nghĩa vụ kinh tế của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật kinh tế” [40].
Thuật ngữ “tranh chấp kinh tế”chỉ được sử dụng trong Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế năm 1994.Từ khi Bộ luật TTDS năm 2004 có hiệu lực thì
thuật ngữ nàykhông còn được sử dụng. Thay vào đó, thuật ngữ “tranh chấp về kinh
doanh, thương mại” được sử dụng trong Bộ luật TTDS năm 2004 cho đến nay.
Trong lĩnh vực thương mại: “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn
(bất đồng hoặc xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực
hiện các hoạt động thương mại” [41].
Trong lĩnh vực lao động: “Tranh chấp lao động là là những tranh chấp về
quyền lợi và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện
lao động khác về thực hiện howph đồng lao động, thỏa ước tập thề và trong qua
trình học nghề” [42].

8



Tranh chấp đất đai, hiểu theo nghĩa rộng là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng
trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai,
phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Theo nghĩa hẹp, Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và
sử dụng đất đai [43].
Trong thực tế, TCĐĐ được hiểu là sự tranh chấp về quyền quản lý, quyền sử
dụng giữa hai hay nhiều bên vớimột khu đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình
phải được quyền đó do pháp luật quy định và bảo hộ. Vì vậy, họ không thể cùng
nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải
quyết.
Như vậy, trong mỗi ngành, lĩnh vực,nhữngmâu thuẫn (bất đồng hoặc xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ gọi là “tranh chấp”.
Theo Luật Đất đai năm 2013, tranh chấp đất đai là “tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”[4,
tr.11-12].
1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp đất đai.
Đối tượng của TCĐĐ là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát
sinh từ quá trình sử dụng đất đai.
Các chủ thể TCĐĐ là chủ thể quản lý và sử dụng đất (SDĐ), không có quyền
sở hữu đối với đất đai.
TCĐĐ không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh
chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.
TCĐĐ làm cho những quy định của pháp luật đất đai và chính sách của Nhà
nước không được thực hiện một cách triệt để.

9



1.1.1.3. Phân loại tranh chấp đất đai.
Thực tế hiện nay, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà còn hết sức đa
dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất
pháp lý của các tranh chấp, có thể phân ra thành các nhóm chủ yếu sau:
Nhóm thứ nhất: Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất.
Đây là tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến
các giao dịch về đất đai và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi
giaỉ quyết tranh chấp này tòa án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai.
Các tranh chấp phổ biến trong trường hợp này là tranh chấp về ranh giới đất
liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp GCNQSDĐ nhưng bị trùng diện tích, người
sử dụng đất được cấp GCNQSDĐ nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được cấp
GCNQSDĐ nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp GCNQSDĐ là không đúng.
Nhóm thứ hai: Tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất.
Các tranh chấp này có thể là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, công
nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu … Bản chất của
tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Thời hiệu
khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện
đối với các tranh chấp về hợp đồng nói chung.
Riêng đối với vụ án ly hôn khi các bên đương sự có tranh chấp quyền sử dụng đất
trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng, đây không phải thuộc loại quan
hệ TCĐĐ. Trong quan hệ ly hôn, Tòa án giải quyết quan hệ trọng tâm là quan hệ mang
tính nhân thân, đây là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định tính chất và nội
dung của quan hệ tài sản. Cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể xuất phát chính từ các quan hệ nhân thân trước.
Nhóm thứ ba: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
Đây là các tranh chấp yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Bản chất của dạng
tranh chấp này là tranh chấp thừa kế có đối tượng là quyền sử dụng đất và Tòa án

10



phải xác định ranh giới đất để phân chia. Thời hiệu khởi kiện đối với dạng tranh
chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về
thừa kế tài sản nói chung.
Nhóm thứ tư: Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất bao gồm: tranh chấp tài
sản về nhà ở, vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà về sinh, giếng nước, nhà
thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở; các công trình xây dựng trên đất được
giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ
thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có
các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây
lâu năm khácgắn liền với quyền sử dụng đất đó. Tranh chấp trong trường hợp này
có thể là tranh chấp về ai là người có quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản, thừa kế
hoặc tranh chấp về ai là người có quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản, thừa kế
hoặc tranh chấp về các hợp đồng liên quan đến tài sản gắn liền với đất.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại giải quyết tranh chấp đất đai.
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai.
"Giải quyết tranh chấp đất đai trước hết là là nội dung quản lý nhà nước về
đất đai, là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các
tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa nhân dân với tổ chức
và giữa các tổ chức sử dụng đất với nhau để qua đó đó phục hồi các quyền lợi hợp
pháp bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm
pháp luật về đất đai"[24, tr.250].
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết TCĐĐ là một trong
những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong đời
sống xã hội. Thông qua việc giải quyết TCĐĐ, Nhà nước điều chỉnh các quan hệ
đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của xã hội. Đồng thời, giáo dục ý
thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, ngăn ngừa những vi phạm
pháp luật có thể xảy ra. Giải quyết TCĐĐ, với ý nghĩa là một nội dung của chế độ


11


quản lý nhà nước (QLNN) đối với đất đai, được hiểu là hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhằm tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật,
nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên, khôi phục lại quyền lợi cho
bên bị xâm hại. Đồng thời, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Như
vậy, giải quyết TCĐĐ là việc vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật để bảo
vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Tranh chấp nói chung, tranh chấp đất đai nói riêng, không những ảnh hưởng
đến lợi ích của các bên liên quan mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, bởi
nó gây nên sự mất ổn định trong xã hội, làm cho chính sách của Nhà nước không
thực hiện được. Chính vì vậy, pháp luật đất đai cần phải có những quy định về giải
quyết tranh chấp.
1.1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai.
Từ định nghĩa giải quyết TCĐĐ ở trên có thể rút ra các đặc điểm của giải
quyết TCĐĐ như sau:
Thứ nhất. Giải quyết TCĐĐ là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền để giải quyết tranh chấp một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều
biện pháp như: tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không quan
tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra các quy
định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia của cơ quan Nhà
nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện sự tôn trọng của Nhà
nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể, Nhà nước sẽ cung cấp một
công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ không có được sự thống nhất. Một
khi đã có sự tham gia của cơ quan Nhà nước thì các quy phạm pháp luật về giải
quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ có những quy phạm pháp luật này thì người dân
cũng như chính cơ quan nhà nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp và giải quyết theo trình tự, thủ tục gì.


12


Thứ hai. Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là TCĐĐ, trong đó
các đương sự yêu cầu cơ quan Nhà nước xác định rõ những quyền và nghĩa vụ của
các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.
Thứ ba. Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết định
có hiệu lực pháp luật.
Thứ tư. Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể địa phương tham gia.
Thứ năm. Liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, như: nhà ở, xây dựng...
Thứ sáu. Cần phải hiểu phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết
thỏa đáng.
1.1.2.3. Phân loại giải quyết tranh chấp đất đai.
TCĐĐ là dạng tranh chấp phổ biến, phức tạp nhất hiện nay. Do đó, để giải
quyết TCĐĐ, cần phải xác định được các dạng TCĐĐ phổ biến. Việc xác định
chính xác dạng TCĐĐ có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định chính xác việc đương
sự có quyền khởi kiện tranh chấp tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự (TTDS) hay
thủ tục tố tụng hành chính (TTHC), tranh chấp thuộc thẩm quyền của TAND hay
của UBND, xác định thời hiệu khởi kiện, đồng thời là cơ sở để xác định trình tự, thủ
tục và đường lối giải quyết tranh chấp.
Việc phân loại quan hệ pháp luật tranh chấp liên quan đến đất đai là vấn đề
tương đối. Trên thực tế có những vụ án, tính chất của quan hệ pháp luật tranh chấp
có dấu hiệu của tất cả các dạng tranh chấp. Để xác định tranh chấp thuộc dạng
TCĐĐ nào, ngoài các quy định của luật đất đai cần căn cứ vào các quy định của
pháp luật TTDS Việt Nam để xác định ai kiện, kiện ai, kiện về vấn đề gì và kiện
như thế nào để xác định quan hệ pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay có các dạng TCĐĐ phổ biến sau:
- Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất.


13


- Tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất
- Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai chủ yếu.
1.1.3.1. Hòa giải tranh chấp.
Hoà giải ở cơ sở là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam nhằm phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng
dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ
trong nội bộ nhân dân ở cơ sở, góp phần phòng ngừa và hạn chế các vi phạm pháp
luật, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ việc phải xét xử tại tòa án.
Hoạt động hoà giải ở cơ sở mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi
người và trên cơ sở tình người. Hòa giải cơ sở là một trong những hình thức quan
trọng để giải quyết vi phạm pháp luật và tranh chấp trong cộng đồng dân cư nhằm
mục đích giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng; phòng ngừa vi phạm
pháp luật và tội phạm ở cơ sở thông qua việc phát hiện và giải quyết tận gốc những
mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ, góp phần ổn định trật tự xã hội ở địa bàn dân cư, tạo
điều kiện thuận lợi cho các cấp chính quyền tăng cường công tác quản lý xã hội ở
cơ sở.
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp
luật theo quy định của Luật này.[9, tr.8]
Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở
“Khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa
giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác.
Khuyến khích những người có uy tín trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân
cư tham gia hòa giải ở cơ sở và tham gia các hình thức hòa giải thích hợp khác”[9,

tr.10].

14


Luật đất đai năm 2013 cũng quy định việc hòa giải TCĐĐ như sau:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi
đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”[4, tr.262].
Bên cạnh những đặc điểm chung của hòa giải TCDS thì việc hòa giải tranh
chấp đất đai còn có những đặc trưng riêng, cụ thể như sau:
Một là, việc hòa giải được tiến hành tại địa bàn nơi có đất đang tranh chấp
TCĐĐ luôn gắn liền với QSDĐ nên việc hòa giải thường phải được tiến
hành tại nơi có tài sản tranh chấp. Quy định như vậy nhằm giúp cho tổ hòa giải,
chính quyền địa phương hoặc Tòa án nơi đang có tranh chấp đất đai sẽ có điều kiện
tốt nhất để tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử và hiện trạng pháp lý cũng như thực tế
của tài sản tranh chấp. Trên cơ sở đó, các chủ thể này sẽ có những thông tin cần
thiết và điều kiện tốt nhất để phục vụ cho quá trình tiến hành hòa giải tranh chấp đất
đai đạt hiệu quả tốt nhất.
Hai là, việc hòa giải tranh chấp đất đai phải được tiến hành bởi các chủ thể
có sự am hiểu pháp luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và
nguyên nhân tranh chấp giữa các bên.
TCĐĐ được xem là tranh chấp về tài sản có giá trị lớn, QSD có thể đã được
dịch chuyển qua nhiều chủ thể, có nguồn gốc phức tạp nên mức độ tranh chấp
thường quyết liệt. Do vậy, chủ thể trung gian tiến hành hòa giải phải là người am
hiểu pháp luật đất đai và các ngành luật có liên quan, nắm vững nguồn gốc, quá
trình sử dụng đất và nguyên nhân tranh chấp giữa các bên. Đạt được những yêu cầu
nêu trên sẽ góp phần đảm bảo tính khả thi của quá trình giải quyết tranh chấp đất
đai thông qua con đường hòa giải.

Ba là, chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai có thể là tổ hòa giải, Ủy
ban nhân dân hoặc Tòa án nhân dân.

15


TCĐĐ có thể gắn với dòng họ, những người dân trong cùng một địa
phương nên để việc hòa giải có hiệu quả thì tùy theo trường hợp mà hòa giải có thể
được trao cho cộng đồng, chính quyền địa phương hoặc cơ quan tư pháp. Vấn đề
quan trọng là cần phải thiết lập được cơ chế chuyển hóa giữa kết quả hòa giải cơ sở,
chính quyền địa phương và quyết định tư pháp do Tòa án thực hiện có giá trị cưỡng
chế thi hành.
Bốn là, hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành trong
một số trường hợp được coi là một giai đoạn tiền giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan hành chính nhà nước hoặc của Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
Tính chất pháp lý của hòa giải TCĐĐ do UBND cấp xã thực hiện nói trên
thể hiện tập trung ở các khía cạnh sau:
- Hòa giải TCĐĐ tại UBND cấp xã có thể được coi là một trong những điều
kiện để Tòa án có thẩm quyền xem xét thụ lý, giải quyết TCĐĐ.
- Giá trị pháp lý của hòa giải TCĐĐ biểu hiện ở chỗ CQNN có thẩm quyền
có sự công nhận đối với kết quả hòa giải tranh chấp. Trong đó điểm đặc biệt là đối
với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, chủ SDĐ thì
UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng TNMT, Sở TNMT để các cơ quan
này trình UBND cùng cấp quyết định việc công nhận thay đổi ranh giới thửa đất và
cấp mới GCNQSDĐ.
Cũng cần lưu ý rằng, việc hòa giải TCĐĐ trong trường hợp nêu trên không
phải là việc giải quyết TCĐĐ của các cơ quan có thẩm quyền. Bởi lẽ, ở đây cấp
xã không phải là một cấp giải quyết TCĐĐ, mà chỉ đóng vai trò trung gian hòa
giải, giúp đỡ, hướng dẫn các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, xử lý giải quyết
ổn thỏa tranh chấp.

Năm là, hòa giải tranh chấp đất đaiđược coi là một thủ tục tố tụng bắt buộc
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.
Hoạt động giải quyết TCĐĐ của Tòa án phải tuân theo những nguyên tắc

16


do pháp luật TTDS quy định. Bộ luật TTDS quy định những nguyên tắc cơ bản của
về hòa giải trong TTDS. Theo đó hòa giải là trách nhiệm của Tòa án để các đương
sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự.
Theo qui định của pháp luật TTDS Việt Nam thì hòa giải có tính bắt buộc
và phải được tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án không
được tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải được và ở các giai đoạn tố tụng tiếp
theo nếu thấy có khả năng hòa giải thì Tòa án cũng tiến hành hòa giải.
Hòa giải trong pháp luật TTDS nói chung, trong TCĐĐ nói riêng là trách
nhiệm của Tòa án, được Tòa án thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự,
nhằm đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Thực hiện hòa
giải cũng nhằm mục đích rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động
xét xử, thể hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, đồng thời nó cũng mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng
cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đoàn kết cộng đồng.
Sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của Tòa án
trong việc hòa giải TCĐĐ. Đặc điểm này là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong tố
tụng với hòa giải ngoài tố tụng và trường hợp các đương sự tự hòa giải, cụ thể là:
+ Trong TTDS, hòa giải do Tòa án chủ động tổ chức và trực tiếp tham gia
với vai trò giải thích, động viên các đương sự tự thỏa thuận. Còn hòa giải ngoài tố
tụng là việc hòa giải không do Tòa án tiến hành mà do các chủ thể khác như UBND,
tổ hòa giải cơ sở thực hiện; hòa giải do Tòa án tiến hành cũng khác trường hợp
đương sự tự thỏa thuận. Trường hợp đương sự tự thỏa thuận là việc các bên chủ
động thương lượng, thỏa thuận mà không có sự tham gia của Tòa án.

+ Kết quả hòa giải được Thẩm phán lập biên bản, nếu các đương sự thỏa
thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Còn trong trường hợp các bên tự hòa giải và
không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết thì Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ
việc giải quyết vụ án.

17


Sáu là, hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành trên cơ sở tôn trọng
quyền định đoạt của các đương sự có tranh chấp.
Mặc dù hòa giải TCĐĐ là một hoạt động do tổ hòa giải, UBND hoặc Tòa
án tiến hành nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Chỉ
có các đương sự có tranh chấp mới có quyền thỏa thuận, thương lượng với nhau về
tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ án, bởi đương sự là những người
có quyền lợi đang bị xâm hại hoặc tranh chấp. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu
thuẫn của chính họ.
Khi tham gia vào quá trình hòa giải TCĐĐ, các đương sự có quyền thương
lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên
cơ sở tự do, tự nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý
muốn của các đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Tổ
hòa giải, UBND hoặc Tòa án không được cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận
với nhau về giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ.
Mục đích của hòa giải tranh chấp đất đai.
Hòa giải TCĐĐ là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả nhằm
giúp cho các bên tranh chấp tìm ra một giải pháp thống nhất để tháo gỡ những mâu
thuẫn, bất đồng trong tranh chấp đất đai trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận. Từ đó
góp phần ổn định, hài hòa mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ đất đai.
Ý nghĩa của hòa giải tranh chấp đất đai.
Trong hoạt động giải quyết TCĐĐ, hòa giải có tầm quan trọng đặc biệt.

Nếu hòa giải thành, có nghĩa là tranh chấp sẽ kết thúc, không những hạn chế được
sự phiền hà, tốn kém cho các bên đương sự mà còn giảm bớt được công việc đối với
Tòa án, phù hợp với truyền thống đạo lý tương thân, tương ái của dân tộc, giữ được
tình làng, nghĩa xóm, đảm bảo đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Không những vậy,
thông qua hòa giải, các đương sự sẽ hiểu thêm về pháp luật và chính sách của Nhà
nước. Hòa giải không chỉ có ý nghĩa đối với Tòa án, bản thân các đương sự mà còn
có ý nghĩa đối với cả xã hội. Cụ thể là:

18


×