Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Xúc tiến đầu tư theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 107 trang )

TƯỜNG THỊ THU THỦY

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

XÚC TIẾN ĐẦU TƯ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

TƯỜNG THỊ THU THỦY

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

XÚC TIẾN ĐẦU TƯ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

TƯỜNG THỊ THU THỦY

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu chưa được ai công bố trong các công trình khoa học.

Ký tên

Tường Thị Thu Thủy


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đại học Mở Hà
Nội, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả
đó, trước hết tôi vô cùng cám ơn PGS.TS Nguyễn Trung Tín, là người đã
giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên
cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo của Khoa đào tại Sau đại
học - Viện Đại học Mở Hà Nội, các quý cơ quan: Ủy ban nhân dân tỉnh
Ninh Bình, Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Ninh Bình, Thư viện tỉnh Ninh Bình,
... các đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận
văn này.
Luận văn là công trình nghiên cứu nghiêm túc, khoa học của bản
thân, nhưng do khả năng còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy

cô, độc giả quan tâm đến vần đề này để luận văn của tôi hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Ký tên

Tường Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÚC TIẾN ĐẦU TƯ VÀ
PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XÚC TIẾN ĐẦU TƯ ...................................... 5
1.1. Lý luận chung về pháp luật liên quan hoạt động xúc tiến đầu tư ................. 5
1.2. Vai trò của hoạt động xúc tiến đầu tư ......................................................... 6
1.3. Mô hình và cơ cấu tổ chức của công tác XTĐT .......................................... 8
1.4. Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT ..................................................... 9
1.5.Cơ quan thực thi chính sách XTĐT các cấp ở Việt Nam............................ 11
1.5.1. Cục đầu tư nước ngoài .................................................................... 11
1.5.2. Trung tâm Xúc tiến đầu tư ba miền và Trung tâm Xúc tiến đầu tư cấp
địa phương ............................................................................................................ 12
1.5.3. Các cơ quan thực thi chính sách XTĐT khác................................... 12
1.6. Hoạt động XTĐT thu hút FDI .................................................................. 13
1.6.1. Khái niệm, bản chất FDI và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài

................................................................................................................. 13
1.6.2. Vai trò của FDI tới nước nhận đầu tư .............................................. 20
1.6.3. Sự cần thiết của hoạt động XTĐT thu hút FDI ................................ 22
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LIÊN QUAN HOẠT ĐỘNG XÚC
TIẾN ĐẦU TƯ TỪ THỰC TIỄN ĐẦU TƯ TẠI TỈNH NINH BÌNH .............. 24
2.1. Thực trạng pháp luật về đầu tư liên quan hoạt động XTĐT...................... 24


2.1.1. Khái niệm pháp luật đầu tư ............................................................. 24
2.1.2. Chính sách đầu tư ............................................................................ 25
2.1.3. Hình thức đầu tư ............................................................................. 29
2.2. Thực tiễn hoạt động XTĐT tại tỉnh Ninh Bình......................................... 31
2.2.1. Vài nét về tỉnh Ninh Bình................................................................ 31
2.2.2. Tình hình thu hút vốn FDI và sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác
xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn FDI vào Ninh Bình ..................................... 42
2.2.3. Thực trạng công tác XTĐT nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh
Ninh Bình ................................................................................................... 49
2.2.4. Đánh giá hoạt động XTĐT nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh
Ninh Bình....................................................................................................... 63
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 71
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XÚC TIẾN ĐẦU TƯ .................................... 72
3.1. Quan điểm .............................................................................................. 72
3.2. Định hướng xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực 72
3.3. Phương hướng và mục tiêu hoạt động XTĐT của Tỉnh Ninh Bình........... 74
3.4. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động XTĐT nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào
tỉnh Ninh Bình................................................................................................ 74
3.5. Một số kiến nghị ...................................................................................... 85
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 91

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 94


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XTĐT

Xúc tiến đầu tư

CQXTĐT

Cơ quan xúc tiến đầu tư

HTPTDN

Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc dân

KCN, CCN

Khu công nghiệp, cụm công nghiệp

UBND


Ủy ban nhân dân

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

GCNĐKĐT

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư


DANH MỤC BIỂU
Bảng biểu
Bảng 2.2.1

Nội dung
Bảng thống kê chỉ số xếp hạng của Ninh Bình từ
2007 đến 2016

Biểu đồ

Doanh thu từ nguồn Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

2.2.2(1)


tại Ninh Bình qua các năm

Biểu đồ

Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân

2.2.2(2)

theo ngành kinh tế

Trang
41
42
45


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ
Sơ đồ 1.3
Sơ đồ 2.2.3
Sơ đồ 3.4

Nội dung

Trang

Cơ cấu tổ chức của CQXTĐT

7


Trình tự xúc tiến đầu tư tại tỉnh Ninh Bình

52

Quy trình tiếp thị địa phương của tỉnh Ninh Bình

78


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Vốn đầu tư luôn là một vấn đề quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của
mọi quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư không chỉ trực tiếp
tạo ra của cải vật chất, thúc đẩy tăng trưởng về số lượng mà còn là cơ sở để nâng
cao trình độ khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu sản suất, tạo công ăn việc làm,
giải quyết các vấn đề xã hội, qua đó tạo ra mặt chất của tăng trưởng. Đầu tư cũng là
công cụ tăng cường hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, bổ sung vốn cho
nhu cầu đầu tư của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn có
nhiều khó khăn sau khủng hoảng như hiện nay, việc thu hút đầu tư càng trở nên khó
khăn hơn bao giờ hết. Các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến mục tiêu tăng
trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam đang trong quá trình phát triển nhanh
chóng, bắt kịp dần với các nước trên thế giới, hoạt động đầu tư càng trở nên quan
trọng vì nó đóng vai trò tạo đà cho sự tăng trưởng ban đầu. Trước tình hình này,
công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được nâng lên tầm cao mới, trở thành
công cụ không thể thiếu trong cạnh tranh quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Trong giai đoạn hiện nay không chỉ nguồn vốn trong nước mà cả nguồn vốn
bên ngoài đều là yếu tố quyết định cho sự thành công của Việt Nam [27], [42]. Vấn
đề đặt ra ở đây đó là lấy vốn ở đâu, thu hút nó như thế nào và làm sao để sử dụng nó
có hiệu quả? Chính vì vậy, xúc tiến đầu tư được coi là công cụ hữu hiệu nhằm tăng
cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Việc thu hút nguồn vốn

đầu tư trực tiếp từ nước ngoài để khai thác hiệu quả hơn tiềm năng vốn có của quốc
gia là một yêu cầu bức thiết đặt ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước [30]. Tuy
nhiên, nhận thức về hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay vẫn còn có những hạn chế
nhất định và hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ta nói chung, ở các địa phương nói
riêng và cụ thể địa bàn nghiên cứu trong đề tài này là tỉnh Ninh Bình vẫn còn đang
ở những bước đầu và đồng thời cũng chưa khai thác hết được tính hiệu quả của các
công cụ xúc tiến đầu tư trong quá trình vận động các nhà đầu tư tiềm năng. Vậy,
1


thực trạng của hoạt động xúc tiến đầu tư diễn ra tại tỉnh Ninh Bình hiện nay như thế
nào? Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân gây ra hạn chế là gì? để từ đó đưa
ra các giải pháp khắc phục. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế của tỉnh Ninh Bình. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xúc
tiến đầu tư, do đó, em quyết định chọn đề tài: “Xúc tiến đầu tư theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu khóa luận.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Xúc tiến đầu tư là một hoạt động quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế của

một quốc gia nói chung cũng như ở từng địa phương cụ thể phát triển, nhưng từ
trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam còn có rất ít các công trình nghiên cứu
về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập vấn đề xúc tiến đầu tư như: Giáo
trình Luật đầu tư (2011) của Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường chủ biên, Giáo trình Kinh tế
đầu tư (2012) của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội; Luận án tiến sĩ luật
học của Nguyễn Khắc Định (2003) về đề tài “Hoàn thiện pháp luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong xu thế nhất thể hoá pháp luật về đầu tư ở Việt Nam”, Luận án tiến
sĩ kinh tế của Phan Thị Thùy Trâm (2010) về đề tài “Kinh nghiệm xúc tiến đầu tư

trực tiếp nước ngoài ở một số nước khu vực Đông Á và bài học cho Việt Nam”;
Luận văn thạc sỹ kinh tế của Phan Thị Quốc Hương (2007) về đề tài “Cải thiện môi
trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp tỉnh Bình Định”.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận về vấn đề xúc
tiến đầu tư từ góc độ trước khi Luật đầu tư năm 2014 có hiệu lực nên chưa nghiên
cứu đến vấn đề này một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống theo quy định của
pháp luật hiện hành. Các công trình đó cũng chưa có những đề xuất, kiến nghị một
cách tổng thể, đầy đủ và cụ thể về việc hoàn thiện xúc tiến đầu tư trong pháp luật
kinh tế ở Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư năm 2014.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu về thực trạng của hoạt
động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam nói chung và tại tỉnh Ninh Bình nói riêng một
cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu
2


quả của hoạt động xúc tiến đầu tư để từ đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đưa
ra các giải pháp khắc phục.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục đích đề tài làm rõ thêm một số vấn đề lý luận chung về pháp luật liên
quan hoạt động xúc tiến đầu tư và qua đó đưa ra một cái nhìn cụ thể về tình hình
công tác xúc tiến đầu tư tại tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động xúc tiến đầu tư nhìn từ góc
độ pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động xúc tiến đầu tư nhìn từ góc
độ pháp luật từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích đặt ra, đề tài giải quyết các nhiệm vụ sau:
Phân tích những lý luận chung về pháp luật liên quan hoạt động xúc tiến đầu


Thực trạng pháp luật về hoạt động xúc tiến đầu tư
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động xúc tiến đầu tư
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên
cứu, phân tích số liệu, tổng hợp và so sánh. Từ đó, đưa ra ý kiến nhằm hoàn thiện
vấn đề nghiên cứu.
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến hoạt động xúc
tiến đầu tư

3


Phản ánh thực trạng, phân tích những ưu điểm tìm ra những mặt hạn chế của
công tác xúc tiến đầu tư trên đại bàn Ninh Bình, phân tích các nguyên nhân
dẫn đến hạn chế đó
Trên cơ sở vận dụng lý luận và thực trạng phân tích luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài địa bàn tỉnh Ninh
Bình trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, bố cục khóa luận được
chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xúc tiến đầu tư và pháp luật liên quan đến hoạt
động XTĐT
Chương 2: Thực trạng pháp luật liên quan hoạt động XTĐT từ thực tiễn đầu tư tại
tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến
xúc tiến đầu tư.

4



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÚC TIẾN ĐẦU TƯ VÀ
PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XÚC TIẾN ĐẦU TƯ

1.1. Lý luận chung về pháp luật liên quan hoạt động xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư là một công cụ nhằm để thu hút đầu tư. Hoạt động XTĐT có
vai trò quảng bá hình ảnh của một đất nước, một địa phương về môi trường đầu tư
sở tại nhằm thu hút dòng vốn đầu tư vào địa bàn. Dòng vốn đầu tư không thể tự
nhiên mà có vì các quốc gia trên thế giới vẫn tiếp tục tự do hóa, các tập đoàn lớn,
các công ty xuyên quốc gia vẫn đang được thu hút về những nơi có môi trường tốt
và có những điều kiện thuận lợi. Hơn nữa, trong xu thế cạnh tranh để thu hút đầu tư
giữa các địa phương khác nhau ngày một trở nên dữ dội hơn. Như vậy, sự cạnh
tranh gay gắt giữa các địa bàn đã làm cho công tác XTĐT trở thành một hoạt động
tất yếu và ngày càng được gia tăng không chỉ ở những nước, những địa phương phát
triển mà còn ở những nước, những địa phương đang phát triển [5, tr.214-216].
Theo Thư viện Học liệu Mở Việt Nam, công tác XTĐT là một hoạt động đa
dạng và ngày càng trở nên đa dạng. Công tác XTĐT không chỉ đơn giản là việc mở
rộng thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Không có một khái niệm
nhất quán về “Xúc tiến đầu tư”, ở đây ta có thể hiểu XTĐT như sau: “Xúc tiến đầu
tư là một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu
quả của việc thu hút các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân trong
và ngoài nước đến đất nước mình, địa phương mình…để đầu tư. Hay nói cách khác,
hoạt động xúc tiến đầu tư thực chất là hoạt động Marketing trong thu hút đầu tư mà
kết quả của hoạt động này chính là nguồn vốn đầu tư thu hút được.” Thực chất của
vấn đề là làm thế nào để tạo dựng được thương hiệu của một quốc gia, một địa
phương để các nhà đầu tư gắn liền nó với những đặc điểm chất lượng mà họ yêu
cầu.

5



Theo nghĩa hẹp, công tác XTĐT là những biện pháp thu hút đầu tư thông qua
một biện pháp tiếp thị tổng hợp của các chiến lược về “sản phẩm”, “xúc tiến” và “giá”.
Sản phẩm: ở đây sản phẩm chính là địa điểm hay các dự án tiếp nhận đầu tư.
Để phát triển các chiến lược tiếp thị phù hợp cần phải hiểu những thuận lợi và bất
lợi thực sự của một quốc gia hay một địa phương trước các đối thủ cạnh tranh.
Giá cả: là giá mà nhà đầu tư phải trả để định vị hoạt động tại địa điểm đó.
Giá này bao gồm tất cả các loại chi phí từ giá sử dụng cơ sở hạ tầng, các tiện ích
đến các loại thuế, ưu đãi,…Việc xác định giá phải có cơ sở và phải đạt được các
mục tiêu như là khi chào hàng phải tính đến giá trị đầu tư của khách hàng; để tạo sự
cạnh tranh, khi báo giá phải liệt kê rõ các dịch vụ sau bán hàng kèm theo. Giá tiền
khách hàng phải trả tương xứng với mức dịch vụ mà họ nhận được; giá được quyết
định ở mức giữ uy tín cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp để tránh sự can thiệp của
cơ quan liên quan.
Xúc tiến: là những hoạt động phổ biến thông tin về các nỗ lực tạo lập nên
một hình ảnh về quốc gia, một địa phương hay một khu công nghiệp nào đó và cung
cấp thông tin về các dịch vụ đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng như tăng cường
giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm tới nhà đầu tư; tăng cường hoạt động xây dựng
hình ảnh bằng các hoạt động cụ thể; tổ chức mạnh mẽ trong giai đoạn đầu hoạt động
quan hệ công chúng bao gồm tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức họp báo, tiếp
xúc với khách hàng thường xuyên…
Như vậy, pháp luật về xúc tiến đầu tư là tổng thể các quy định pháp luật về
hoạt động xúc tiến đầu tư trên cơ sở pháp luật đầu tư.
1.2. Vai trò của hoạt động xúc tiến đầu tư
Đối với nhà đầu tư nước ngoài: Xúc tiến đầu tư đóng vai trò như cầu nối.
Đầu tư là hoạt động có vốn lớn và vốn này đọng trong suốt quá trình đầu tư, thu hồi
vốn lâu nên chịu tác động của các yếu tố không ổn định: thiên nhiên, xã hội, chính
trị, kinh tế. Giá trị của hoạt động đầu tư rất lớn và thành quả là công trình hoạt động
ngay tại nơi nó tạo dựng nên do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh

6


hưởng lớn. Do những đặc điểm trên nên nhà đầu tư cần xem xét tính toán toàn diện
tất cả khía cạnh thị trường, kinh tế kỹ thuật, kinh tế tài chính, điều kiện tự nhiên,
môi trường xã hội, pháp lý có liên quan. Do đó xúc tiến đầu tư sẽ giúp nhà đầu tư
trả lời những câu hỏi trên để đưa ra quyết định cuối cùng. Xúc tiến đầu tư [7, tr.152
- 155]:

• Là kênh cung cấp thông tin vô cùng quan trọng cho nhà đầu tư về cơ hội đầu tư
có thể nhận được trong tương lai…

• Thông qua hình thức cũng như mức độ của các hoạt động xúc tiến, các nhà đầu
tưc so thể đánh giá đúng hơn về tầm quan trọng, tiềm năng và những ưu đãi của
chính phủ nước chủ nhà dành cho các nhà đầu tư, giúp cho các nhà đầu tư tiết
kiệm được thời gian và chi phí khi, dễ dàng hơn trong việc lựa chọn nơi đầu tư
hợp lý để dem lại hiệu quả cao nhất.

• Trong xúc tiến đầu tư, các nước chủ nhà cần xây dựng những danh mục đầu tư
rõ ràng, giúp đỡ nhà đầu tư tháo gỡ những khó khăn, đáp ứng những yêu cầu
của nhà đầu tư một cách tốt nhất.. Do đó, giúp nhà đầu tư nhanh chóng tiếp cận
và hoàn thành các thủ tục đầu tư với các dự án của nước chủ nhà.
Xúc tiến đầu tư giúp nước chủ nhà tìm hiểu về nhà đầu tư: Mỗi nhà đầu tư lại
có một mô hình và động cơ kinh doanh khác nhau. Hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ
giúp các cơ quan xúc tiến thu thập thông tin từ nhà đầu tư, từ đó tìm hiểu được
những điểm mạnh, điểm yếu của họ.

• Xúc tiến đầu tư giúp nước chủ nhà chủ động lựa chọn tìm kiếm các nhà đầu tư
tiềm năng. Căn cứ vào nhu cầu và thực tế của quốc gia mà lựa chọn ngành, lĩnh
vực mũi nhọn cần thu hút đầu tư, từ đó nước chủ nhà có thể định hướng rõ ràng

đối tượng mà mình muốn xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư đem lại cho nước chủ
nhà nhiều lựa chọn hơn trong việc hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài, trên cơ sở
đó sẽ thuận lợi cho nước chủ nhà tiếp nhận đầu tư với những thỏa thuận hợp lý.
Với ý nghĩa đó, XTĐT đã trở thành nội dung chính của hoạt động thu hút FDI.

7


1.3. Mô hình và cơ cấu tổ chức của công tác xúc tiến đầu tư
Mô hình công tác XTĐT được thể hiện trong hoạt động của 3 cấp: cấp quốc
gia, cấp địa phương và doanh nghiệp [3, tr.46-49].
Ở cấp quốc gia, mô hình hoạt động rộng khắp mang tính bao trùm trên tất
cả các địa phương trên cả nước, các ngành nghề và mang tính chất dàn
trải.
Ở cấp địa phương, mô hình hoạt động trong phạm vi địa phương và cụ
thể hơn.
Ở cấp doanh nghiệp, mọi hoạt động đều mang tính cụ thể nên mô hình
hoạt động mang tính chất tập trung hơn.
Trong công tác xúc tiến đầu tư cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
XTĐT ở ba cấp quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Sự phối hợp thống nhất giữa
các địa phương trong công tác XTĐT là hết sức quan trọng
Cơ cấu tổ chức trong cơ quan XTĐT cấp quốc gia, địa phương bao gồm:
Cơ quan XTĐT

Bộ
phận
XTĐT

Bộ phận
pháp lý


Bộ phận
cung cấp
dịch vụ

Bộ phận
hỗ trợ
sau đầu

Sơ đồ 1.3: Cơ cấu tổ chức của CQ XTĐT
Bộ phận XTĐT: có nhiệm vụ lựa chọn nhà đầu tư, tiến hành quảng bá, quan
hệ với công chúng, quảng cáo, phương tiện thông tin trong và ngoài nước. Tổ
chức các đoàn ra nước ngoài, đoàn vào trong nước.
Bộ phận pháp lý: Tư vấn pháp lý và hỗ trợ xin các giấy phép hoặc phê duyệt.

8


Bộ phận cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư: Cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu
tư và chịu trách nhiệm về những dịch vụ này. Xử lý các trường hợp đầu tư
mới do bộ phận XTĐT tạo ra hoặc bằng các cách khác.
Bộ phận hỗ trợ sau đầu tư: Chăm sóc nhà đầu tư sau khi có Giấy phép hoặc
hỗ trợ trong trường hợp tái đầu tư. Chăm sóc các nhà đầu tư đang hoạt động
để khuyến khích họ tái đầu tư. Bộ phận này cũng hỗ trợ các nhà đầu tư đang
hoạt động khác phục bất kỳ khó khăn, trở ngại nào trong quá trình hoạt động
của họ.
Đối với cơ cấu tổ chức của cơ quan XTĐT cấp doanh nghiệp thì hiện nay
chưa rõ ràng, hầu hết các doanh nghiệp chỉ có Phòng Kinh doanh và Tiếp thị. Trong
đó thì chức năng, nhiệm vụ XTĐT của họ rất mờ nhạt.
1.4. Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT

Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư trong việc thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một điều quan trọng, xong việc thực hiện hoạt
động này cũng cần phải theo một trình tự hợp lý và làm sao để phối hợp giữa các
công cụ XTĐT để đem lại hiệu quả cao nhất. Thông thường hoạt động XTĐT được
tuân theo trình tự sau:
Nếu liên hệ đầu tiên của cơ quan XTĐT với nhà đầu tư là một lá thư thì lá
thư ấy phải thuyết phục được người đọc quan tâm đến việc liên hệ ngay với
CQXTĐT. Lá thư phải chứa đựng những thông tin đủ để thu hút sự quan tâm,
nhưng đừng nhiều quá khiến nó quá dài, khó đọc. Trong thư CQXTĐT phải đưa ra
yêu cầu của CQXTĐT để được thuyết trình thêm về những gì mà nước CQXTĐT
dành cho nhà đầu tư.
Lá thư đã giải thích rõ lý do CQXTĐT gọi điện tới. Khi gọi điện nên thuyết
phục nhà đầu tư cho phép nhóm XTĐT của CQXTĐT tới thăm công ty và thuyết trình
với các cán bộ có liên quan của công ty. Điều thiết yếu là CQXTĐT không nên giới
thiệu quá nhiều qua điện thoại, vì tác động qua lại của CQXTĐT với nhà đầu tư rất hạn
chế và CQXTĐT khó có thể đánh giá mức độ quan tâm của họ. Một lần nữa, cuộc điện
9


thoại chỉ nên cung cấp những thông tin vừa đủ nhằm tạo ra sự quan tâm hơn từ phía
nhà đầu tư và tạo cơ hội gặp gỡ trực tiếp công ty hoặc cá nhân nhà đầu tư.
Khi nhà đầu tư đồng ý nghe thuyết trình, CQXTĐT có thể đưa ra hai kết luận
chung: (1) nhà đầu tư đang dự định đầu tư trực tiếp và (2) họ đã phần nào quan tâm
đến địa bàn của CQXTĐT đang đề cập. Người thuyết trình đồng thời giữ hai vai trò:
cung cấp, thu thập thông tin và đánh giá mức độ quan tâm của nhà đầu tư. Phải nhớ
rằng, không mấy khi nhà đầu tư cam kết một dự án đầu tư mà không cần xem xét
địa điểm đầu tư, do vậy, tham quan thực địa là bước quan trọng tiếp theo. Bài thuyết
trình nên động viên việc tham quan này và giải thích về những gì CQXTĐT có thể
hỗ trợ nhà đầu tư để lập kế hoạch và thực hiện chuyến tham quan như vậy.
Khi nhà đầu tư hoặc một nhóm du khách tới thăm địa bàn CQXTĐT cần thu

hút đầu tư thì đây thực sự là cơ hội marketing quan trọng cho CQXTĐT. Trong
phần lớn các trường hợp, những thông tin thu được trong chuyến đi thăm thực địa
và những yêu cầu cung cấp thông tin sau chuyến tham quan sẽ là cơ hội cuối cùng
của CQXTĐT để gây ảnh hưởng tới quyết định đầu tư.
Điều quan trọng là phải tiếp tục chuyến tham quan, cung cấp tiếp thông
tin như đã hứa và kiểm tra xem nhà đầu tư còn cần gì nữa không. Đây cũng là
giai đoạn bắt đầu các cuộc đàm phán chi tiết với nhà đầu tư nếu họ thực sự quan
tâm tới nước bạn.
Việc quyết định đầu tư là dấu hiệu kết thúc giai đoạn vận động đầu tư – công
ty đã bị thuyết phục xây dựng nhà máy trong nước bạn. Dầu sao, công việc của
CQXTĐT không phải đã hoàn toàn xong ở đây. Vẫn còn những công việc đáng kể
cần phải làm để chắc chắn rằng việc đầu tư được triển khai có kết quả và hiệu quả.
Rất nhiều dự án đầu tư đã bị huỷ ngay cả sau khi quyết định đầu tư, vì nhà đầu tư
gặp phải khó khăn của khu vực đầu tư liên quan đến việc xây dựng công trình, thuê
mướn công nhân, cung cấp điện nước,… Điều quan trọng là CQXTĐT phải luôn
theo sát quá trình này để giúp đỡ khi cần thiết.

10


Một lỗi bất cẩn phổ biến với các CQXTĐT thường gặp là dừng mọi việc
ngay sau khi nhà đầu tư đã quyết định đầu tư. Theo số liệu thống kê từ một số nước,
có tới 60% dòng FDI vào một nước là do mở rộng và tái đầu tư. Do vậy cần phải
giữ liên hệ thường xuyên với các nhà đầu tư để đảm bảo mọi nhu cầu của họ được
giải quyết. Cho dù một công ty không định mở rộng đầu tư thì việc làm đó cũng là
công cụ hữu hiệu nhất để thu hút đầu tư mới. Như đã đề cập ở trên, quy trình dự án
không bao giờ thực sự kết thúc. Việc liên hệ với nhà đầu tư luôn luôn là cần thiết
ngay cả sau khi họ đã quyết định đầu tư.
1.5. Cơ quan thực thi chính sách XTĐT các cấp ở Việt Nam
Mỗi một quốc gia có nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động XTĐT khác

nhau, do vậy cơ cấu của cơ quan thực thi chính sách XTĐT của mỗi nước cũng
khác nhau. Ở Việt Nam, cơ quan thực thi chính sách XTĐT được phân ra các cấp
như sau:
1.5.1. Cục đầu tư nước ngoài
Cục Đầu tư nước ngoài trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan Nhà nước
chuyên trách thực hiện nhiệm vụ XTĐT ở cấp quốc gia, thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện XTĐT, thiết lập các
mối quan hệ đối tác, chủ trì chuẩn bị và tổ chức các cuộc tiếp xúc với các nhà đầu tư
nước ngoài;
- Làm mối hỗ trợ các nhà đầu tư tìm kiếm cơ hội đầu tư và hình thành dự án
đầu tư, vận động XTĐT theo các chương trình, dự án trọng điểm;
- Tham gia các chương trình hợp tác liên Chính phủ, các nhóm công tác với
các nước, các tổ chức liên quan đến đàm phán, xử lý các vấn đề về đầu tư trực tiếp
nước ngoài;
- Hướng dẫn và theo dõi hoạt động liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
của cán bộ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cử làm việc tại các cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nước ngoài hoặc tại các cơ quan của các nước, các tổ chức quốc tế.
11


1.5.2. Trung tâm Xúc tiến đầu tư ba miền và Trung tâm Xúc tiến đầu tư cấp địa
phương
Cục Đầu tư nước ngoài phân cấp cho Trung tâm Xúc tiến đầu tư ở ba miền
và các Trung tâm Xúc tiến đầu tư cấp địa phương chủ động tiến hành các chương
trình xúc tiến thu hút đầu tư.
Cục Đầu tư nước ngoài được thành lập có chức năng quản lý Nhà nước về
hoạt động đầu tư nước ngoài, quản lý toàn bộ quá trình cấp phép đầu tư, đồng thời
là đầu mối XTĐT cả nước. Tuy nhiên, trước tình hình mới, có nhiều thay đổi trong
cơ chế hoạt động của bộ máy từ trung ương tới địa phương theo đáp ứng đòi hỏi
nhanh nhạy trong nắm bắt cơ hội đầu tư. Theo đó, Cục Đầu tư nước ngoài không

trực tiếp quản lý toàn bộ quá trình cấp phép đầu tư và XTĐT mà phân cấp cho các
Trung tâm Xúc tiến đầu tư trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư ở ba miền Bắc –
Trung – Nam và Sở Kế hoạch đầu tư các tỉnh, thành phố. Nhờ đó mà công tác quản
lý cũng như XTĐT đạt hiệu quả cao hơn. Các thủ tục tinh gọn, tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư tiết kiệm chi phí và quan trọng hơn là nắm bắt kịp thời cơ hội đầu tư.
Dịch vụ hỗ trợ sau cấp phép thông qua các cơ quan địa phương cũng được tiến hành
kịp thời và sâu sát hơn, đặc biệt là việc giải quyết những vướng mắc trong quá trình
triển khai dự án tại địa bàn đầu tư. Công tác XTĐT được thực hiện bởi các Trung
tâm XTĐT của từng vùng và từng địa phương dựa trên những đặc điểm riêng biệt
về môi trường, các lĩnh vực ưu đãi cũng như các doanh nghiệp hoạt động của vùng
và địa phương mình trở nên sát với thực tiễn hơn, bám sát quy hoạch đầu tư của địa
phương.
1.5.3. Các cơ quan thực thi chính sách XTĐT khác
Giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động XTĐT là các cơ quan Cục Đầu tư nước
ngoài, các Trung tâm Xúc tiến đầu tư ba miền Bắc – Trung – Nam và các Trung tâm
Xúc tiến đầu tư cấp địa phương. Tuy nhiên, hoạt động XTĐT của các cơ quan này
có thể hợp với các ban ngành khác và sự hợp tác này là rất cần thiết như: Sự phối
hợp giữa Cục Đầu tư nước ngoài, UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Xúc

12


tiến đầu tư các địa phương và Ban quản lý các KCN với Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam; cơ quan đại diện ngoại giao, kinh tế của Việt Nam; Các tổ
chức xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước; Các Bộ ngành khác như Tổng Cục du
lịch, Hiệp hội các ngành tiểu thủ công nghiệp; Hiệp hội doanh nghiệp; Các nhà đầu
tư hài lòng với tình hình hiện tại; Các đại sứ, đại diện danh dự về đầu tư và các đối
tác khác.
1.6. Hoạt động xúc tiến đầu tư thu hút FDI
1.6.1. Khái niệm, bản chất FDI và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài

Khái niệm FDI: Theo từ điển mở Wilkipedia định nghĩa Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) là hình thức đầu
tư quốc tế của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách nhà đầu tư
nước ngoài góp một lượng vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở
hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận
hoặc các lợi ích kinh tế khác.
FDI ngày nay đã trở thành hình thức đầu tư phổ biến và đã được định nghĩa
bởi các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia. Tổ chức
Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một
tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong
phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là
các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi
là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam, FDI được hiểu như sau: Đầu tư trực
tiếp nước ngoài có thể được hiểu là hình thức đầu tư được thực hiện bởi một hoặc
nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp góp vốn bằng tiền, công nghệ kỹ thuật,
đất đai hoặc các loại tài sản khác có giá trị khác để tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới nhất.
13


Như vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động bỏ vốn
đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện họ phải tham
gia quản lý hoạt động đầu tư đó.
Bản chất của FDI:
Sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định hoàn toàn bởi quy
luật kinh tế khách quan với những điều kiện cần và đủ chín muồi nhất định [28],
[31]. Sự thay đổi thái độ từ ban đầu là “chống lại” qua “chấp nhận” đến “hoan

nghênh”, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể xem là yếu tố tác động làm tạo ra những
bước thay đổi nhận thức theo hướng ngày càng đúng hơn và chủ động hơn của con
người đối với quy luật kinh tế khách quan về sự phát triển sức sản xuất xã hội và
phân công lao động xã hội đang mở ra một cách thực tế trên quy mô quốc tế. Xu
hướng này có ý nghĩa quyết định trong việc chi phối các biểu hiện khác nhau của
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quan hệ kinh tế quốc tế đã hình thành nên các dòng lưu chuyển vốn chủ yếu:
Dòng vốn từ các nước đang phát triển đổ vào các nước đang phát triển; dòng vốn
lưu chuyển trong nội bộ các nước phát triển. Sự lưu chuyển của các dòng vốn diễn
ra dưới nhiều hình thức như: Tài trợ phát triển chính thức (gồm viện trợ phát triển
chính thức ODA và các hình thức khác), nguồn vay tư nhân (tín dụng từ các ngân
hàng thương mại) và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi nguồn vốn có đặc điểm riêng
của nó.
Nguồn tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn do các tổ chức quốc tế, chính
phủ (hoặc cơ quan đại diện chính phủ) cung cấp. Loại vốn này có ưu điểm là có sự
ưu đãi nhất định về lãi suất, khối lượng cho vay lớn và thời hạn vay tương đối dài.
Để giúp các nước đang phát triển, trong loại vốn này đã giành một lượng vốn chủ
yếu cho vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, đây là nguồn vốn có nhiều ưu đãi,
trong ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 25% tổng số vốn.
Tuy vậy không phải khoản ODA nào cũng dễ dàng, nhất là loại vốn do các chính
phủ cung cấp, nó thường gắn với những ràng buộc nào đó về chính trị, kinh tế, xã

14


hội, thậm chí cả về quân sự. Nguồn vay tư nhân: Đây là nguồn vốn không có những
ràng buộc như vốn ODA, tuy nhiên đây là loại vốn có thủ tục vay rất khắt khe, mức
lãi suất cao, thời hạn trả nợ rất nghiêm ngặt[25].
Nhìn chung sử dụng hai loại vốn trên đều để lại cho nền kinh tế các nước đi
vay gánh nặng nợ nần – một trong những yếu tố chứa đựng tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến

khủng hoảng, nhất là khủng hoảng về tiền tệ.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại
vốn có nhiều ưu điểm hơn so với các loại vốn kể trên. Nhất là đối với các nước
đang phát triển, khi khả năng tổ chức sản xuất đạt hiệu quả còn thấp thì hiệu quả
càng rõ rệt.
Về bản chất, FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một
bên khác là nước nhận đầu tư [4, tr.168].
Đối với nhà đầu tư:
Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới trình độ mà “mảnh đất” sản xuất
kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp đến mức cản trở khả năng hiệu
quả của đầu tư, nơi mà ở đó nếu đầu tư vào thì họ sẽ không thu được lợi nhuận như
mong muốn. Trong khi ở một số quốc gia khác lại xuất hiện nhiều lợi thế mà họ có
thể khai thác để thu lợi nhuận cao hơn nơi mà họ đang đầu tư. Có thể nói đây chính
là yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn của mình đầu tư vào nước
khác. Hay nói cách khác, việc tìm kiếm, theo đuổi lợi nhuận cao hơn và bảo toàn
độc quyền hay lợi thế cạnh tranh là bản chất, là động cơ, là mục tiêu cơ bản xuyên
suốt của các nhà đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài là phương thức giải quyết có hiệu
quả. Đây là loại hình mà bản thân nó rất có khả năng để thực hiện việc kéo dài “chu
kỳ tuổi thọ sản phẩm”, “chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” mà vẫn giữ được độc quyền kỹ
thuật, dễ dàng xâm nhập thị trường nước ngoài mà không bị cản trở bởi các rào
chắn.

15


Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như giá nhân công rẻ của
nước nhận đầu tư. Phải nói rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài là “lối thoát lý tưởng”
trước sức ép xảy ra “sự bùng nổ phá sản” do những mâu thuẫn tất yếu của quá trình
phát triển. Ta nói nó là lý tưởng vì chính lối thoát này đã tạo cho các nhà đầu tư tiếp

tục thu lợi và phát triển, có khi còn phát triển với tốc độ cao hơn. Thậm chí khi
nước nhận đầu tư có sự thay đổi chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách
hướng sang xuất khẩu thì nhà đầu tư vẫn có thể tiếp tục đầu tư dưới dạng mở các
chi nhánh sản xuất các bộ phận, phụ kiện …để xuất khẩu trở lại để phục vụ cho
công ty mẹ, cũng như các thị trường mới. Đối với các nước đang phát triển, dưới
con mắt của các nhà đầu tư, trong những năm gần đây các nước này đã có những sự
cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế, trình độ và khả năng phát triển
của người lao động, hệ thống luật pháp, dung lượng thị trường, một số nguồn tài
nguyên … cũng như sự ổn định về chính trị… Những cải thiện này đã tạo sự hấp
dẫn nhất định đối với các nhà đầu tư. Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền
tệ, thế giới đánh giá Châu Á, và nhất là Đông Á và Đông Nam Á đang là khu vực
xuất hiện nhiều nền kinh tế năng động, nhiều tiềm năng phát triển và có sức hút
đáng kể đối với các nhà đầu tư.
Tóm lại:Thực chất cơ bản bên trong của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài bao gồm: Duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư
(vấn đề vốn, kỹ thuật, sản phẩm … Khai thác các nguồn lực và xâm nhập thị trường
của các nước nhận đầu tư ; tranh thủ lợi dụng chính sách khuyến khích của các nước
nhận đầu tư; thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ kinh tế
(hoặc phi kinh tế) mà các hoạt động khác không thực hiện được).
Đối với các nước nhận đầu tư :
+ Đây là những nước đang có một số lợi thế mà nó chưa có hoặc không có
điều kiện để khai thác. Các nước nhận đầu tư thuộc loại này thường là các nước có
nguồn tài nguyên tuơng đối phong phú, có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công

16


×