Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN ĐỊNH HƯỚNG CHỌN NGHỀ CHO học SINH lớp 11 THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG THỰC tế gắn với “bài 34 ĐỘNG cơ đốt TRONG DÙNG CHO XE máy”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.43 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT CÁCH THIẾT KẾ BÀI DẠY HAI VĂN BẢN KÍ “NGƯỜI
LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” VÀ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG”
THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuấn Anh
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

1


THANH HÓA NĂM 2018

MỘT CÁCH THIẾT KẾ BÀI DẠY HAI VĂN BẢN KÍ “NGƯỜI LÁI ĐÒ
SÔNG ĐÀ” VÀ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” THEO CHỦ ĐỀ
TÍCH HỢP
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Dạy học theo chủ đề tích hợp và vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các
tình huống thực tiễn là phương pháp dạy học hiện đại, đóng vai trò quan trọng
trong việc cải cách chương trình sách giáo khoa ở nước ta. Đây cũng là vấn đề
được các cấp quản lí giáo dục quan tâm chỉ đạo trong thời gian qua nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học ở các bậc học.
Với sự kết hợp các nội dung kiến thức từ các môn học, các lĩnh vực học tập khác
nhau vào nội dung một bài học, cùng sự phối hợp các tri thức có quan hệ mật
thiết gần gũi với nhau trong thực tiễn để tạo nên một khối kiến thức tổng hợp,


các tiết dạy theo chủ đề tích hợp, vận dụng kiến thức liên môn bước đầu đã
mang lại cho học sinh sự hứng thú trong học tập, phát huy được tính tích cực,
sáng tạo.
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều giáo viên, mức độ áp dụng trong dạy học chủ
yếu mới dừng lại ở việc lồng ghép, đưa thêm nội dung cần học tương tự với môn
học chính như: lồng ghép giáo dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục tệ nạn
xã hội, giáo dục pháp luật vào các bộ môn giáo dục công dân, ngữ văn, địa lý…
chứ chưa vận dụng được nhiều kiến thức của các phân môn và lĩnh vực khác
nhau. Nhiều giáo viên còn mơ hồ, lúng túng trong việc thiết kế bài dạy các chủ
đề tích hợp.
Từ thực tế nêu trên, với nhận thức và khả năng của bản thân, tôi mạnh dạn đề
xuất: “Một cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí Người lái đò sông Đà và Ai
đã đặt tên cho dòng sông? theo chủ đề tích hợp”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
- Cụ thể hóa các vấn đề lý luận về dạy học theo chủ đề tích hợp thông qua một
thiết kế bài dạy.
- Giúp cho học sinh và đồng nghiệp thấy được tầm quan trọng của dạy học môn
Ngữ văn theo chủ đề tích hợp hướng đến việc phát triển năng lực người học.
- Chuẩn bị tốt nhất về kiến thức lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới chương
trình giáo dục trong những năm tới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Lý luận về dạy học theo chủ đề tích hợp phát triển năng lực người học
- Chuẩn kiến thức kĩ năng bài dạy hai văn bản Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt
tên cho dòng sông.
2


- Sự thay đổi trong nhận thức và kĩ năng của học sinh sau khi được học chủ đề
tích hợp về hai văn bản kí.
1.4 Phương pháp nghiên cứu

- Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, biên soạn chuyên đề dạy học
- Dạy học thực nghiệm, so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng chuyên đề.
- Rút ra kinh nghiệm, bổ sung vào chuyên đề
2. Nội dung
2.1 Cơ sở lý luận
- Thế nào là dạy học theo chủ đề?
“Dạy học theo chủ đề (themes based leraning) là hình thức tìm tòi những khái
niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa,
tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được
đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con
đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ
với nhau) làm thành nội dung học trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn,
nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng
vào thực tiễn.”(1)
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện
đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức
mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức
vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp
học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động
lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội dung
học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung
vào học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền
với thực tiễn.
Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để giải quyết
những vấn đề xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau.
Các em thu thập thông tin từ nhiều nguồn kiến thức.
Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện
được nhiêu kĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng được tạo điều
kiện minh họa kiến thức mình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao

nhiêu và giao tiếp tốt như thế nào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên
chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì quản lý trực tiếp học sinh làm việc.
Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức,
làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội
dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học có
ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Một cách hoa mỹ; đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc
sống vào những kiến thức cổ điển, nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong
các bài học.

3


Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ
không phải là phương pháp dạy học nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy
(1) Dạy học theo chủ đề với chủ trương đổi mới giáo dục hiện nay (nguồn Haiduong.edu.vn)

học theo chủ đề, chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến việc lựa
chọn phương pháp nào là phù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù
hợp với nó.
Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá
trình tích hợp nội dung (đơn môn hoặc liên môn) trong quá trình dạy.
- Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện
nay.
Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng trở nên khập
khiễng bởi mỗi một mô hình hay phương pháp đều có những ưu thế hoặc những
hạn chế riêng có.
Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm thế nào để nội
dung kiến thức trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống? Làm thế nào để
việc học tập phải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt là
các vấn đề đa dạng của thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức theo từng bài

thì học sinh mới hiểu và vận dụng được kiến thức? Làm thế nào để nội dung
chương trình dạy luôn được cập nhật trước sự bùng nổ vũ bão của thông tin để
các kiến thức của việc học và dạy học thực sự là thế giới mới cho những người
học?
Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục, mô
hình dạy học trong thời đại mới. Đồng thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những lợi
thế nhất định của từng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy.
- Hiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến
một giải pháp làm thế nào để đáp ứng và giải quyết được ba vần đề này, chình
là:
Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng
đổi mới phương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích
cực của học sinh.
Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình
bùng nổ thông tin, tri thức kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối
với sự học của người học.
Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng
để thực hiện các mục tiêu dạy học tích cực như; tăng cương tích hợp các vấn đề
cuộc sống, thời sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học sinh
sau quá trình học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống
phong phú vốn rất cần cho người học hiện nay?
Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung học
như đã có, thì đổi mới dạy học hiện nay còn có tham vọng tiến xa hơn đó là định
hướng hình thành NĂNG LỰC cho học sinh.
4


Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên
so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết
được ba vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới

chương trình và sách giáo khoa trong thời gian tới.
2.2 Thực trạng của vấn đề
Trước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp cận
hoàn toàn mới mẻ. Do đó, việc đưa ra những định hướng trong quá trình xây
dựng chủ đề, bao gồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng chủ
đề chỉ là những gợi mở, tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh
nghiệm giảng dạy của giáo viên trực tiếp tham gia thực hiện mô hình này để
chuyên đề có tính khả dụng.
Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay vào
xây dựng chủ đề cần nắm vững những điểm sau:
Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực nào đó
cho học sinh trong thực tiễn. Các năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại cơ sở
có thể thay đổi tùy vào trình độ của học sinh.
Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên quan
đến ít nhất kiến thức của hai đơn vị nội dung học hoặc bài trong một bộ môn
hoặc hai bộ môn trở lên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể sử
dụng chính các phương pháp tích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề
(phương pháp dự án, thảo luận…). Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ
thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lực khi khai thác chủ đề.
Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải trả
lời cho câu hỏi: Sau chủ đề học, học sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì?
Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây
dựng chủ đề dạy học có thể là:
Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên (đưa kiến thức từ đời sống đến bài dạy);
Chủ đề liên môn: dành cho học sinh (đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải
quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống).
Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một
chủ đề.
Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi, một
chủ đề dạy học vẫn có thể bao gồm cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại

(cách phân loại này chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp độ
đơn giản hay phức tạp của nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ,
năng lực cụ thể của học sinh).
Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn trong
chương trình. Quỹ thời gian lấy ở các bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy tích
hợp. Có thể dạy trong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức có
thể tại lớp, sân trường… khuyến khích không gian trải nghiệm (các hoạt động
thực hành, trải nghiệm, xưởng sản xuất, đi thực tế, tham quan…) .

5


Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế
thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn
khác.
Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các
chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song
với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
2.3 Giải pháp
Đề xuất một thiết kế bài dạy cụ thể theo chủ đề tích hợp:

THỂ KÍ VÀ VIỆC VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG
GIẢNG DẠY 2 ĐOẠN TRÍCH VĂN BẢN:
- NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)
- AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức:
- Cảm nhận được vẻ đẹp đa dạng của 2 dòng sông: sông Đà và sông Hương.
- Thấy được vẻ đẹp của con người lao động trên dòng sông Đà
- Vẻ đẹp văn hóa xứ Huế gắn liền với dòng sông Hương

- Cái tôi tài hoa, uyên bác, trữ tình, say đắm của 2 nhà văn
- Vẻ đẹp nghệ thuật của hai thiên tùy bút.
2. Kĩ năng:
- Đọc hiểu văn bản kí theo đặc trưng thể loại. Biết vận dụng kiến thức tổng hợp
từ nhiều bộ môn, lĩnh vực trong việc tiếp nhận văn bản kí.
- Năng lực quan sát, liên tưởng, miêu tả các hiện tượng tự nhiên, đời sống thực
hiện các yêu cầu thiết thực trong cuộc sống: thuyết minh, giới thiệu về các thắng
cảnh, văn hóa, phong tục…
3. Thái độ:
- Hiểu biết, yêu mến cảnh đẹp quê hương đất nước.
- Trân trọng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ.
4. Các năng lực hướng tới:
- Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng
tạo, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ…
- Năng lực chuyên biệt: Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên:
- Đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, thiết kế bài dạy
- Tìm kiếm thông tin liên quan đến bài học từ một số môn học, lĩnh vực khác:
+ Bản đồ sông Đà, sông Hương ở môn Địa lí
+ Các trích đoạn video lấy từ các bộ phim kí sự về sông Đà và sông Hương đã
6


phát trên đài truyền hình
+ Tranh ảnh, máy chiếu.
2. Học sinh:
- Đọc văn bản, tài liệu và soạn bài; chuẩn bị bảng phụ, giấy A0, bút dạ
- Tìm kiếm thông tin về bài học từ các môn học, lĩnh vực khác: bản đồ, tranh
ảnh, video.

III. PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC
1. Phương pháp:
- Nêu vấn đề, thảo luận nhóm, thuyết trình.
(Chia lớp thành 4 nhóm học tập, kê bàn theo nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí)
2. Kĩ thuật dạy học:
- Trình bày 1 phút, bản đồ tư duy…
IV. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
TIẾT 1
Hoạt động 1: Hoạt động trải nghiệm:
1. Mục tiêu:
- Huy động vốn kiến thức, kĩ năng đã học để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức kĩ
năng mới.
- Tạo hứng thú bước vào bài học mới.
2. Cách thức: Trò chơi giải ô chữ.
N

H

O

G

U

Y



N


T

U

T

Ù

Y

B

Ú

T

S

Ô

N

G

Đ

À

T


H



A

T

H

I

S

Ô

N

G

H

Ư

Ơ

N

G


À

N

G

P

H



N

G



Â

N

Ê

N

H

U




C

T

Ư



N

G

Câu 1: Nhà văn nào được mệnh danh là “Người nghệ sĩ suốt đời đi tìm và tôn
thờ cái đẹp”?
TL: Nguyễn Tuân
Câu 2: Ngoài truyện ngắn Nguyễn Tuân còn có sở trường ở thể loại văn học
nào?
TL: Tùy bút
Câu 3: Nhà máy thủy điện Hòa Bình được xây dựng trên dòng sông nào?
TL: Sông Đà
Câu 4: Châu Hóa là tên gọi cũ của tỉnh thành nào hiện nay?
TL: Thừa Thiên Huế
7


Câu 5: Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Hai câu thơ trên viết về dòng sông nào?

TL: Sông Hương.
Câu 6: Nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét về ai “là một trong mấy nhà văn viết kí
hay nhất của văn học ta hiện nay”?
TL: Hoàng Phủ Ngọc Tường.
 Từ các ô chữ GV dẫn vào bài mới.
Hoạt động 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới
Mục đích: giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức mới qua hệ thồng câu hỏi, bài
tập/nhiệm vụ.
Phương pháp, kĩ thuật: Nêu vấn đề, đặt câu hỏi, thảo luận nhóm, vẽ sơ đồ tư
duy, thuyết trình.
I. Tiểu dẫn:
(Phương pháp, cách thức: Giáo viên đặt câu hỏi, HS làm việc độc lập dựa trên sự
chuẩn bị bài ở nhà)
1. Về tác giả:
Câu hỏi: Nguyễn Tuân là nhà văn đã được học ở chương trình Ngữ văn 11,
Hoàng phủ Ngọc Tường là nhà văn mới. Hãy dựa vào kiến thức đã học và kiến
thức tự tìm hiểu, giới thiệu những nét cơ bản về 2 nhà văn trong sự đối sánh.
Nội dung cần đạt được:
a. Nguyễn Tuân:
- Nhà văn đã thành công từ trước cách mạng và tiếp tục khẳng định tài năng sau
cách mạng.
- Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa, uyên bác, thích “xê dịch”, yêu cái đẹp.
- Sở trường: truyện ngắn và tùy bút.
b. Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và sau 1975.
- Phong cách nghệ thuật: tài hoa, uyên bác, kết hợp giữa chất trí tuệ và trữ tình,
nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, đặc biệt lối hành văn mê đắm và tài hoa.
- Sở trường: bút kí
- Gắn bó và yêu Huế bằng tình yêu sâu nặng.
=> hai nhà văn không cùng thời nhưng có những nét tương đồng trong tài năng

và sở trường.
2. Về tác phẩm và thể loại:
a. Xuất xứ tác phẩm:
Cau hỏi: Em hãy giới thiệu về xuất xứ hai bài kí?
8


Nội dung cần đạt:
- Người lái đò sông Đà in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), là thành quả nghệ
thuật của Nguyễn Tuân sau nhiều chuyến đi đến Tây Bắc trong những năm
1958- 1960. Ấn tượng về thiên nhiên và con người Tây Bắc là nguồn cảm hứng
chủ yếu để Nguyễn Tuân viết tập tùy bút. (1)
- Ai đã đặt tên cho dòng sông in trong tập bút kí cùng tên (1986). Bài kí được
sáng tác vào mùa xuân năm 1981 tại Huế.
Câu hỏi: Qua tìm hiểu, tham khảo tài liệu em hãy giới thiệu về thể loại tùy bút
và bút kí?
Nội dung cần đạt:
- Tùy bút và bút kí là 2 trong số nhiều tiểu loại của thể kí văn học
- Hai thể loại này ít nhiều có sự khác biệt (trong định nghĩa) nhưng có nhiều
điểm chung:
+ Ghi chép về người thật việc thật (đòi hỏi sự trung thực và chính xác, người
viết phải am hiểu tường tận về đối tượng phản ánh).
+ Sử dụng tài quan sát, óc liên tưởng và khả năng sử dụng ngôn ngữ để miêu tả
đối tượng một cách sống động và lôi cuốn nhất.
+ Qua đối tượng phản ánh nhà văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ,
chiêm nghiệm của mình -> Cái tôi tác giả
+ Cách viết tương đối tự do phóng túng (nghiêng về tùy bút).
- Trên thực tế sáng tác, ranh giới giữa hai thể loại không rõ ràng, có khi ảnh
hưởng qua lại:
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân: giàu tri thức, thông tin khoa học -> đậm chất kí

+ Bút kí của Hoàng phủ Ngọc Tường: lối viết phóng khoáng, tài hoa -> chất tùy
bút.
=> hai văn bản khác nhau trong cách gọi tên nhưng thực tế gần gũi nhau về đặc
điểm thể loại, vì vậy có những nét tương đồng trong cách tìm hiểu, khai thác văn
bản.
II. Đọc hiểu văn bản
Hoạt động đọc:
- Hai văn bản dài, Gv hướng dẫn học sinh tự đọc văn bản ở nhà và tìm hiểu các
nội dung thông tin từ văn bản.
- Tuy nhiên cũng dành thời gian hướng dẫn HS diễn cảm trên lớp để cảm nhận
về hành văn cũng như cảm xúc của tác giả.
- Lựa chon 2 đoạn tiêu biểu từ 2 văn bản và gọi 2 học sinh đọc trước lớp
+ Đoạn 1: Người lái đò sông Đà: từ đầu đoạn trích đến ... “cái gậy đánh phèn”
+ Đoạn 2: Ai đã đặt tên cho dòng sông: từ đầu đến.... “bát ngát tiếng gà”.
- Nhận xét và sửa cách đọc cho HS (nếu cần thiết)
- Chiếu 2 đoạn video lấy từ 2 bộ phim tài liệu về sông Đà và sông Hương.
9


+ Yêu cầu HS nhận xét về hình ảnh thực của hai dòng sông với hình ảnh hiện
lên qua trang viết của hai nhà văn.
+ Định hướng: Hình ảnh hai dòng sông trên trang viết sống động, có hồn và ấn
tượng hơn hình ảnh thực
1. Tìm hiểu chung:
a. Về bố cục:
Câu hỏi: Đọc kĩ và tìm hiểu bố cục từng văn bản? Xác định nội dung từng phần
đã phân chia.
Nội dung cần đạt:
- Người lái đò sông Đà: chia 2 phần:
+ Phần 1: từ đầu đến... “dòng nước sông Đà”: Sông Đà hùng vĩ, dữ dội và cuộc

vượt thác của ông lái đò.
+ Phần 2: còn lại: Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông: chia 2 phần
+ Phần 1: từ đầu đến... “quê hương xứ sở”: thủy trình sông Hương từ thượng
nguồn ra bể.
+ Phần 2: còn lại: Sông Hương với lịch sử và thi ca.
b. Hình tượng nghệ thuật:
Câu hỏi: Xác định những hình tượng nghệ thuật dược khắc họa trong 2 đoạn
trích văn bản?
Nội dung cần đạt:
- VB1: Dòng sông Đà và Người lái đò
- VB 2: Sông Hương.
- Cả 2 VB: cái tôi nhà văn.
c. Cảm xúc chủ đạo:
Câu hỏi: 2 bài kí được các nhà văn viết bằng cảm xúc nào là chủ yếu?
Cần đạt: Niềm say mê kiếm tìm cái đẹp và lòng yêu mến, tự hào, trân trọng
trước cái đẹp.
TIẾT 2
2. Tìm hiểu chi tiết:
2.1. Vẻ đẹp thiên nhiên qua hình tượng những dòng sông:
a. Hình tượng sông Đà:
a.1. Sông Đà hùng vĩ, dữ dội:
Câu hỏi: Để khắc họa hình ảnh sông Đà hùng vĩ, dữ dội Nguyễn Tuân tập trung
miêu tả những cảnh tượng nào? Các thủ pháp nghệ thuật nào được sử dụng chủ
yếu trong quá trình miêu tả?
Cách thức tổ chức dạy học: HS làm việc theo nhóm với các nhiệm vụ được giao
10


cụ thể:

- Nhóm 1: Tìm hiểu về cảnh đá bờ sông Đà
- Nhóm 2: Tìm hiểu về cảnh mặt ghềnh Hát Loóng
- Nhóm 3: Tìm hiểu về cảnh những cái hút nước
- Nhóm 4: tìm hiểu về cảnh thác đá sông Đà.
(Thời gian thảo luận và ghi bảng phụ là 3 phút, nhóm trưởng trình bày trước
lớp 1 phút)
Giáo viên nhận xét về phần thảo luận và trình bày của từng nhóm, bổ sung nếu
thấy cần thiết.
Đánh giá, tiểu kết về sông Đà hùng vĩ, dữ dội:
Câu hỏi: Từ 4 cảnh tượng vừa tìm hiểu em có nhận xét gì về hình ảnh sông Đà,
về tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân?
Nội dung cần đạt:
- Sông Đà, dòng chảy vô tri đã được làm sống dậy trở thành một thủy quái
khổng lồ dữ dội, hung bạo có tâm trạng, tính cách, mưu mô...
- Quan sát tỉ mỉ, liên tưởng phong phú, am hiểu về nhiều lĩnh vực, ngôn ngữ
giàu có, thủ pháp so sánh và nhân hóa dày đặc đã mang đến cho trang viết
Nguyễn Tuân những ấn tượng đậm nét.
a.2. Sông Đà thơ mộng và trữ tình:
Ở nhiều góc độ không gian và thời gian khác nhau nhà văn phát hiện ra vẻ thơ
mộng trữ tình của dòng sông trên hành trình về xuôi.
Câu hỏi: Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà ở những điểm nhìn không gian nào?
Làm rõ vẻ đẹp của dòng sông ở từng điểm nhìn ấy?
(Học sinh có thể thảo luận trong nhóm nhưng trình bày độc lập)
Nội dung cần đạt:
- Điểm nhìn không gian:
+ Từ trên cao nhìn xuống: Sông Đà- mái tóc trữ tình mềm mại và gợi cảm
+ Điểm nhìn của khách hải hồ trôi thuyền trên sông Đà nhìn về 2 bờ: cảnh lặng
tờ, hoang dại, nguyên sơ và nên thơ.
- Điểm nhìn thời gian:
+ Mỗi mùa sông Đà khoác lên mình sắc nước riêng: mùa xuân dòng xanh ngọc

bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ.
+ Đi rừng lâu ngày được gặp lại sông Đà: dòng sông như một cố nhân, đẹp tinh
khôi trong màu nắng tháng ba đậm chất Đường thi.
Câu hỏi tiểu kết: Qua những hình ảnh vừa phân tích em có nhận xét gì về vẻ
đẹp của sông Đà ở nửa cuối đoạn trích. Giọng điệu, lối hành văn của Nguyễn
Tuân có gì thay đổi so với phần đầu?
Nội dung cần đạt:
11


- Sông Đà thay đổi: từ bẳn gắt thác lũ trở nên dịu dàng, gợi cảm, quyến rũ làm
say lòng người.
- Giọng văn cũng thay đổi: trữ tình, mượt mà, giàu hình ảnh và giàu chất thơ
hơn. Tuy nhiên vẫn là một Nguyễn Tuân uyên bác về kiến thức, giàu có về chữ
nghĩa, ưa dùng so sánh và nhân hóa, biến dòng sông trở thành một sinh thể.
Câu hỏi: Vẻ đẹp sông Đà mang ý nghĩa gì? Nhà văn muốn gửi gắm điều gì qua
hình ảnh dòng sông?
Nội dung cần đạt:
- Vẻ đẹp sông Đà là hiện thân vẻ đẹp thiên nhiên rừng núi Tây Bắc (liên hệ với
thiên nhiên trong Tây Tiến – Quang Dũng)
- Đến với sông Đà là hành trình nhà văn kiếm tìm “chất vàng” của thiên nhiên
đất nước cho trang viết của mình- một cách nhà văn thể hiện sự gắn bó và tình
yêu quê hương đất nước.
b. Hình tượng sông Hương:
GV tạo hứng thú cho HS qua việc trình chiếu một số hình ảnh đẹp về sông
Hương kết hợp với trích đoạn ca khúc Dòng sông ai đã đặt tên của nhạc sĩ
Nguyễn Nhược Pháp
b.1. Vẻ đẹp tự nhiên trong thủy trình của sông Hương:
Câu hỏi: Thủy trình sông hương từ thượng nguồn ra bể được miêu tả qua
những chặng nào? Phân tích làm rõ vẻ đẹp của sông Hương ở từng chặng?

Cách thức tổ chức dạy học:
Trước khi HS làm việc GV giới thiệu bản đồ sông Hương (chú ý dòng chảy,
hướng chảy, những khúc quanh của sông Hương theo quan sát và miêu của
Hoàng Phủ Ngọc Tường) giúp HS có cái nhìn tổng thể về thủy trình sông
Hương.
HS làm việc theo nhóm, thảo luận và vẽ sơ đồ tư duy về vẻ đẹp tự nhiên của
sông Hương qua 4 chặng:
- Sông Hương ở thượng nguồn
- Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
- Sông Hương trong lòng thành phố
- Sông Hương rời xa thành phố.
Thời gian thảo luận và vẽ sơ đồ tư duy vào giấy A0 3 phút, nhóm nào hoàn
thành trước cử đại diện lên thuyết trình tước lớp 1-2 phút.
Tiểu kết về vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương:
Câu hỏi: Em hãy nhận xét về vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương trong thủy trình
từ thương nguồn ra bể. Có gì độc đáo trong cách miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc
Tường?
Nội dung cần đạt:
- Sông Hương không còn là dòng chảy vô hồn trên bản đồ mà hiện lên trong vóc
12


dáng, tâm hồn, tính cách của người gái đẹp luôn biết cách thay đổi, làm mới
mình trong hành trình tìm về với người tình mong đợi.
- Sự am hiểu, trí tưởng tượng phóng khoáng, lối hành văn mê đắm và tài hoa
cùng với tình yêu sâu nặng với xứ Huế đã giúp nhà văn làm sống dậy một dòng
sông.
b.2. Sông Hương với lịch sử:
Câu hỏi: Ở điểm nhìn lịch sử sông Hương hiện lên như thế nào?
- Thời các vua Hùng đến các thế kỉ trung đại: nó là dòng sông biên thùy xa xôi,

bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc.
- Thế kỉ XVIII: vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân
- Thế kỉ XIX: nhuốm máu của những cuộc khởi nghĩa bi tráng
- Thời hiện đại: ghi dấu những chiến công rung chuyển cũng như những tổn thất,
mất mát.
-> Cái nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử, sông Hương gắn liền với lịch sử dân
tộc, chứng nhân cho những thăng trầm của lịch sử, là “dòng sông của thời gian
ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
b.3. Sông Hương với văn hóa nghệ thuật xứ Huế:
Câu hỏi: Với văn hóa nghệ thuật xứ Huế sông Hương mang những vẻ đẹp nào?
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
- Nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương-> sông
Hương như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
- Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca và âm nhạc, nó không lặp
lại mình trong cảm hứng của người nghệ sĩ.
-> Sông Hương sinh thành và bồi đắp nên những lớp trầm tích của văn hóa cổ
điển Huế.
c. Đánh giá về vẻ đẹp 2 dòng sông:
*Tương đồng:
Câu hỏi: Hãy rút ra những nét tương đồng trong vẻ đẹp 2 dòng sông?
Nội dung cần đạt:
- Cái nhìn đa chiều giúp hai nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp đa dạng, biến hóa đầy
thú vị của 2 dòng sông: mạnh mẽ, dữ dội, phóng khoáng ở thượng nguồn rồi
mềm mại, trữ tình đầy quyến rũ trong hành trình về xuôi.
- Nhờ thủ pháp so sánh liên tưởng cả hai dòng sông đều hiện lên với những cảnh
trí đẹp, ấn tượng. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, giang sơn gấm vóc, đánh thức
tình yêu quê hương đất nước.
- Nhờ thủ pháp nhân hóa hai dòng sông đều hiện lên rất sống, mang chở cả tâm
hồn, tính cách và những ước muốn rất người, rất đời.
* Khác biệt:

Câu hỏi: Giữa sông Đà và sông Hương có những vẻ đẹp nào riêng biệt?
13


Yêu cầu cần đạt:
- Qua đoạn trích sông Đà hiện lên chủ yếu ở vẻ đẹp tự nhiên với 2 nét đối lập:
hung bạo và trữ tình. Nguyễn Tuân đã thành công khi miêu tả sông Đà với
những cảnh tượng lạ “xưa nay chưa từng có”.
- Sông Hương được khai thác ở nhiều phương diện: địa lí, lịch sử và văn hóa
nghệ thuật. Ở phương diện nào nhà văn cũng mang đến cho độc giả nguồn tri
thức phong phú và cách cảm nhận giàu tính thẩm mĩ.
TIẾT 3
2.2. Vẻ đẹp con người trên dòng sông- Hình tượng người lái đò sông Đà:
Câu hỏi: Nhân vật ông lái đò hiện lên trong tình huống nào?
Nội dung cần đạt:
Nhân vật ông lái đò được khắc họa chủ yếu qua cuộc vượt thác nguy hiểm với 3
trùng vi thạch trận của thác đá sông Đà.
Câu hỏi: Phân tích làm rõ hình ảnh ông lái đò qua từng trùng vi thạch trận?
Cách thức dạy học: HS thảo luận nhóm với các nhiệm vụ cụ thể:
- Nhóm 1: Tìm hiểu về trùng vi thứ nhất
- Nhóm 2: Tìm hiểu về trùng vi thứ 2
- Nhóm 3: Tìm hiểu về trùng vi thứ 3
- Nhóm 4: tìm hiểu về nguyên nhân và ý nghĩa chiến thắng của ông lái đò.
(Thời gian thảo luận và ghi bảng phụ là 3 phút, nhóm trưởng trình bày trước
lớp 1 phút)
Giáo viên nhận xét về phần thảo luận và trình bày của từng nhóm, bổ sung nếu
thấy cần thiết.
- Chiến thắng của ông đò là chiến thắng của trí tuệ, lòng quả cảm, kinh nghiệm
và cả sự tài hoa, điệu nghệ của người lao động trong công việc của mình.
- Hình ảnh ông lái đò là vẻ đẹp của con người Tây Bắc- “thứ vàng mười đã qua

thử lửa”, hiện thân của chủ nghĩa anh hùng trong lao động dựng xây Tổ quốc.
2.3. Cái tôi tác giả:
Câu hỏi: Qua hai đoạn trích kí em có cảm nhận gì về cái tôi của hai tác giả?
Nội dung cần đạt:
- Cái tôi uyên bác:
+ Sự am hiểu sâu sắc về đối tượng miêu tả (sông Đà và sông Hương)
+ Hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực: lịch sử, địa lí, văn hóa, điện ảnh, võ
thuật, quân sự….
=> nhờ cái tôi uyên bác mà sự vật hiện tượng miêu tả được nhìn ở nhiều góc độ
khác nhau, mang đến cảm giác mới lạ, ấn tượng cho người đọc.
- Cái tôi tài hoa: Trình độ bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ biến hóa,
giàu hình ảnh, nhạc điệu và chất thơ. Những trang văn xứng đáng được gọi là
14


“tờ hoa”.
- Cái tôi độc đáo:
+ Chọn đối tượng miêu tả độc đáo. Sông Đà: “chúng thủy giai đông tẩu/ Đà
giang độc bắc lưu”; Sông Hương: chỉ mình nó là “thuộc về một thành phố duy
nhất”
+ Say mê khám phá cảnh tượng lạ khiến cho những dòng sông biến đổi liên tục,
luôn tự làm mới mình.
- Cái tôi thấm đẫm cảm xúc:
+ Say mê, thích thú kiếm tìm và phát hiện cái đẹp.
+ Niềm yêu mến tự hào ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên , quê hương đất nước.
Hoạt động 3: Tổng kết và cùng cố
III. Tổng kết:
Câu hỏi: Qua tìm hiểu phân tích về hai đoạn trích kí em hãy tổng kết bài học về
nội dung và nghệ thuật?
Nội dung cần đạt:

1. Nội dung:
- Vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của hai dòng sông- hiện thân cho vẻ đẹp thiên nhiên,
văn hóa, lịch sử của đất nước.
- Vẻ đẹp con người trong lao động- hiện thân cho ước mơ chinh phục tự nhiên
xây dựng đất nước.
- Cái tôi tài hoa, uyên bác, độc đáo và giàu cảm xúc của các nhà văn.
2. Nghệ thuật:
- Lối viết kí tự do, phóng khoáng, giàu cảm xúc.
- Ngôn ngữ giàu có, giàu hình ảnh, nhạc điệu và chất thơ.
TIẾT 4
Hoạt động 4: Hoạt động thực hành
Nhiệm vụ: Từ nội dung bài học các nhóm tự thảo luận, xác định nội dung trọng
tâm bằng cách đặt ra các câu hỏi cho các nhóm khác
4 câu hỏi trắc nghiệm
1 câu hỏi tự luận
(Thời gian xây dựng đề 15 phút)
- Các nhóm báo cáo sản phẩm.
- Các nhóm thảo luận, phản biện về các vấn đề đặt ra của nhóm khác.
- Giáo viên tổng hợp ý kiến, chốt lại những câu hỏi có thể sử dụng
Hoạt động 5: Hoạt động ứng dụng
Nhiệm vụ: Các nhóm giải đề của nhau
- Nhóm 1 giải đề của nhóm 2
15


- Nhóm 2 giải đề của nhóm 3
- Nhóm 3 giải đề của nhóm 4
- Nhóm 4 giải đề của nhóm 1.
Trả lời các câu hỏi trắc nghiệm ở lớp
Các câu hỏi tự luận các nhóm thảo luận, lập dàn ý và về nhà hoàn thiện thành bài

viết.
Hoạt động 6: Hoạt động bổ sung (Học sinh làm ở nhà)
Nhiệm vụ: Giao mỗi nhóm về địa phương tìm hiểu về một cảnh đẹp quê hương
và tập viết một bài kí ngắn về cảnh đẹp ấy.
2.4 Hiệu quả áp dụng bài dạy
Sau khi dạy học theo chủ đề tích hợp ở lớp 12A7 chúng tôi phát phiếu điều tra
thực nghiệm, kết quả khảo sát thu được như sau:
* Bảng kết quả khảo sát

Đồng ý

Không đồng Không có ý
ý
kiến

Số HS %

Số HS %

Số HS

%

Các lĩnh vực
Học sinh hứng thú với dạy học 34
theo chủ đề

77

10


23

0

0

Việc dạy học theo chủ đề là cần 34
thiết

77

10

23

0

0

Dạy học theo chủ đề phát huy 40
được tính thích cực, chủ động,
sáng tạo và tinh thần tự học của
học sinh.

91

4

9


0

0

Dạy học theo chủ đề tích hợp giúp 32
phát huy năng lực cộng tác, năng
lực giao tiếp cho học sinh.

73

10

23

2

4

Dạy học theo chủ đề tích hợp giúp 32
học sinh nhớ kiến thức lâu hơn.

73

12

27

0


0

*Bảng thống kê điểm kiểm tra với đề bài:
So sánh vẻ đẹp của hai hình tượng Sông Đà và sông Hương qua hai văn bản
kí.
Lớp

Số
HS

Lớp thực 44
nghiệm

Điểm/số học sinh đạt điểm
1

2

3

4

5

6

7

8


9

Tổng
10 số
điểm

0

0

0

0

2

11

26

5

0

0

298

Điểm
trung

bình
6.8
16


12A7
Lớp đối 45
chứng
12A5

0

0

0

1

17

23 3

1

0

0

256


5.7

Từ kết quả thực nghiệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng đa số học
sinh có hứng thú với giờ học theo chủ đề tích. Cách thiết kế bài dạy này phát
huy được tính tích cực chủ động của học sinh và kết quả kiểm tra của học sinh
cũng cao hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
Dạy học theo chủ đề là một trong những mô hình dạy tối ưu hóa góp phần giải
quyết các vấn đề còn tồn tại trong nội dung chương trình học hiện nay như: phát
huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học, tăng cường định hướng phát
triển năng lực học sinh thông qua vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề thực
tiễn, cùng với đó là việc giúp học sinh giảm thiểu nhàm chán, áp lực do sự trùng
lặp kiến thức khi học và hướng tới kết cấu lại những đon vị kiến thức có tính
liên hệ, tổng thể hơn giúp học sinh nắm bắt bản chất kiến thức sau khi học.
Đây là mô hình đang được tiếp cận bởi tính khả dụng của nó khi đối chiếu với lộ
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta trong những năm tới.
Ở một phương diện khác, nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng, phương pháp dạy
học khi có sự đổi mới về mô hình dạy học và chương trình dạy học, nhiều môn
học đã bước đầu chủ động tiếp cận, tìm hiểu, thực hành. Tuy còn liên quan đến
nhiều yếu tố đòi hỏi phải có quá trình chuẩn bị như chương trình sách giáo khoa,
tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, đánh giá, kiểm tra, thi cử… song những
sáng kiến, kinh nghiệm và các kết quả thu được bước đầu… đã góp phần giải
quyết một số những khúc mắc về vấn đề lý luận, đồng thời làm tư liệu tham
khảo có ích cho các bộ môn khác.
Trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu, với kiến thức hạn hẹp, chuyền đề “Một
cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho
dòng sông? theo chủ đề tích hợp” mong góp một phần nhỏ để quý đồng nghiệp
trao đổi thông tin, sinh hoạt chuyên môn nhằm chuẩn bị tâm thế cho lộ trình đổi
mới giáo dục khi thực hiện việc áp dụng mô hình dạy học này đến các môn học.

Với thời gian và giới hạn về đề tài, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến từ quý đồng nghiệp.
3.2 Kiến nghị
- Các đồng chí giáo viên cốt cán bộ môn Ngữ văn trong tỉnh giới thiệu thêm các
chủ đề dạy học có chất lượng đề giáo viên ở các trường phổ thông tham khảo,
học tập.
- Tiếp tục tổ chức các đợt tập huấn xây dựng chủ đề dạy học tích hợp để giáo
viên tiếp cận, làm quen với việc thiết kế bài dạy kiểu mới.

17


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tĩnh Gia, ngày 18 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung đề tài trên là do
bản thân tôi nghiên cứu và thực hiện, không sao
chép nội dung của bất kỳ ai.
NGƯỜI VIẾT SKKN

Nguyễn Thị Tuấn Anh

18


1.
2.
3.
4.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dạy học theo chủ đề với chủ trương đổi mới giáo dục hiện nay (nguồn
Haiduong.edu.vn)
Nguyễn Tuân và tùy bút Sông Đà (NXB văn học 2002)
Phong cách bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường (NXB văn học 2005)
Thiết kế bài học Ngữ văn lớp 12 (Phan Trọng Luận- NXB Giáo dục 2006)

19



×