Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thảo luận dân sự 1 lần 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.26 KB, 15 trang )

Bài 1: Di sản thừa kế
Câu 1: Di sản là gì và có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 612 BLDS 2015 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Hơn nữa, Điều 105 BLDS 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Quan điểm cho rằng di sản bao gồm tài sản của người chết mà không bao gồm nghĩa
vụ tài sản được thể hiện tại Điều 612 và các Điều 614, 615 BLDS 2015. Có thể hiểu rằng,
trước khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết
để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ
thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết bằng chính tài
sản của người chết.1
Vậy, di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố.

Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015
“1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà
án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại
khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này”
Theo quy định tại điều 612 BLDS 2015
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác”

1 Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của Đại học Luật
TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2012, tr. 192-196

1




Thực tế có thể có nhiều trường hợp di sản người quá cố để lại bị thay thế bởi một tài
sản mới:
Thứ nhất, di sản có thể đã tham gia vào một giao dịch dân sự như mua bán, trao đổi
để i lấy một khoản tiền/một tài sản khác. Ở trường hợp này, phần tiền/tài sản thu được
vẫn nên được xem là di do phần tài sản mới có giá trị tương đương và được hình thành
trên nền tảng của tài sản do người chết để lại. Vì vậy, việc xem tài sản mới là di sản là
hợp lý.
Thứ hai, di sản có thể đã bị hư hỏng do những nguyên nhân khách quan như bão, lũ,
cháy,… và đã được thay thế bởi một tài sản mới. Lúc này, tài sản mới nên được xem là di
sản để chia thừa kế. Tuy nhiên, nếu có 1 người đã bỏ công sức/tiền bạc để thay thế tài
sản cũ thì cần ghi nhận công sức này và chi trả cho họ ứng với phần họ đã bỏ ra.
Vì vậy, suy cho cùng thì vẫn nên xem tài sản mới thay thế phần tài sản do người chết
để lại là di sản để chia thừa kế nhằm đảm bảo quyền lợi của người được nhận thừa kế.

Câu 3: Trong quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 2 tài sản tranh chấp có là di sản
của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trong quyết định số 30, theo Viện Kiểm sát thì:
Thứ nhất, căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không phải là di sản của cố Thái Anh và cố
Liêng. Điều này được thể hiện qua đoạn “căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, khi cố Thái
Anh và cố Liêng còn sống đã cho cụ Tri đứng tên là chủ sở hữu từ năm 1967… Xét thấy,
căn nhà số 05 Hoàng Hoa thám các bên đều thừa nhận Cố Anh đã cho cụ Tri và không
tranh chấp, nên Tòa án không xem xét là đúng”.
Thứ hai,về phần căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn, Việt Kiểm sát có ý kiến như sau:
“Theo bằng khoán điền thổ số 320 ngày 25.6.1935 thì cố Thái Anh là chủ sở hữu, hồ sơ
vụ án không có bất cứ tài liệu nào xác định cố Thái Anh đã chuyển sở hữu căn nhà cho
cụ Hy. Đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng chết thì nhà đất chưa chuyển dịch sang
tên cho ai, vì vậy căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản của cố Thái Anh và cố
Nguyễn Thị Liêng để lại chưa chia…”


Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Viện kiểm sát.

2


Thứ nhất, Viện Kiểm sát xác định căn nhà số 05 Hoàng Hoa Thám không phải là di
sản của cố Thái Anh và cố Liêng là hợp lý. Bởi lẽ, theo Điều 612 BLDS 2015 thì “Di sản
bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung
với người khác” và có thể thấy rõ căn nhà này đã do cụ Tri đứng tên sở hữu từ năm 1967,
tức trước khi cố Thái Anh và cố Liêng qua đời. Do đó, căn nhà này không còn là tài sản
của 2 cố lúc qua đời nên không thể xem là di sản để chia thừa kế được.
Thứ hai, việc Viện Kiểm sát xác định căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản của
cố Thái Anh và cố Liêng là hợp lý. Cụ thể, khi hai cố mất thì căn nhà này vẫn chưa được
chuyển quyền sở hữu cho cụ Hy nên theo Điều 612 BLDS 2015 thì được xem là di sản.
Hơn nữa, theo Viện Kiểm sát thì căn nhà này cần được chia thừa kế theo pháp luật ứng
với điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 (trường hợp không có di chúc). Bên cạnh đó,
Viện Kiểm sát ghi nhận công sức của cụ Hy nên việc chia đều cho các chủ thể mà không
tính đến công sức bảo quản di sản của cụ là không hợp lý.
Tuy nhiên, xét về tình thì đây là hướng giải quyết chưa hoàn toàn “hợp tình”. Ta có
thể thấy rõ là khi còn sống thì hai cố đã có ý định phân chia cho con trai thứ là cụ Tri căn
nhà 5 Hoàng Hoa Thám (đã sang tên) và cho con trai trưởng là cụ Hy sống chung để thực
hiện việc phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Việc cho rằng căn nhà 122 Nguyễn
Hùng Sơn là di sản và chỉ cho người con trai sống chung hưởng một phần căn nhà này là
quá thiệt thòi cho cụ. Cụ Tri đã được cha mẹ tạo dựng cho cơ hội để sở hữu căn nhà của
riêng mình khi còn sống nhưng về phần cụ Hy, do sống chung với cha mẹ nên không rõ
về mặt giấy tờ rằng cụ có được thừa kế căn nhà hay không. Hướng hiểu rằng do cha mẹ
đã cố gắng tạo điều kiện cho các cụ khi còn sống thì căn nhà mà cụ Hy sống chung với
hai cố tất nhiên thuộc về cụ Hy nên được xem xét đến.


Câu 5: Trong quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 2 tài sản tranh chấp có là
di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Theo Hội đồng thẩm phán thì:
Thứ nhất, đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, “cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị
Liêng đã cho cụ Thái Tri sử dụng riêng và cụ Thái Tri đã hoàn thành thủ tục đứng tên
chủ sở hữu từ ngày 9/5/1967”. Tương tự như ý kiến của Viện Kiểm sát, dựa trên Điều
612 BLDS 2015 thì căn nhà này không được xem là di sản của hai cố.

3


Thứ hai, đối với căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn, Tòa án đã ghi nhận “kháng nghị
của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn vẫn là di
sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liên là không có cơ sở”. Cụ thể, Tòa án ghi nhận
công sức và trách nhiệm của cụ Hy cũng như thái độ tôn trọng quyền định đoạt của cha
mẹ từ phía cụ Tri. Nói cách khác, theo Tòa án thì căn nhà này không là di sản của hai cố.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của hội đồng thẩm phán.
Thứ nhất, Tòa án xác định căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không phải là di sản là
hoàn toàn hợp lý tương tự với ý kiến của Viện Kiểm sát.
Thứ hai, Tòa án xác định căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn không phải là di sản là
chưa hợp lý căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể, căn nhà này là tài sản
do hai cố để lại vào thời điểm mở thừa kế nhưng do không có di chúc nên buộc phải chia
theo pháp luật theo điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015. Hơn nữa, căn cứ theo khoản 1
Điều 623 BLDS 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia tài sản là 30 năm đối
với bất động sản là căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn. Thời điểm mở thừa kế là vào lúc
cố Liêng qua đời năm 1977 và đơn kiện đầu tiên được đưa ra vào năm 1994 là hoàn toàn
phù hợp. Bên cạnh đó, cụ Tri cũng chưa từng có động thái nào từ chối nhận di sản theo
Điều 620 của BLDS 2015 nên không có căn cứ để cho rằng cụ Hy được chia toàn bộ căn
nhà này. Vậy nên, hướng giải quyết của Tòa án là không có cơ sở về mặt pháp luật.

Câu 7: Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của ông Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Ở án lệ số 16/2017/AL ,trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của ông Phùng Văn N
là 133.5m2 đất.
Sau khi bà G bán cho Ông K 131m2 đất thì tài sản chung của của hai vợ chồng còn lại
267m2. Trong diện tích đất còn lại này thì nếu khi ông N mất mà không có di chúc và hai
vợ chồng không có thỏa thuận khác về tài sản thì di sản của ông N là 267 m 2/2 = 133.5m2
đất.
Căn cứ pháp lí: điều 33 và điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

4


Câu 8: Theo án lệ trên, phần diện tích đất chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên thì phần diện tích đất chuyển nhượng cho ông K không được coi là
di sản để chia qua việc ghi nhận: “Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ”.
Việc bà G chuyển nhượng đất các con bà đều biết và không ai có ý kiến gì.
Số tiền thu được từ việc chuyển nhượng được dùng để lo cuộc sống cho bà G và
các con

Ông K đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
→ Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà G đã đồng ý để bà chuyển nhượng diện
tích 131m2 đất cho ông K.



Câu 9: Suy nghĩa của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.

Hướng giải quyết trong Án lệ trên là khá thỏa đáng.
Thứ nhất, năm 1984, ông Phùng Văn N qua đời và không để lại di chúc cũng như
thỏa thuận khác thì phần di sản của ông phải được phân chia theo pháp luật dựa
trên điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015. Căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 651
BLDS 2015 thì vợ cùng con chung của ông N đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và
có quyền thừa hưởng phần di sản mà ông để lại. Cụ thể, phần di sản này là khối
tài sản chung của vợ chồng ông (133.5m 2 đất). Do đó, việc Tòa án xác định di sản
của ông N như trên là hoàn toàn hợp lý.
• Thứ hai, sau khi ông N mất thì bà G đã bán cho ông K 131m 2 đất trên tổng số
398m2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà để lo cho cuộc sống các con. Hơn nữa,
các con của bà G biết việc này mà không có ý kiến thì xem như đã đồng ý với việc
chuyển nhượng. Hướng giải quyết này của Tòa án là thỏa đáng do Tòa không chỉ
bảo vệ quyền lợi của các đồng thừa kế mà còn bảo vệ cả quyền lợi của người mua
ngay tình là ông K. Di sản ông N để lại dù có bao gồm phần đất 131 m 2 đã bán cho
ông K nhưng đã bị thay thế bởi khoản tiền thu được từ giao dịch chuyển nhượng
giữa bà G và ông K. Số tiền này được hình thành trên nền tảng của di sản cũ (phần
diện tích đất 131 m2) và được sử dụng vì lợi ích của chính các đồng thừa kế nên
nên có thể được xem là di sản để chia cho các đồng thừa kế. Trong trường hợp
này, các đồng thừa kế đều được hưởng lợi từ khoản tiền trên nên có thể được xem
như đã chia thừa kế ứng với phần di sản này.


5


Câu 10: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cho cuộc sống của các
con mà dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản
để chia không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cho cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để chia.

Thứ nhất, xét phần tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m2 đất, sau
khi ông N mất mà không để lại di chúc hay thỏa thuận khác thì tài sản chung của
hai vợ chồng sẽ được chia đôi là 196m2 đất theo quy định của điều 33 và điều 66
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Bà G và các con chung của hai vợ chồng
đều thuộc hàng thừa kế hàng thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651
BLDS năm 2015 nên họ sẽ được chia thừa kế như nhau, có quyền ngang nhau đối
với phần di sản do ông N để lại.
• Thứ hai, nếu bà G tự ý bán 131m2 đất cho Ông K mà không có sự đồng ý của các
con của bà và sử dụng phần tiền vì mục đích cá nhân cho riêng mình thì có thể
xem bà G đã bán một phần đất thuộc phần của mình trong khối tài sản chung của
hai vợ chồng (196m2). Việc mua bán này sẽ không làm ảnh hưởng đến phần tài
sản mà các đồng thừa kế khác được hưởng và di sản của ông N (196m2) sẽ được
chia đều cho bà và các con.


Điều này là hoàn toàn hợp lý do bà G có quyền định đoạt phần tài sản của mình trong
khối tài sản chung. Hơn nữa, phần tiền thu được từ giao dịch không được sử dụng vì lợi
ích của các đồng thừa kế khác nên không thể xem như đã chia thừa kế ứng với phần di
sản này.
Tuy nhiên, suy cho cùng thì Tòa án đã giải quyết một cách khá “hợp tình”. Trái
ngược với quan điểm của Viện Kiểm sát, Tòa án cho rằng căn nhà đã được hai cố chia
cho cụ Hy trước thời điểm mở thừa kế nên không được coi là di sản. Tòa án đã ghi nhận
tâm niệm của hai cố qua việc tạo dựng cơ ngơi cho hai con nhưng do cụ Hy sống chung
với cha mẹ nên không được ghi nhận về mặt giấy tờ. Hơn nữa, cụ Hy đã có công phụng
dưỡng không chỉ cha mẹ mà còn chăm sóc cả bác ruột và em ruột bị bệnh tâm thần trong
suốt một thời gian dài ở tại căn nhà này. Hơn nữa, cụ Tri khi còn sống cũng không hề có
bất cứ động thái nào phản đối việc cụ Hy chiếm hữu, xây dựng lại căn nhà này mà chỉ
đến đời con cụ Tri mới xảy ra tranh chấp. Việc Tòa án đưa ra hướng giải quyết này sẽ tạo
nên sự công bằng cho các con khi nhận phần thừa kế từ cha mẹ và đồng thời thể hiện
phần nào ý niệm của cha mẹ khi còn sống.


6


Câu 11: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất là bao nhiêu?
Ở thời điểm bà G chết, di sản của bà G trong diện tích đất là diện tích đất chung còn
lại của hai vợ chồng bà sau khi bán cho ông K 131 , tức là 133,5 m 2 ứng với của 267 m2.
Điều này đã được ghi nhận trong bản án: “Do đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để lại
là khối tài sản (133,5 m2) được chia theo di chúc…”

Câu 12: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản bà Phùng Thị G là 43,5 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án quyết định phần còn lại của di sản bà G là 43,5 m 2 để chia thừa kế theo
pháp luật là thuyết phục vì:
Thứ nhất, bà G trước khi qua đời có để lại di chúc định đoạt phần 90m2 trong khối
tài sản 133,5 m2 cho chị H1 và di chúc này đã được xem là hợp pháp theo Điều
630 BLDS 2015 nên đương nhiên phải tôn trọng ý chí của bà.
• Thứ hai, bà G chỉ định đoạt một phần tài sản của mình nên áp dụng điểm a khoản
2 Điều 650 BLDS 2015 thì phần còn lại (43,5 m2) sẽ được chia thừa kế theo pháp
luật.


Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì Án lệ này có nội dung xoay quanh việc
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong
các đồng thừa kế chuyển nhượng.

Câu 13: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại”
có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án quyết định còn lại 43,5 m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại là thuyết

phục vì:


Thứ nhất, bà G để lại di chúc nhưng chỉ định đoạt một phần tài sản là 90m2
đất cho chị H1 và không đề cập đến 5 người con còn lại cùng với 43,5 m2. Áp
dụng điểm a khoản 2 Điều 650 BLDS 2015 thì 5 người con này sẽ được chia
43,5 m2 theo pháp luật.

7




Thứ hai, 5 người con còn lại đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 nên được hưởng phần di sản bằng nhau
ứng với 5 kỷ phần.

Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì Án lệ này có nội dung về việc công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa
kế chuyển nhượng.

8


Bài 2: Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản
Câu 1: Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Nghĩa vụ mang tính nhân thân của người quá cố sẽ chấm dứt, căn cứ khoản 8 Điều
372 BLDS 2015: “bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại

mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện”. Như vậy, vì người quá cố
là người đã chết nên nghĩa vụ phải do chính người quá cố đó thực hiện sẽ đương nhiên
chấm dứt.
Nếu nghĩa vụ mà người quá cố để lại không thuộc loại nghĩa vụ nêu trên (như
nghĩa vụ tài sản) thì nghĩa vụ này sẽ không đương nhiên chấm dứt, căn cứ Điều 615
BLDS 2015:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Câu 2: Theo BLDS ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điều 615 BLDS 2015, người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
quá cố là:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
9


2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do

người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Câu 3: Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản không? Vì
sao?
Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng là nghĩa vụ về tài sản vì theoĐiều 658 BLDS
2015 về thứ tự ưu tiên thanh toán di sản:
“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo
thứ tự sau đây:
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.”
Ở đây, bà Loan đã vay của Ngân hàng 100.000.000 đồng.

Câu 4: Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ
trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?
Các con của bà Loan phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo khoản 3 Điều 615 BLDS
2015 thì “Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Ngoài ra nếu bà Loan có chỉ định trong di chúc người trả nợ là ai thì người đó phải
trả nợ nếu nhận di sản theo Khoản 4 Điều 626 BLDS 2015 Quyền của người lập di chúc:
“4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế”

10


Câu 5: Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá
cố trong khi họ còn sống?
Trong quyết định 26, ông Vân là người có công chăm sóc và ông Vi là người nuôi

dưỡng người quá cố khi họ còn sống, ở phần Xét thấy: “Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm
xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và chăm sóc di sản …”

Câu 6: Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trong Quyết định trên, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân và
ông Vi đã được ghi nhận nhưng không xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý
di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia
cho các đồng thừa kế là chưa hợp lý.

Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).
Hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm là thỏa đáng.
Vì trong bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm đều chưa xác định chính xác toàn bộ
diện tích thửa đất mà cụ Nguyễn Văn Phúc và cụ Phạm Thị Thịnh để lại là bao
nhiêu do lời khai về diện tích của các người còn không khớp. Do không xác định
được chính xác diện tích đất nên cũng không thể định giá đúng thửa đất đó theo
quy định, giá cả thị trường. Và cả 2 tòa sơ thẩm cùng phúc thẩm đề xác định 02
ngôi nhà một tầng là tài sản của cụ Phúc, cụ Thịnh là chưa đủ cơ sở vững chắc.
• Công sức chăm sóc cha mẹ, quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao
nhiêu, không được xác minh cụ thể để đối trừ. Vậy nên sẽ không phân chia tài sản
cho các đồng thừa kế là những người con của cụ Thịnh một cách đúng đắn và công
bằng được.


Tòa giám đống thẩm ra Quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ
thẩm là một quyết định đúng đắn.

11



Bài 3: Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế
Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế.
Có 3 loại thời hiệu thừa kế:
1) Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10

năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
2) Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ

quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3) Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để

lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Câu 2: Trong bản án số 258, cụ Tuyền chết năm nào? Đến khi phúc thẩm đã được
bao nhiêu năm?
Cụ Tuyền chết vào năm 1945, đến khi phúc thẩm (năm 2017) đã được 72 năm.

Câu 3: Theo cấp phúc thẩm, vì sao việc chia di sản của cụ Tuyền nay vẫn còn thời
hiệu.
Tòa Án cấp phúc thẩm căn cứ vào khoản 1 Điều 3 và khoản 4 Điều 36 của pháp
lệnh thừa kế được Hội đồng Nhà nước ban hành vào 30/8/1990. Trong đó nói rằng thời
điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết, trong
trường hợp này là ông Tuyền chết vào năm 1945, tuy nhiên đối với những việc mở thừa
kế được thực hiện trước ngày ban Pháp lệnh này thì thời hiệu được tính từ ngày công bố
Pháp lệnh này. Vì vậy ngày mở thừa kế đối vớ di sản của cố Tuyền được tính từ ngày
30/8/1990, tính đến thời điểm xét xử là xấp xỉ 27 năm. Khoản 1 điều 623 BLDS 2015
quy định về thời hiệu thừa kế quy định thời hiệu để chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản. Như vậy từ thời điểm chia di sản đến thời điểm xét
xử thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản của cố Tuyền vẫn còn.


Câu 4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của cấp phúc thẩm liên quan
đến thời hiệu chia di sản của cụ Tuyền (nêu cơ sở pháp lí khi trả lời)
Tòa án đã có hướng giải quyết xác đáng. Cụ Tuyền khi chết đã không để lại di
chúc chia di sản nên người thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản của cụ. Căn cứ vào
khoản 1 điều 623 BLDS 2015 thì tài sản đang tranh chấp là bất động sản có thời hiệu chia
12


di sản là 30 năm tính từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm mất
của cụ Tuyền từ năm 1945, tuy nhiên áp dụng khoản 1 điều 6 và khoản 4 điều 36 Pháp
lệnh thừa kế được công bố ngày 30/8/1990 thì thời điểm mở thừa kế là 30/8/1990. Từ
thời điểm đã nêu tính đến thời điểm xét xử là xấp xỉ 27 năm, thuộc phạm vi cho phép yêu
cầu chia di sản là bất động sản theo luật định (nêu trên). Từ đó xử lý yêu cầu chia di sản
của cụ Tuyền có hiệu lực là hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho người thừa kế.
Cơ sở pháp lí
Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015
Khoản 1 điều 6 và khoản 4 điều 36 Pháp lệnh thừa kế công bố ngày 30/8/1990

Câu 5: Trong bản án số 127, cụ Khuyên chết năm nào? Đến khi phúc thẩm đã được
bao nhiêu năm?
Theo bản án số 127, cụ Khuyên chết cuối năm 1983, đến khi phúc thẩm (năm
2017) đã được 34 năm.

Câu 6: Theo cấp phúc thẩm, vì sao việc chia di sản của cụ Khuyên nay vẫn còn thời
hiệu?
Theo cấp phúc thẩm, việc chia di sản của cụ Khuyên vẫn còn thời hiệu vì “…theo
quy định tại điểm d Khoản 1 điều 688 BLDS 2015 thì “1. Đối với giao dịch dân sự được
xác lập trước ngày Bộ luật này có quy định thì việc áp dụng pháp luật được quy định như
sau: a)…d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Theo quy định tại
Điều 623 BLDS 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với

bất động sản. Như vậy, theo quy định của BLDS 2015 thì thời hiệu đối với yêu cầu chia
thừa kế của nguyên đơn vẫn còn.”

Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của cấp phúc thẩm liên quan
đến thời hiệu chia di sản của cụ Khuyên (nêu cơ sở pháp lý khi trả lời).
Hướng giải quyết của cấp phúc thẩm là hợp lí.
Cụ thể:


Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
13


“1. Trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền
khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kể của người khác.”
• Điều 10 Nghị quyết số 02/HĐTP:
“b) Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi
kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:
Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản,
xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác;”
• Điều 17 Nghị quyết 58/1998/UBTVQH10:
“2. Thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực
(1/1/1999) không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối
với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.”
Vì cụ Khuyên chết cuối năm 1983, thời điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990, di
sản gồm nhà và đất tại 135 Yên Phụ, căn cứ vào những điều trên, ta có thể xác định được
thời hiệu khởi kiện về thừa kế là vào ngày 10-3-2003. Ngày 07/04/2008 nguyên đơn là bà
Hường và ông Minh yêu cầu chia thừa kế là quyền sử dụng nhà và đất tại 135 Yên Phụ là
không đúng với quy định của pháp luật.


14


Tài liệu tham khảo
1) Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và

quyền thừa kế của Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2012.

15



×