Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Thực trạng công tác giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Bảo Minh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.53 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ BẢO HIỂM
~~~~~*~~~~~~

CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH VÀ BỒI THƯỜNG
TỔN THẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG – LẮP ĐẶT
TẠI BẢO MINH HÀ NỘI

Sinh viên thực hiện

: TỐNG XUÂN HƯNG

Giảng viên hướng dẫn : TS . NGUYỄN THỊ CHÍNH

Hà Nội– 04/2010


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................1

PHẦN I..........................................................................................................3
Khái quát về bảo hiểm xây dựng - lắp đặt ..........................................
và công tác giám định bồi thường nghiệp vụ.........................................3
1.1 Tổng quan về bảo hiểm xây dựng lắp đặt......................................................3
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xây dựng lắp đặt............................3
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm XDLD...........................5
1.1.3 Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng lắp đặt.........................................7
1.1.3.1 Bảo hiểm xây dựng...........................................................................7


 Đối tượng.............................................................................................7
 Phạm vi Bảo Hiểm...............................................................................9
 Giá trị Bảo hiểm, số tiền, phí Bảo hiểm............................................12
 Hợp đồng bảo hiểm............................................................................18
1.2 Công tác giám định bồi thường của bảo hiểm XD-LD...............................19
1.2.1 Vai trò của công tác giám định và bồi thường tổn thất..............................19
1.2.2 Nội dung của công tác giám định bồi thường tổn thất..............................20
1.2.2.1. Đối với công tác giám định.............................................................20
1.2.2.2 Đối với công tác giải quyết bồi thường............................................26

PHẦN II......................................................................................................30
Thực trạng công tác giám định và bồi thường tổn thất......................
trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại ..............................................
công ty Bảo Minh Hà Nội........................................................................30
2.1 Vài nét về tổng công ty Bảo Minh và công ty Bảo Minh Hà Nội................30
2.1.1 Tổng công ty Bảo Minh...............................................................................30
2.1.2 Công Ty Bảo Minh Hà Nội.........................................................................34
2.2 Vai trò của bảo hiểm xây dựng lắp đặt đối với bảo minh...............................
hà nội và kết quả khai thác nghiệp vụ trong những năm qua.........................38
2.2.1 Vai trò.........................................................................................................38
2.2.2 Kết quả khai thác nghiệp vụ.......................................................................41
2.3 Thực trạng triển khai công tác giám định và bồi thường ..............................
bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại bảo minh hà nội...........................................42
2.3.1 Quy trình giám định và bồi thường............................................................42


* Báo cáo tổn thất:.....................................................................................42
* Đánh giá tổn thất sơ bộ...........................................................................42
* Chỉ định và theo dõi giám định.................................................................43
* Xét bồi thường..........................................................................................45

* Các công việc sau bồi thường...................................................................47
2.3.2 Kết quả kinh doanh nghiệp vụ...................................................................48
2.2.3 Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ.................................................................50
2.3.3 Đánh giá chung về công tác giám định tổn thất............................................
trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại bảo minh hà nội ..................................52
2.3.3.1 Ưu điểm..........................................................................................52
2.3.3.2 Hạn chế...........................................................................................58

PHẦN III............................................................................................ 60
Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác...........................................
giám định và bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm XD-LD.................................
tại Bảo Minh Hà Nội...........................................................................60
3.1 Phương hướng hoạt động của bảo minh hà nội..........................................60
3.1.1 Mục tiêu Bảo Minh Hà Nội trong thời gian tới..........................................60
3.1.2 Phương hướng hoạt động của công ty.......................................................61
3.2 Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác ..............................................
giám định bồi thường nghiệp vụ........................................................................63
KẾT LUẬN..........................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................70


LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường và mục tiêu chính là đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp trong năm 2020. Nước ta còn nghèo do đó để có thể trở thành
một nước công nghiệp ngoài nguồn nhân lực trình độ cao nước ta còn rất cần những
công trình xây dựng lớn đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Nhận thấy rõ điều này
trong những năm gần đây nước ta đã tiến hành quy hoạch, xây dựng hàng loạt các
công trình mang tầm khu vực và quốc tế. Đặc biệt là sau khi gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO thì tầm quan trọng của các công trình xây dựng lại được nâng cao

hơn trong việc góp phần thay đổi bộ mặt quốc gia.
Cùng với sự phát triển của các công trình xây dựng hiện nay không thể không
kể đến sự lớn mạnh của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở các công ty Bảo hiểm
nói chung và ở Bảo Minh Hà Nội nói riêng. Mỗi công trình xây dựng là một tài sản
khổng lồ cần được bảo vệ. Ở Việt Nam, nghiệp vụ này đang có một tiềm năng khai thác
rất lớn. Song việc triển khai nghiệp vụ này đặc biệt là trong công tác giám định bồi
thường nghiệp vụ vẫn còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm. Chính vì vậy, sau một thời
gian thực tập ở phòng bảo hiểm Tài sản –Kỹ thuật ở Bảo Minh Hà Nội em đã chọn đề
tài: " Thực trạng công tác giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt tại Bảo Minh Hà Nội” nhằm làm rõ những ưu điểm cũng như các hạn
chế còn tồn đọng trong triển khai nghiệp vụ đồng thời em cũng xin đưa ra một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đây cũng là một trong những yêu cầu của
công ty hiện nay.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần chính:
Phần I Khái quát về bảo hiểm xây dựng lắp đặt và công tác giám định bồi thường
trong Bảo Hiểm xây dựng lắp đặt
Phần II Thực trạng công tác giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt tại công ty bảo minh hà nội
PhầnIII Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám định và bồi thường
nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại bảo minh hà nội

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

1


Do những hạn chế về kiến thức thực tế cũng như nguồn tài liệu, bài
chuyên đề tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sẽ
nhận được ý kiến chỉ bảo.
Em xin chân thành cảm ơn TS.Nguyễn Thị Chính cùng các anh chị phòng Tài

sản & Kỹ thuật Công ty Bảo hiểm Bưu Điện đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề
thực tập này.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

2


PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG - LẮP ĐẶT VÀ CÔNG
TÁC GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG NGHIỆP VỤ
1.1 Tổng quan về bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xây dựng lắp đặt
Xây dựng - lắp đặt là một trong những ngành kinh tế quan trọng trong xã hội,
bất kỳ một chế độ xã hội nào muốn phát triển cũng cần có những công trình xây dựng,
cần những máy móc tiên tiến. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của xây dựng, lắp
đặt càng lớn. Đặc biệt trong cuộc sống hiện đại ngày nay khi những yếu tố rủi ro luôn
rình rập xung quanh ta thì mọi hoạt động kinh doanh của bất kỳ ngành sản xuất kinh
doanh nào cũng đều cần có sự đảm bảo về mặt tài chính để bù đắp cho thiệt hại do
hoàn cảnh khách quan hay chủ quan gây ra. Chính vì vậy mà bảo hiểm xây dựng - lắp
đặt ra đời là tất yếu khách quan bởi nó đã trở thành nhu cầu thiết yếu của chủ đầu tư,
các nhà thầu để bảo vệ tài chính cho họ khi rủi ro xảy ra. Xây dựng, lắp đặt là một quá
trình dai dẳng, kéo dài không những đòi hỏi cao về trình độ kĩ thuật mà còn luôn phải
đối mặt với các rủi ro không những do điều kiện tự nhiên như mưa bão, lũ lụt... mà còn
do tác động chủ quan của con người như sơ ý, sai sót, hành động phá hoại…Ở nước ta
hiện nay, tay nghề của công nhân nhìn chung còn thấp, ý thức kỷ luật chưa cao, tiếp
xúc với máy móc hiện đại còn hạn chế. Mặt khác, nước ta lại nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới hết sức khắc nghiệt, thường xuyên thay đổi nóng ẩm, mưa nhiều, lũ lụt, hạn
hán… Hàng năm khoảng 9 cơn bão đổ bộ vào nước ta gây thiệt hại lớn về người và tài
sản. Đó là một trong những rủi ro mà bất kỳ một công trình nào cũng có thể gặp phải

khi thi công. Hơn nữa, các công trình xây dựng thường đơn chiếc, quy trình mang tính
kỹ thuật cao, tập trung một lượng lớn máy móc, thiết bị phục vụ thi công nhiều và
lượng nguyên vật liệu đồ sộ, và hầu hết các công trình này đều được tiến hành ngoài
trời nên phạm vi hoạt động của rủi ro là rất lớn, do đó khi không may xảy ra rủi ro thì
tổn thất của các công trình này là rất lớn.
Các công trình xây dựng, lắp đặt thường có giá trị rất lớn, trung bình vào
khoảng vài tỷ đồng, có những công trình lớn hàng trăm triệu USD. Do đó nếu không
có sự hỗ trợ của người có trách nhiệm đối với công trình sẽ không đủ khả năng tài
chính để khắc phục hậu quả của tổn thất mà điều này có thể dẫn đến công ty phá sản.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

3


Một yêu cầu trong sản xuất kinh doanh là phải bảo tồn và phát triển đồng vốn khi
doanh nghiệp quyết định đầu tư cho một dự án sản xuất của mình, nếu không may gặp
sự cố thì nhu cầu về đảm bảo về vốn là không thực hiện được, tài chính doanh nghiệp
sẽ bị ảnh hưởng. Trong tình thế như vậy, tham gia bảo hiểm là một giải pháp hữu hiệu
cho tất cả các doanh nghiệp. Hiện nay chính phủ và Bộ Tài chính đã có văn bản quy
định và hướng dẫn về việc bảo toàn và phát triển vốn đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Theo văn bản đó, Nhà nước cũng đảm bảo nguồn vốn của mình không bị mất khi tiến
hành đầu tư các công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy Nhà nước đã bắt
buộc tất cả các doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách, khi tham gia xây dựng và lắp đặt
đều phải mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.
Bên cạnh các thành phần kinh tế nhà nước còn có hàng loạt các công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản. Các doanh nghiệp
này rất quan tâm đến việc mua bảo hiểm. Bởi lượng vốn mà họ tiết kiệm từ việc
đầu tư cho các biện pháp an toàn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, trong khi tai nạn thì
ngày càng nhiều và càng có xu hướng gia tăng về mức độ nghiêm trọng. Đặc biệt

hiện nay các công ty tại Thái Lan và các nước khác thường dành 1,5-3% của tổng chi
phí đầu tư dự án cho phân tích rủi ro và đảm bảo an toàn cho dự án tùy thuộc vào quy
mô của dự án. Do đó việc chủ thầu, chủ đầu tư tham gia bảo hiểm cho các công
trình xây dựng, lắp đặt của mình là biện pháp ngăn ngừa tối đa cho nguy cơ tổn
thất có thể xảy ra đối với công trình thông qua công tác kiểm tra, giám sát hay đề
phòng hạn chế tổn thất của các công ty bảo hiểm và cả người được bảo hiểm. Bảo
hiểm góp phần lớn vào việc hạn chế giải quyết thiệt hại đối với môi trường cũng như
đảm bảo cho nhà đầu tư và quyền lợi cho bất kỳ tổ chức nào thuộc bên thứ ba chẳng
may bị thiệt hại.
Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt ra đời có vai trò to lớn, nó giúp cho các cá nhân tổ
chức khôi phục lại quá trình sản xuất, kinh doanh, tiếp tục hoàn thành các công trình
xây dựng hay việc lắp đặt máy móc, thiết bị thông qua việc hình thành quỹ bảo hiểm
để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu về mặt tài chính cho các cá nhân, tổ chức không may
gặp phải rủi ro, tai nạn bất ngờ. Giúp cho người tham gia bảo hiểm tự chủ về mặt tài
chính, yên tâm hơn trong công việc của mình. Trên cơ sở hạch toán đầy đủ giá thành
nguyên vật liệu và căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình, các doanh nghiệp cần cân
nhắc những loại hình bảo hiểm sẽ mua để đạt được kết quả kinh doanh tốt và luôn có
được sự đảm bảo vững chắc về tài chính trong trường hợp không may gặp rủi ro bất

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

4


ngờ. Khi người được bảo hiểm đã thanh toán chi phí bảo hiểm hàng năm, họ có thể
yên tâm rằng họ sẽ không gặp phải chi phí để giải quyết tổn thất, mà là những khoản
chi phí này công ty bảo hiểm sẽ chi trả. Góp phần tăng cường công tác đề phòng và hạn
chế tổn thất, nâng cao thu nhập của người đóng góp bảo hiểm đối với tài sản, công trình
được bảo hiểm.
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm xây dựng – lắp đặt.

Bảo hiểm là ngành kinh tế ra đời muộn hơn những ngành khác như nông
nghiệp, công nghiệp, hoá chất, thuỷ sản…nhưng đã có bước phát triển mạnh mẽ.
Trong các loại hình bảo hiểm thì bảo hiểm xây dựng và lắp đặt ra đời muộn hơn so
với các loại hình bảo hiểm khác nhưng từng bước đã khẳng định vị trí quan trọng của
mình trên thị trường bảo hiểm nói chung và đời sống con người. Bảo hiểm xây dựng
và lắp đặt là một bộ phận của bảo hiểm kĩ thuật.
Bảo hiểm hàng hải xuất hiện năm 1547, bảo hiểm hoả hoạn xuất hiện năm
1667. Còn bảo hiểm kỹ thuật xuất hiện trên thế giới vào năm 1895 tại nước Anh đó là
đơn bảo hiểm đổ vỡ máy móc. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn găn
liền với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là động lực thúc đẩy bảo
hiểm kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt trong thế kỉ XX, do nhu cầu phát triển của
cuộc sống, bảo hiểm kỹ thuật đã có bước phát triển mạnh mẽ và trở thành loại hình
bảo hiểm quan trọng không thể thiếu được đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Theo số liệu của phòng rủi ro kỹ thuật của Bảo Minh Hà Nội thì chỉ tính riêng
tại Cộng Hoà Liên Bang Đức trong năm 1972 tổng số phí bảo hiểm kỹ thuật chỉ đạt
567 triệu DM, nhưng năm 1981 đã lên tới 1294 triệu DM. Ngày nay bảo hiểm kỹ thuật
đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế, xã hội trên thế giới. Từ
việc bảo hiểm cho các công trình xây dựng, bảo hiểm cho các máy móc trong xí
nghiệp sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, trong các phòng thí nghiệm
cho tới việc bảo hiểm cho các công trình xây lắp khổng lồ, các hoạt động lắp ráp máy
bay, tàu biển cỡ lớn đến những con tàu vũ trụ. Công ty Munichre là công ty tái bảo
hiểm hàng đầu đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến, giới thiệu, phát triển loại
hình bảo hiểm xây dựng và lắp đặt trên thị trường bảo hiểm quốc tế, đây cũng là công
ty dẫn đầu trong lĩnh vực bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Hầu hết các công ty bảo hiểm
hiện nay trên thế giới khi thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đều áp
dụng qui tắc bảo hiểm của Munichre.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

5



Năm 1934 đơn bảo hiểm rủi ro lắp đặt được cấp ở Đức. Kể từ sau chiến tranh
thế giới lần 2 nhu cầu tái thiết nền kinh tế được đặt lên hàng đầu. Các nước trên thế
giới cùng nhau thống nhất "đối đầu chuyển sang đối thoại", cần phải xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật ở mỗi nước. Các công trình xây dựng tái thiết đất nước được phát
triển mạnh mẽ đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm cho các công trình ngày một tăng, cùng với
sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật càng đòi hỏi phạm vi bảo hiểm ngày
một mở rộng với đối tượng bảo hiểm ngày một tinh vi, phức tạp hơn. Các đơn bảo
hiểm thiệt hại vật chất như: bảo hiểm máy móc, thiết bị xây dựng, bảo hiểm rủi ro cho
các công trình xây dựng, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư… xuất
hiện. Bảo hiểm kỹ thuật phát triển rất nhanh và tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các
loại hình bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm rủi ro cho các chủ thầu
- Bảo hiểm rủi ro lắp đặt
- Bảo hiểm đổ vỡ máy móc
- Bảo hiểm thiết bị điện tử
- Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động
- Bảo hiểm thăm dò khai thác dầu khí
Các loại hình bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mỗi loại hình đảm bảo cho một giai đoạn hay một khâu của quá trình sản xuất. Bảo
hiểm xây dựng được bắt đầu khi công trình khởi công xây dựng, kết thúc khi công
trình xây dựng hoàn thành, đây cũng là thời điểm bắt đầu của bảo hiểm lắp đặt, nó kết
thúc khi máy móc lắp đặt xong và đến giai đoạn chạy thử.
Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là loại hình có sự phát triển mạnh mẽ về quy mô
cũng như chất lượng nghiệp vụ do nhu cầu xây dựng và lắp đặt của các quốc gia trên
thế giới ngày càng có xu hướng phát triển. Nó cũng là loại hình bảo hiểm tương đối
phức tạp so với các loại hình bảo hiểm khác. Các đơn bảo hiểm rất đa dạng như bảo
hiểm mọi rủi ro xây dựng, bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt, các hình thức bảo hiểm khác
thuộc bảo hiểm xây dựng và lắp đặt sẽ xuất hiện trong tương lai.

Tại Việt Nam: Sau đại hội 6, nhà nước đổi mới các chính sách kinh tế, xã hội,
ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mới thực
sự phát triển. Giai đoạn đầu khi mới triển khai số vốn hoạt động nhỏ, năng lực còn hạn
chế, kinh nghiệm chuyên môn chưa có, nên Bảo Minh Hà Nội chỉ triển khai các công
trình nhỏ, các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thường chọn mua bảo
hiểm của các công ty bảo hiểm có uy tín trên thế giới, do đó số phí bảo hiểm xây dựng

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

6


và lắp đặt thấp. Từ đó
đến nay nước ta đang dần dần hoàn thiện hành lang pháp
lý giúp cho nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt được phát triển. Ngày 20/10/1994
Thủ tướng chính phủ ban hành nghị định 177-CP quy định về quản lý đầu tư và xây
dựng, tại điều 52 nghị định này quy định rõ các chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công
trình xây dựng,lắp đặt, các tổ chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây lắp phải mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các sản phẩm tư vấn và vật tư thiết bị nhà xưởng
phục vụ thi công, tai nạn lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối với
người thứ 3 trong quá trình thực hiện dự án. Phí bảo hiểm của chủ đầu tư được tính
vào vốn đầu tư, còn phí bảo hiểm của tổ chức tư vấn và nhà thầu được tính và chi phí
sản xuất. Phần này còn quy định bảo hiểm được mua tại các công ty trong nước nếu
như dự án của Việt Nam, những dự án của nước ngoài thì tuân thủ trong quy định của
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam một loạt công ty Bảo hiểm được
thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau như: Bảo Minh, PJICO, Bảo Long,
PVIC….cùng với sự góp mặt của các công ty bảo hiểm nước ngoài làm thị trường bảo
hiểm Việt Nam trở lên sôi động, sự cạnh tranh ngày càng găy gắt hơn đòi hỏi các công
ty không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ về mọi mặt. Để bảo vệ thị trường bảo

hiểm trong nước luật đầu tư nước ngoài ban hành ngày 12/11/1996 sửa đổi bổ sung
một số điều khoản, nghị định 42/CP thay thế nghị định 177/CP, thông tư số
663/TC/ĐT-TCNH ngày 24/6/1996 về ban hành quy tắc,biểu phí, phụ phí và khấu trừ
bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng và lắp đặt.
Đơn bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đầu tiên tại Việt Nam được cấp là đơn bảo
hiểm mọi rủi ro lắp đặt cho trạm thu phát vệ tinh Láng Trung. Đây là công trình liên
doanh giữ Tổng công ty bưu chính Viễn thông và hãng Teltra. Từ đó cho tới nay loại
hình bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đã trở thành một nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng
đem lại lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong cả nước. Kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt với số phí bảo hiểm lớn đóng góp đáng kể
trong doanh thu của các công ty bảo hiểm, đem lại lợi ích lớn cho xã hội.
1.1.3 Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng lắp đặt
1.1.3.1 Bảo hiểm xây dựng
 Đối tượng
+ Trong bảo hiểm xây dựng

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

7


Đối tượng của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các công trình xây dựng dân
dụng, công trình công nghiệp…Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt.
Do đó, để thuận tiện cho vịêc tính phí bảo hiểm cũng như giải quyết khiếu nại trong
trường hợp tổn thất xảy ra, người ta chia một công trình ra thành nhiều hạng mục khác
nhau gồm:
- Giá trị thi công xây dựng: hạng mục này chiếm phần lớn giá trị công trình
gồm các hạng mục do chủ thầu tiến hành theo hợp đồng xây dựng đã kí kết giữ chủ
thầu và chủ đầu tư chủ yếu là: công tác đào lắp, san nền; giá trị các công trình tạm thời
cho công tác thi công như nhà tạm, kênh dẫn nước, đê bảo vệ; giá trị móng, giá trị các

cấu trúc của công trình.
- Trang bị và các công trình tạm thời: đây là các trang bị dùng trong khi xây
dựng gồm các thiết bị cố định phục vụ thi công như các công trình phụ trợ, giàn giáo,
hệ thống băng tải…
- Máy móc xây dựng: là các loại máy móc dùng trong quá trình xây dựng gồm
máy móc có động cơ tự hành hoặc không tự hành thuộc quyền sở hữu của người được
bảo hiểm hoặc do họ đi thuê. Các loại máy móc này chỉ được bảo hiểm trong thời gian
sử dụng trên công trường.
- Tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường: nếu là tài sản thuộc quyền sở
hữu, quản lý và chăm sóc của người được bảo hiểm thì có thể được bảo hiểm theo đơn
bảo hiểm xây dựng bằng sửa đổi bổ sung. Còn với loại tài sản thuộc sở hữu của bên
thứ 3 thì được bảo hiểm theo phần 2 của đơn bảo hiểm xây dựng trách nhiệm đối với
người thứ 3.
- Chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi xảy ra tổn thất: gồm các chi phí phát sinh
do phải di chuyển, dọn dẹp các chất phế thải xây dựng, do sự cố được bảo hiểm gây ra
trên khu vực công trường nhằm mục đích làm sạch để tiếp tục thi công xây dựng công
trình. Khoản chi phí này được bảo hiểm khi người được bảo hiểm kê khai và yêu cầu
bảo hiểm.
- Trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba: Trách nhiệm này đựơc thể hiện
trong phần II của đơn bảo hiểm. Bao gồm các trách nhiệm pháp lý do thiệt hại về tài
sản và/hoặc thương tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình thi công công
trình tại hoặc xung quanh khu vực công trường. Tuy nhiên, các tổn thất đối với người
làm công, người thân hoặc người đại diện của người đựơc bảo hiểm không thuộc phạm
vi bảo hiểm của phần này.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

8



Ngoài ra, nhà bảo hiểm cần lưu ý một số điểm sau:
+ Đối tượng bảo hiểm cần được mô tả chi tiết: chiều cao, chiều rộng, chiều
dài, vật liệu xây dựng, chất liệu xây dựng của móng, tầng hầm, tầng trên mặt đất,
tường chắn, tường chống sụt lở, khoảng cách các hạng mục công trình. Cần ghi rõ
địa điểm xây dựng, các công trình đã và đang xây dựng liền kề bốn phía.
+ Nhà bảo hiểm còn nhận các đảm bảo bổ sung: chi phí làm ngoài giờ, làm
vào ngày lễ, chi phí vận chuyển tốc hành,… liên quan đến tổn thất bảo hiểm.
+ Hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng thường được cấp chung cho cả thiệt
hại vật chất và trách nhiệm đối với người thứ ba.
+ Để hấp dẫn người tham gia bảo hiểm cũng như mở rộng phạm vi kinh doanh,
trong các đơn bảo hiểm xây dựng còn có thể được mở rộng bảo hiểm cho nhiều rủi ro
khác bằng các Điều khoản bổ sung đính kèm.
+ Trong bảo hiểm lắp đặt
Trong bảo hiểm lắp đặt, đối tượng được bảo hiểm là các máy móc lắp đặt, trang
thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới công
việc lắp đặt. Theo đó đối tượng được bảo hiểm được phân loại như sau:
- Các máy móc, các dây chuyền sản xuất đồng bộ trong một xí nghiệp hay
trong khi tiến hành lắp đặt các máy móc, thiết bị đó.
- Phần công việc xây dựng phục vụ, cấu thành một bộ phận của quá trình lắp
ráp.
- Máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho quá trình lắp đặt.
- Các tài sản sẵn có trên và trong phạm vi công trường thuộc quyền sở hữu,
quản lý, trông coi, kiểm soát của người được bảo hiểm.
- Chi phí dọn dẹp sau tổn thất.
Hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt thường được cấp cho cả bảo hiểm tài sản
và bảo hiểm trách nhiệm.
 Phạm vi Bảo Hiểm
Các đơn bảo hiểm xây dựng - lắp đặt do các công ty bảo hiểm cung cấp thường là
đơn bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi được bảo hiểm thường rất rộng - tất cả các rủi ro
không bị loại trừ đều được bảo hiểm. Điều này có nghĩa là hầu hết bất kỳ các tổn thất,

tổn hại về vật chất bất ngờ và không lường trước đối với các hạng mục được bảo hiểm
xảy ra trong thời hạn bảo hiểm trong phạm vi công trường xây dựng đều được bồi
thường theo đơn bảo hiểm xây dựng - lắp đặt. Cụ thể như sau:

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

9


* Đối với bảo hiểm xây dựng.
 Rủi ro được bảo hiểm.
Trách nhiệm của công ty bảo hiểm phát sinh đối với người được bảo hiểm khi tổn
thất xảy ra do các rủi ro chính như sau:
- Cháy, sét đánh, nước chữa cháy hay phương tiện chữa cháy.
- Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần
- Các loại bão tố, cuồng phong
- Động đất, sụt lở đất đá
- Mất trộm, cắp, cướp
- Thiếu kinh nghiệm, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người
Ngoài ra, tuỳ vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ sung
thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung từng công việc.
 Rủi ro loại trừ.
Phạm vi bảo hiểm xây dựng phải tuân theo một số điểm loại trừ mà thị trường
bảo hiểm quốc tế thường áp dụng. Các điểm loại trừ này thường ghi trong đơn bảo
hiểm như sau:
Loại trừ chung cho thiệt hại vật chất và trách nhiệm đối với người thứ
ba. Các rủi ro loại trừ trong phần này gồm:
+ Chiến tranh, xâm lược, hành động thù địch của nước ngoài
+ Những rủi ro hạt nhân: phản ứng hạt nhân, phóng xạ hạt nhân hay nhiễm
phóng xạ

+ Các hành vi có tính vi phạm của người được bảo hiểm
+ Ngừng công việc dù là toàn bộ hay một phần
Những điểm loại trừ áp dụng cho bảo hiểm thiệt hại vật chất
+ Bất kỳ loại tổn thất nào có tính chất hậu quả
+ Hỏng hóc cơ khí/ điện hay sự trục trặc của máy móc, trang thiết bị xây dựng.
+ Lỗi thiết kế
+ Chi phí thay thế, sửa chữa hay khắc phục các khuyết tật của nguyên vật liệu
và/hoặc do tay nghề (các tổn thất hư hại do hậu quả thì được bảo hiểm)
- Những điểm loại trừ áp dụng cho bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ
ba.
+ Khỉếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được
bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây dựng

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

10


+ Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột chống
* Đối với bảo hiểm Lắp đặt.
 Rủi ro được bảo hiểm.
Rủi ro chính được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt được chia làm ba loại chính
như sau:
- Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió mạnh (do
bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ, lụt, ngập lụt, đóng băng, sét đánh, cháy do
sét đánh hay do hoạt động của núi lửa, đất đá lún.
- Rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn (nổ vật lý), chân không
(nổ bên trong), nhiệt độ quá lớn (đoản mạch), lực li tâm, lỗi nguyên, vật liệu, mất kiểm
soát, phản ứng hoá học, lỗi của hệ thống hay thiết bị điều hành hay điều khiển
 Rủi ro loại trừ.

Giống như bảo hiểm xây dựng, trong đơn bảo hiểm lắp đặt, các loại trừ cũng
được chia làm ba loại chính:
- Loại trừ chung áp dụng cho cả bảo hiểm thiệt hại vật chất và bảo hiểm trách
nhiệm đối với người thứ ba
- Những điểm loại trừ áp dụng cho bảo hiểm thiệt hại vật chất
+ Các khoản miễn thường
+ Mọi tổn thất có tính chất hậu quả bao gồm tiền phạt, tổn thất do chậm trễ, do
không thực hiện được công việc, thiệt hại mất hợp đồng
+ Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu
+ Các hiện tượng ăn mòn, mài mòn, oxy hoá, mục rữa do ít sử dụng hay diễn ra
trong điều kiện áp suất, nhiệt độ bình thường
+ Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu, chứng chỉ thanh toán
+ Mất mát, thiệt hại chỉ phát hiện được vào thời điểm kiểm kê
- Những điểm loại trừ áp dụng cho bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba.
+ Mức khấu trừ quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
+ Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt hại
được bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất.
+ Trách nhiệm đối với thương tật của con người/ công nhân tham gia vào quá
trình thi công công việc.
+ Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản lý
của bất cứ người được bảo hiểm nào.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

11


+ Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới. tàu (biển, sông), máy bay.
+ Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ quy định trong hợp đồng
bảo hiểm.

 Giá trị Bảo hiểm, số tiền, phí Bảo hiểm

* Đối với Bảo hiểm xây dựng.
 Giá trị bảo hiểm.
Do tính chất của ngành xây dựng, mỗi công trình xây dựng bao gồm nhiều hạng
mục khác nhau nên để xác định chính xác giá trị bảo hiểm (GTBH) rất phức tạp, Trong
bảo hiểm xây dựng,giá trị bảo hiểm là giá trị của phần công tác xây dựng, thường là
giá trị ước tính và là một trong các giá trị sau: tổng giá trị khôi phục lại công trình
trong trường hợp công trình bị tổn thất toàn bộ; giá trị dự toán công trình theo hợp
đồng xây dựng,do đó cần phải xác định các giá trị sau:
- Giá trị bảo hiểm của công trình xây dựng: là toàn bộ chi phí tính tới khi kết thúc
thời gian xây dựng. Có thể là một trong các giá trị sau:
+ Tổng giá trị khôi phục lại công trình sau khi có rủi ro lớn nhất xảy ra
+ Giá trị bằng tổn thất lớn nhất có thể xảy ra
+ Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng
+ Giá trúng thầu công trình
Trên thực tế thường lấy giá dự toán hoặc giá giao thầu cộng thêm các khoản dự
phòng, bao gồm: chi phí cho công tác chuẩn bị mặt bằng (đào đắp, san nền, mở đường
chở nguyên vật liệu….); giá trị các công trình tạm thời phục vụ thi công (kênh dẫn
nước, đường điện-nước, hệ thống chiếu sáng….); giá trị các hạng mục công trình xây
dựng (móng, nền, tường, trần, mái…); chi phí chạy thử máy móc thiết bị mới
- Máy móc xây dựng: được xác định theo giá trị thay thế mới của hạng mục, tức
là giá trị của một máy móc mới có chức năng tương đương có thể mua tại thời điểm đó
để thay thế máy móc bị tổn thất.(bao gồm giá mua + chi phí vận chuyển lắp đặt).
- Trang thiết bị xây dựng:dự kiến trang thiết bị tại thời điểm tập trung cao nhất
trong quá trình xây dựng. Còn cách khác là xác định theo từng giai đoạn của công
trình hay bảo hiểm toàn bộ giá trị của trang thiết bị xây dựng cần dùng cho cả công
trình.
- Tài sản xung quanh và tài sản hiện có trên công trường: là giá trị thực tế của tài
sản vào thời điểm yêu cầu bảo hiểm.


SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

12


- Chi phí dọn dẹp hiện trường: được xác định bằng một tỷ lệ so với GTBH của
công trình.
 Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm được xác định dựa vào giá trị các hạng mục vừa nêu trên và sự
thoả thuận của hai bên. Thông thường người bảo hiểm thuyết phục người được bảo
hiểm tham gia bảo hiểm ngang giá trị. Trong trường hợp người được bảo hiểm tham
gia bảo hiểm dưới giá trị sẽ áp dụng phương pháp bảo hiểm theo tỷ lệ đối với các thiệt
hại xảy ra. Số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm xây dựng được xác định theo giá
trị bảo hiểm. Trường hợp phát sinh yếu tố làm tăng giá trị bảo hiểm, người được bảo
hiểm phải khai báo kịp thời và nộp thêm phí, nếu không, quy tắc tỷ lệ sẽ được áp dụng
khi bồi thường (bảo hiểm dưới giá trị)
Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba: hạn mức trách nhiệm
không vượt quá 50% STBH công trình xây dựng, tối đa 3triêu USD. Tuy nhiên hạn
mức trách nhiệm có thể được thoả thuận cao hơn. Đặc biệt nhà bảo hiểm cần giới hạn
trách nhiệm cho các rủi ro có tính thảm hoạ như động đất, núi lửa, bão…
* Đối với Bảo hiểm lắp đặt.
 Giá trị bảo hiểm.
Đối với bảo hiểm lắp đặt là giá trị của các thiết bị được lắp đặt. Giá trị bảo hiểm
này được tính bằng giá trị thay thế mới của bất kì một máy móc hay thiết bị mới tương
đương gồm : giá mua, chi phí kĩ thuật, cước phí vận chuyển, phí hải quan, chi phí lắp
đặt và phí kho bãi.
GTBH trong bảo hiểm lắp đặt được tính cho tùng hạng mục, bao gồm:
- Giá trị bảo hiểm của công trình: là giá trị đầy đủ của từng hạng mục tính đến
thời điểm hoàn thành việc lắp đặt (bao gồm cả cước phí vận tải, các loại thuế và chi

phí)
- Máy móc, trang thiết bị: được xác định theo giá trị thay thế máy móc, thiết bị
tương đương (giá mua + chi phí vận chuyển, lắp đặt…)
- Tài sản xung quanh và tài sản hiện có trên công trường: giá trị thực tế của tài
sản vào thời điểm yêu cầu bảo hiểm.
Chi phí dọn dẹp: được xác định bằng một tỷ lệ so với GTBH của công trình
.Khi xác định giá trị bảo hiểm cần dự kiến chi phí cần thiết để di chuyển chất phế thải
xây dựng, đất đá sau khi xảy ra tổn thất lớn nhất. Thông thường khoản chi phí này
khoảng 5-10% giá trị hợp đồng xây lắp là đủ.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

13


Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị bảo hiểm và sự thoả thuận giữa hai
bên. Thông thường số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt bằng giá trị bảo hiểm.
Đối với phần bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với
người thứ ba thì số tiền bảo hiểm hoàn toàn dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
* Phí bảo hiểm
Hiện nay, các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đang áp dụng
biểu phí dựa vào Quyết định số 33/2004/QĐ-BTC ngày 12/4/2004 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính về việc ban hành Quy tắc, Biểu phí bảo hiểm xây dựng - lắp đặt. Cụ thể như
sau:
Phí bảo hiểm xây dựng.
Phí bảo hiểm xây dựng = phí bảo hiểm tiêu chuẩn + phụ phí mở rộng.
 Phí bảo hiểm tiêu chuẩn
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn là phần phí bảo hiểm cho cấu trúc chủ yếu của công trình
xây dựng, với những rủi ro tiêu chuẩn. Bao gồm các rủi ro thiên tai, các rủi ro bất ngờ
và các rủi ro khác như tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm…

Phí cơ bản tối thiểu: đó là phí lưu kho tại khu vực công trường kể từ khi nguyên
vật liệu được bốc dỡ từ trên phương tiện vận chuyển xuống. Thời gian lưu kho trước
khi xây dựng là không quá 3 tháng. Ngoài ra còn có chi phí xây dựng hoặc lắp đặt
công trình, chạy thử cho máy móc mới.
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn = Phí cơ bản + Phụ phí rủi ro động đất+ phụ phí rủi ro lũ
lụt
 Phí cơ bản : là phẩn phí tối thiểu tính cho từng loại công trình xây dựng theo
thời gian xây dựng tiêu chuẩn. Phí cơ bản được tính bằng tỷ lệ phần nghìn so với số
tiền bảo hiểm của công trình.
 Phụ phí cho rủi ro động đất: là mức phụ phí được tính cho từng loại công trình
xây dựng, phụ thuộc vào độ nhạy cảm của công trình đối với rủi ro động đất. Theo
mức độ tăng dần, độ nhạy cảm của công trình xây dựng được xếp thành 5 loại; C, D,
E, F, G. Và khu vực xây dựng công trình được chia thành 2 khu vực là: 0 và 1.
o Khu vực 1: bao gồm các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Hà Tây, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên.

o Khu vực 0: bao gồm các tỉnh còn lại

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

14


Bảng 1: Biểu phí rủi ro động đất
Độ nhạy cảm của

Phụ phí rủi ro động đất
Khu vực 0


Khu vực 1

C

0

0.20

D

0

0.22

E

0

0.24

F

0

0.26

G

0


0.30

công trình

Nguồn: Bộ Tài chính

Phụ phí rủi ro động đất được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên số tiền bảo hiểm của
công trình theo năm. Nếu công trình xây dựng có thời gian xây dựng trên hoặc một
năm được tính như sau:
Phụ phí động đất = Phí cho 1 năm x thời hạn bảo hiểm /12 tháng
 Phụ phí cho rủi ro lũ lụt : Mức phụ phí này được tính cho một năm và xác
định căn cứ vào tính chất của từng loại công trình chịu tác động của rủi ro lũ lụt
- Sức chịu đựng của công trình đối với tác động của lũ lụt: có 3 sức chịu đựng
là I, II, III, Khu vực rủi ro nơi tiến hành công trình xây dựng: có 3 khu vực là 1,2,3.
+ Khu vực 1: ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có khoảng cách tới sông, hồ, biển hay
nhánh sông ít nhất từ 1km trở lên. Độ cao trung bình so với mặt nước biển là 25m, không
có các trận mưa rào với lượng nước quá lớn
+ Khu vực 2: Vùng chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có khoảng cách tới sông, hồ, biển
hay nhánh sông dưới 1 km, độ cao trung bình dưới 10m so với mặt nước biển, lượng
mưa cao nhất ghi nhận được là 40-100mm/24h.
+ Khu vực 3: Vùng chịu ảnh hưởng rất nhiều của mưa lũ, có khoảng cách tới
sông, hồ, biển, nhánh sông dưới 300m và độ cao trung bình so với mặt nước biển dưới
3m, lượng mưa trên 100mm/24h.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

15


Bảng : Biểu phụ phí cho rủi ro lũ lụt

Sức chịu đựng của

Khu vực rủi ro lũ lụt

công trình

1

2

3

I

0.05

0.15

0.25

II

0.10

0.20

0.30

III


0.20

0.30

0.40
Nguồn: Bộ Tài chính

Tỷ lệ phụ phí trên xác định bằng phần nghìn và tính cho 1 năm.
Phụ phí = Thời gian thi công / 12 tháng x Tỷ lệ phụ phí( 1 năm)
Vậy:
Phí tiêu chuẩn = Phí cơ bản tối thiểu + Phụ phí động đất + Phụ phí lũ lụt
Tỷ lệ phí xác định bằng tỷ lệ phần nghìn trên số tiền bảo hiểm của công trình và
tuỳ thuộc vào thời gian thi công.
Ngoài ra, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu mức khấu trừ do Bộ Tài
chính ban hành (không có giảm phí). Trường hợp áp dụng mức khấu trừ tăng thì phí
bảo hiểm được giảm xuống theo những tỷ lệ tương thích. Hiện nay, biểu phí bảo hiểm
giảm đang đựơc nhiều công ty bảo hiểm áp dụng.
 Phụ phí mở rộng
Phụ phí mở rộng là phần phí bảo hiểm đối với việc mở rộng bảo hiểm, bao gồm:
phụ phí bảo hiểm cho chi phí dọn dẹp; phụ phí bảo hiểm cho tài sản xung quanh và
hiện có trên công trường; phụ phí bảo hiểm cho trang thiết bị xây dựng; phụ phí bảo
hiểm cho máy móc xây dựng; phụ phí bảo hiểm cho trách nhiệm dân sự đối với người
thứ ba.
- Phụ phí bảo hiểm cho chi phí dọn dẹp, cho tài sản xung quanh và hiện có trên
công trường, cho trang thiết bị xây dựng được tính bằng cách lấy tỷ lệ phí tiêu chuẩn
nhân (x) với STBH của các hạng mục đó; hay cũng có thể cộng (+) STBH của các
hạng mục đó với STBH của công trình rồi tính chung cùng tỷ lệ phí.
- Phụ phí bảo hiểm máy móc xây lắp được tính theo tỷ lệ phần nghìn trên STBH
của máy móc xây lắp và tính theo nhóm máy móc và khu vực. Phụ phí này có thể được


SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

16


tính cho từng năm. Nếu yêu cầu bảo hiểm trên một năm thì tính thêm phụ phí theo
tháng, nếu ngắn hơn một năm thì tính theo biểu phí ngắn hạn.
- Phí bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba, thì theo Quyết định số 33, được
tính bằng 5% phí của phần bảo hiểm thiệt hại vật chất, với hạn mức trách nhiệm không
vượt quá 50% STBH và không quá 3triệu $ (với điều kiện bảo hiểm thệt hại vật chất
và bảo hiểm trách nhiệm trong cùng một hợp đồng bảo hiểm).
Bảng : Mức khấu trừ đối với thiệt hại vật chất.
1. Đối với các công trình có giá trị dưới 50 triệu Đô la Mỹ:
Giá trị bảo hiểm
(USD)

Mức khấu trừ loại "M"
Đối với rủi
ro thiên tai

Đối với rủi
ro khác

Mức khấu trừ loại "N"
Đối với ro ro
thiên tai

Đối với rủi ro
khác


500.000

5.000

1.000

7.500

2.000

1.000.000

7.500

1.500

10.000

2.000

5.000.000

10.000

3.000

15.000

4.000


30.000.000

15.000

4.000

25.000

7.500

50.000.000

25.000

5.000

35.000

10.000

2. Đối với các công trình có giá trị từ 50 triệu Đô la Mỹ trở lên:
Mức khấu trừ sẽ do doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thoả thuận,
được xác định trên cơ sở mức khấu trừ tương ứng với giá trị công trình của một công
ty đứng đầu nhận tái bảo hiểm được các tổ chức định giá quốc tế xếp hạng có khả năng
tài chính tốt (Standard & Poor's xếp hạng từ BBB trở lên, Moody's xếp hạng từ A trở
lên…) cung cấp.
Ghi chú: M, N là các ký hiệu quy định về loại mức khấu trừ.

 Phí bảo hiểm lắp đặt.
Về cơ bản, phương pháp tính phí bảo hiểm lắp đặt giống bảo hiểm xây dựng, chỉ

có một số điểm khác là:
- Phí cơ bản tối thiểu trong bảo hiểm lắp đặt tối thiểu là 300 đôla Mỹ hoặc tương
đương bằng các loại tiền khác.
- Việc xác định phụ phí rủi ro lũ lụt phụ thuộc vào sức chịu đựng của công trình
đối với tác động của gió, bão, lũ, lụt.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

17




Hợp đồng bảo hiểm

Xét trên phương diện lý thuyết, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên,
qua đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên với các mong muốn và chủ đích đạt
được những hệ quả pháp lý nhất định là việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ ràng buộc các bên trong quan hệ hợp đồng. Với vai trò là luật do các bên
trong quan hệ hợp đồng tạo ra, về mặt lý luận, các điều khoản quy định trong hợp đồng
cần phải đảm bảo các tiêu chí: đầy đủ, rõ ràng, thống nhất, đơn nghĩa, dễ hiểu trong đó
tiêu chí “rõ ràng” là quan trọng nhất. Tuy nhiên, không ít hợp đồng tồn tại trên thực tế
không phải lúc nào cũng đảm bảo được các tiêu chí nói trên dẫn đến việc các bên
không có cách hiểu thống nhất về nội dung hợp đồng và vấn đề giải thích hợp đồng để
giải quyết tranh chấp được đặt ra. Mục đích của việc giải thích hợp đồng là nhằm làm
rõ nghĩa và phạm vi của hợp đồng hay một điều khoản cụ thể của hợp đồng. Trong
phạm vi bài viết này muốn đề cập và trao đổi với quý độc giả về vấn đề “giải thích hợp
đồng bảo hiểm”.
Khái niệm: Là sự thoả thuận giữa nhà bảo hiểm và người được bảo hiểm về các
rủi ro trong xây dựng và lắp đặt. Người được bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo

hiểm cho nhà bảo hiểm. Nhà bảo hiểm có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo hiểm khi
có rủi ro xảy ra gây tổn thất trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Nội dung: Các bên liên quan trong hợp đồng
+ Các bên liên quan trong hợp đồng
- Bên mua bảo hiểm có các thông tin liên quan như: Tên dự án, đại diện chủ đầu tư,
fax, tài khoản, mã số thuế của nhà đầu tư.
- Bên bán bảo hiểm: Người đại diện, tên công ty, địa chỉ, fax, tài khoản, mã số thuế.
- Các tài liệu của hợp đồng: Giấy yêu cầu bảo hiểm xây dựng, giấy yêu cầu bảo hiểm
lắp đặt, giấy chứng nhận bảo hiểm xây dựng, giấy chứng nhận bảo hiểm lắp đặt, các
sửa đổi bổ sung, danh mục công trình được bảo hiểm .
- Đối tượng bảo hiểm: bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt về vật chất, trách nhiệm dân sự đối
với người thứ 3.
- Người được bảo hiểm: chủ đầu tư và các nhà thầu.
- Người được nhận tiền bảo hiểm .
- Quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên.
- Số tiền bảo hiểm và phương thức trả tiền bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm và phương thức thanh toán.
- Thời hạn bảo hiểm.

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

18


- Giới hạn số tiền bảo hiểm cao nhất nhà bảo hiểm có thể chấp nhận được.
- Mức miễn thường có khấu trừ.
- Điều kiện, điều khoản bổ sung.
- Các quy định khác để giải quyết tranh chấp.
- Chữ ký các bên có liên quan.
1.2 Công tác giám định bồi thường của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt.

Công tác giám định và Bồi thường trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào
cũng có vai trò rất quan trọng. Thực vậy bồi thường là một quy trình không thể thiếu
trong tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm trong mọi lĩnh vực, bồi thường chính là việc doanh
nghiệp bảo hiểm thực hiện lời hứa của mình đối với khách hàng khi có phát sinh rủi ro
nằm trong phạm vi bảo hiểm, còn Giám định là một quy trình giúp nhà bảo hiểm đánh
giá được các tổn thất từ đó mà giúp họ thực hiện được trách nhiệm của mình một cách
công bằng, nói cách khác giám định là điều kiện để thực hiện tốt công tác bồi thường.
1.2.1 Vai trò của công tác giám định và bồi thường tổn thất
Công tác giám định và bồi thường tổn thất có vai trò rất quan trọng trong nghiệp
vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Kết quả của khâu này là cơ sở để công ty bảo hiểm
phân định trách nhiệm bảo hiểm và xác định số tiền bồi thường. Nếu việc giám định
không chính xác dẫn đến bồi thường không đúng, nếu bồi thường vượt quá so với thực
tế gây thâm hụt ngân quỹ của công ty, nếu bồi thường thấp hơn thực tế gây mất lòng
tin của khách hàng. Tất cả đều ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của công ty. Mặt khác
nếu công tác giám định không được tiến hành nhanh chóng thì công tác bồi thường
không thể kịp thời được. Đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt việc
bồi thường chậm trễ dẫn đến ngưng trệ công trình, làm chậm tiến độ của dự án gây
thiệt hại cho chủ đầu tư.
Giám định và bồi thường tổn thất ảnh hưởng rất lớn đến khâu khai thác. Bởi do
đặc thù của sản phẩm bảo hiểm là vô hình, khách hàng chỉ nhận được lời hứa là sẽ bồi
thường khi có tổn thất xảy ra trong phạm vi bảo hiểm chứ không nhìn rõ hình dáng
chất lượng sản phẩm đó như thế nào. Họ chỉ thực sự cảm thấy mình có được sản phẩm
khi tổn thất xảy ra. Chính vì vậy mà, việc giám định và bồi thường phải được thực
hiện nhanh chóng chính xác và kịp thời để tạo niềm tin cho khách hàng. Có như vậy
mới giúp tăng uy tín của công ty, tạo được các khách hàng quen thuộc. Đây cũng là

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

19



một trong những biện pháp quảng cáo hiệu quả nhất giảm được chi phí cho công ty vì
việc lôi kéo một khách hàng mới tốn kém hơn rất nhiều việc giữ một khách hàng cũ.
Ngoài ra công tác giám định trợ giúp rất lớn tới công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thông qua công tác này giúp cho việc phân loại và tổng kết những rủi ro chính thường
xảy ra của từng loại công trình, địa hình…Qua đó giúp đề ra biện pháp đề phòng hạn
chế tổn thất hiệu quả hơn và vì thế giúp giảm tỷ lệ bồi thường, tăng lợi nhuận cho công
ty, giúp giảm phí bảo hiểm tạo lợi thế cạnh tranh.
1.2.2 Nội dung của công tác giám định bồi thường tổn thất
1.2.2.1. Đối với công tác giám định
a. Những yêu cầu của công tác giám định
Khi xảy ra tổn thất mà được khách hàng thông báo thì các giám định viên phải
làm việc một cách nhanh chóng. Ngay sau khi nhận được thông báo tổn thất, giám
định viên phải đến ngay hiện trường để ghi chép các thông tin ban đầu, giám định thiệt
hại và thu thập các chứng từ cần thiết. Trong trường hợp tổn thất phức tạp chưa thể
thực hiện được việc giám định toàn diện và chưa thu thập được đầy đủ thông tin ngay
một lần vào thời điểm giám định đầu tiên thì phải niêm phong hiện trường và các
chứng từ hoá đơn có liên quan đến số lượng giá trị của tài sản bị tổn thất để phục vụ
cho việc điều tra giám định tiếp theo. Việc giám định có thể được thực hiện theo từng
bước từ sơ bộ đến chi tiết tuỳ theo tính chất phức tạp của từng vụ tổn thất cụ thể.
Trong trường hợp tổn thất được xác định không thuộc trách nhiệm bảo hiểm phải
thông báo chính thức bằng văn bản cho người được bảo hiểm kèm theo những lời giải
thích thoả đáng.
Đối với những tổn thất vượt quá mức bồi thường của công ty hoặc những tổn
thất có nguyên nhân phức tạp khó xác định phải báo ngay về công ty để có biện pháp
xử lý kịp thời. Đối với tất cả các đơn bảo hiểm có phát sinh tái bảo hiểm chỉ định thì
khi có bất cứ tổn thất nào xảy ra phải báo cáo ngay lập tức về công ty và nếu có thể thì
thông báo ngay cho công ty môi giới và công ty nhận tái bảo hiểm chỉ định biết.
Trong trường hợp đặc biệt nếu việc giám định không thực hiện được đầy đủ do
hiện trường bị xáo trộn, hoá đơn chứng từ bị phá huỷ thì có thể căn cứ vào biên bản

của các cơ quan chức năng, khai báo của người được bảo hiểm, bằng chứng, ảnh
chụp, hiện vật thu được, kết quả điều tra và thẩm định sau đó của công ty. Trong

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

20


trường hợp này giám định viên cũng phải lập một biên bản ghi rõ những thông tin nào
có thể xác định được và thể hiện đầy đủ các tình huống như đề cập ở trên và nêu đánh
giá của mình về mức độ tổn thất và trách nhiệm của công ty. Nếu tổn thất có thể gây ra
bởi bất kì bên thứ 3 nào thì đồng thời với việc giám định, giám định viên phải hướng
dẫn người được bảo hiểm tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để có thể đòi bồi
thường từ bên thứ 3 đó như làm công văn dự kháng hoặc công văn khiếu nại gửi bên
thứ 3 đó, mời đại diện cùng tham gia giám định để xác định mức độ thiệt hại. Trong
quá trình giám định người được bảo hiểm hoặc người đại diện của người được bảo
hiểm phải có mặt và kí xác nhận về những lời khai của mình và những chứng từ đã
cung cấp cho giám định viên nhằm phục vụ cho công tác giám định .
Trong quá trình giám định phải tạo bầu không khí tin cậy và hợp tác giữa người
được bảo hiểm và giám định viên nhưng tuyệt đối không đưa ra bất kỳ cam kết nào về
số tiền bồi thường để tránh trường hợp khách hàng che giấu những thông tin cần thiết
hoặc cung cấp những thông tin sai lệch. Để thực hiện được đầy đủ mục đích của công
tác giám định như đề cập ở trên người giám định viên phải là người phẩm chất trung
thực, khách quan, có hiểu biết về đối tượng tài sản cần giám định và phải hiểu biết sâu
sắc về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm mà hạng mục tài sản tổn thất đang được bảo
hiểm theo những điều kiện và điều khoản đó
Trong trường hợp người được bảo hiểm không nhất trí với kết quả giám định
của người bảo hiểm họ có thể mời giám định viên của mình để giám định lại. Nếu kết
quả không thống nhất thì giám định của hai bên phải cùng bàn bạc để đi đến một kết
quả thống nhất. Ngược lại, hai bên cùng chỉ định một giám định chung và kết quả

giám định lần này mang tính bắt buộc với cả hai bên. Nếu công ty tái bảo hiểm với
mức trách nhiệm lớn hơn nhiều so với mức giữ lại thì công ty tái bảo hiểm có thể chỉ
định giám định viên.
Sau khi đã giám định chi tiết và đã có đầy đủ các thông tin cần thiết thì bộ phận
giám định phải lập ngay biên bản giám định trong đó thể hiện đầy đủ nội dung cần
thiết. Trong biên bản phải có ảnh chụp kèm theo biên bản giám định về những hạng
mục tài sản bị tổn thất trong đó có đánh dấu những vị trí hoặc khu vực bị hư hại. Nếu
tổn thất phức tạp dẫn đến việc giám định và thu thập thông tin phải kéo dài không thể
lập được ngay biên bản giám định sơ bộ để ghi nhận những sự việc và thông tin đã thu
thập được tại từng thời điểm nhất định ước tính mức độ tổn thất trước khi có đầy đủ
thông tin để lập biên bản giám định cuối cùng. Nếu tổn thất đã được một công ty giám
định và tính toán tổn thất chuyên về bảo hiểm điều tra giám định thì giám định viên

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

21


của công ty bảo hiểm phải cộng tác và phối hợp chặt chẽ với giám định viên của công
ty giám định đó trong việc điều tra và thu thập các thông tin cần thiết để việc giám
định được thực hiện chính xác và kết thúc nhanh chóng.
b. Quy trình giám định
* Nhận thông báo tổn thất
Khi xảy ra những sự kiện bảo hiểm thuộc phạm vi bồi thường theo hợp đồng bảo
hiểm, người được bảo hiểm có trách nhiệm thông báo ngay cho người bảo hiểm bằng
các phương tiện thông tin và sau đó là bằng văn bản nêu rõ tính chất và mức độ tổn
thất. Sau khi thông báo người được bảo hiểm có trách nhiệm phải giữ nguyên hiện
trường, bảo quản các bộ phận bị tổn thất đồng thời thực hiện mọi biện pháp trong
phạm vi khả năng của mình để hạn chế tổn thất ở mức thấp nhất.
Đối với các công ty bảo hiểm, khi nhận thông báo tổn thất cần yêu cầu khách

hàng cung cấp các giấy tờ sau:
- Thông báo chi tiết bằng văn bản về tổn thất
- Giấy yêu cầu giám định (theo mẫu của người bảo hiểm)
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Hóa đơn thanh toán phí bảo hiểm
- Xác nhận của nhân chứng về tai nạn hoặc sự cố
Sau đó nhà bảo hiểm cần kiểm tra lại các thông tin có liên quan như: Đơn/Hợp
đồng bảo hiểm có liên quan, thời điểm xảy ra tổn thất và nơi xảy ra tổn thất, mức miễn
thường/các điểm loại trừ áp dụng, và đánh giá sơ bộ xem tổn thất có thuộc trách nhiệm
bảo hiểm hay không.
Thời gian kiểm tra không quá 1/2 ngày.
* Giám định và tính toán tổn thất.
Ngay sau khi nhận được thông báo tổn thất của người được bảo hiểm, nhà bảo
hiểm phải lập tức cử người tới hiện trường để tiến hành giám định,xem xét tổn thất,
tiến hành tính toán tổn thất. Công việc này nhằm mục đích:
- Xác định được nguyên nhân gây ra tổn thất có thuộc trách nhiệm bảo hiểm hay
không.
- Tính toán tương đối chính xác mức độ tổn thất thực tế
- Xác định số tiền bồi thường thuộc trách nhiệm bảo hiểm, tạo điều kiện giải
quyết bồi thường nhanh chóng, chính xác.
- Đề xuất với người được bảo hiểm những biện pháp hạn chế tới mức thấp nhất

SV: Tống Xuân Hưng – BHTM 48

22


×