Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn thể dục lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.97 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THCS&THPT THỐNG NHẤT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU
KÉM
TIẾN BỘ TRONG MÔN THỂ DỤC LỚP 10

Người thực hiện: Trương Văn Đồng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Thể dục

THANH HOÁ NĂM 2017
1


MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.3. Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn

Trang


1
2
2
2
2
3
3
4
5

thế dục lớp 10
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

16
17
17
17
18
19

2


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời
sự. Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỉ lệ học sinh yếu, kém ở các trường
THPT không phải là ít, trong đó phải kể đến tỉ lệ học sinh yếu, kém môn Thể
dục. Trong khi đó, môn Thể dục có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng
trong giáo dục phổ thông. Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến
thức cơ bản, bao gồm các kiến thức về các nội dung môn học, các kĩ thuật động
tác, các phương pháp tập luyện và thi đấu, các điều luật và cách thức làm trọng
tài của môn học, ngoài ra còn rèn cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp,
phân tích đánh giá, suy luận, phán đoán; kỹ năng vận dụng kiến thức vào tập
luyện, thi đấu, kỹ năng đọc tình huống. Học tốt môn Thể dục giúp các em có cơ
thể cường tráng, khỏe mạnh, có được tinh thần thoải mái để phục vụ học tập và
lao động trong cuộc sống. Việc nắm vững kiến thức cơ bản góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt
động sản xuất và hoạt động hằng ngày.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về
năng lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em
tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt
động trên lớp. Đặc biệt, các nội dung có nhiều động tác khó tập luyện, yêu cầu
sự hoạt động phối hợp của nhiều nhóm cơ vào vận động. Nội dung bài học sau
các em muốn vận dụng được cần phải nhớ, hiểu, vận dụng lại kiến thức đã học ở
bài trước, lớp trước. Nếu học sinh đã rỗng kiến thức về các động tác cơ bản thì
việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt dẫn đến ghi nhớ máy móc
không hiểu bản chất động tác nên chán học và học yếu, kém bộ môn.
Hiện nay việc dạy học môn thể dục ở trường THPT nói chung và trường
THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp dụng nhiều phương pháp dạy
học tích cực, song việc phân loại để cung cấp “những lỗ hổng kiến thức” cho
các em học sinh yếu kém vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, GV
chưa có biện pháp tác động đến tình cảm, chưa gây được hứng thú học tập cho
học sinh.
Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện thuận lợi giúp tôi tìm

hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp
nhằm giúp những học sinh yếu kém có thể nắm được bài học và hoà nhập vào
hoạt động học trên lớp cùng các bạn.
Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên việc lấp “lỗ hổng” kiến thức môn thể
dục để các em có một nền tảng kiến thức vững chắc là cần thiết, tạo điều kiện
cho các em học tập tiếp lên các lớp trên và có được sự tự tin trong cuộc sống. Do
đó, giáo viên cần có biện pháp dạy học phù hợp giúp các em nắm chắc kiến thức
cơ bản, có kĩ năng thực hiện bài tập, tích cực, hứng thú trong giờ học, từ đó
thoát khỏi tình trạng yếu kém môn thể dục. Khi học tốt hơn môn thể dục thì việc
định hướng nghề nghiệp tương lai cho các em sẽ rộng mở hơn, các em sẽ lựa
3


chọn được các trường đại học, cao đẳng khối T để thi, hoặc các trường cao đẳng,
trung cấp nghề phù hợp với sở thích, năng lực sức khỏe của mình.
Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp sư phạm giúp
học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Thể dục lớp 10”
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua đề tài này, tôi mong muốn tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu kém
môn Thể dục, từ đó có những biện pháp giúp các em yêu thích, hứng thú hơn đối
với môn học này cũng như các môn học khác. Tạo cho các em học sinh yếu kém
có ý chí vượt qua khó khăn, rèn luyện tính kiên trì, cẩn thận và tự tin vươn lên
trong học tập.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề
dạy đối tượng HS yếu kém môn Thể dục.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn thể
dục lớp 10.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lý luận dạy học.

- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

4


2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1.1. Quan điểm của dạy học phân hoá
Dạy học phân hoá là cách thức dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các
hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, nhu cầu
nhận thức, các điều kiện nhận thức, nhằm tạo ra những kết quả học tập và sự
phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng giáo dục, tức là đảm
bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học
Những cấp độ và hình thức dạy học phân hoá:
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: là tìm kiếm các phương pháp, kĩ thuật
dạy học để mỗi học sinh nhóm học sinh, với nhịp độ học tập khác nhau trong giờ
học đều đạt kết quả mong muốn.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vi mô bao gồm dạy học phân hoá nội tại và
dạy học phân hoá về tổ chức.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô là sự tổ chức quá trình dạy học thông
qua cách tổ chức các loại trường lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác
nhau, xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau.
Một số hình thức dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: Phân ban, dạy tự
chọn, phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, phân luồng. [8]
2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực
Thuật ngữ “Phương pháp dạy học tích cực” được dùng để chỉ những

phương pháp gi áo dục, dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học .
Trong dạy học tích cực hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp
tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực đem lại cho người
học hứng thú niềm vui trong học tập, nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động
của trẻ em. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp
các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. [1, trang 22]
Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra sự
chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, phát huy khả năng tự
học ngay từ những lớp nhỏ ở trường phổ thông, tự học không chỉ trong giờ lên
lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà cả ở nhà, trong các hoạt động ngoài giờ
lên lớp, không có sự hướng dẫn của giáo viên. [1, trang 23]
Một số phương pháp dạy học tích cực: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề,
dạy học hợp tác (dạy học theo nhóm hoặc thảo luận nhóm), học theo hợp đồng,
học theo góc, học theo dự án, dạy học vĩ mô…
Một số kĩ thuật dạy học tích cực: kĩ thuật đặt câu hỏi, Kĩ thuật khăn phủ
bàn, kĩ thuật mảnh ghép, sơ đồ tư duy, kĩ thuât “KWL”, kĩ thuật hơp tác, kĩ thuật
lắng nghe và phản hồi tích cực…[1]
2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
5


Khi đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, sẽ đặt ra yêu cầu khách quan
phải đổi mới kiểm tra, đánh giá, bảo đảm đồng bộ cho quá trình hướng tới nâng
cao chất lượng dạy học. Khi đổi mới kiểm tra, đánh giá bảo đảm yêu cầu khách
quan, chính xác, công bằng sẽ tạo tiền đề xây dựng môi trường sư phạm thân
thiện, tạo động lực mới thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới công
tác quản lí.
Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao chất lượng đào
tạo. Kết quả của kiểm tra, đánh giá là cơ sở điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động

học và quản lí giáo dục. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan
sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.
Đổi mới kiểm tra đánh giá chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của GV
với tự đánh giá của HS. Sau mỗi kỳ kiểm tra, giáo viên cần bố trí thời gian trả
bài, hướng dẫn HS tự đánh giá kết quả bài làm, tự cho điểm bài làm của mình,
nhận xét mức độ chính xác trong chấm bài của GV. Trong quá trình dạy học và
khi tiến hành kiểm tra, đánh giá GV phải biết “ khai thác lỗi” để giúp HS tự
nhận rõ sai sót nhằm rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy. [2].
Để có được một đề kiểm tra phù hợp thì GV phải nắm vững các quy trình
ra một đề kiểm tra.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Học sinh Trường THCS &THPT Thống Nhất chủ yếu có hộ khẩu thường
trú ở 4 huyện: Yên Định, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ. Đa số các em phải đi
học xa, hoàn cảnh kinh tế lại khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc
học tập. Đặc biệt chất lượng đầu vào rất thấp đã gây không ít khó khăn cho việc
dạy học nói chung và dạy học môn Thể dục nói riêng.
Sự thay đổi về môi trường học tập từ THCS lên THPT ảnh hưởng không
nhỏ tới việc tiếp thu kiến thức, đặc biệt đối với các HS yếu kém. Bởi thầy cô và
bạn bè mới khiến cho những em HS yếu kém vốn đã thiếu tự tin trong học tập
càng trở nên xa lạ với những bài học mới.
Khi dạy môn Thể dục ở lớp 10 tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại phổ biến tình
trạng HS nắm kiến thức cơ bản môn Thể dục ở lớp dưới còn mơ hồ thậm chí
không nhớ tên các môn học cơ bản, các bước, các giai đoạn kĩ thuật, các em
chỉ nắm được một môn nào đó là chính … Vì vậy việc tiếp thu kiến thức mới
của các em gặp rất nhiều khó khăn. Một số em chán nản không muốn học vì
thấy môn học khó thực hiện, số khác tích cực hơn thì quan sát, chú ý nghe giảng
thì có thể vẫn tiếp thu kiến thức ở bài chạy ngắn do lớp dưới các em được tập
luyện nhiều, đến bài thể dục nhịp điệu, bài nhảy cao nằm nghiêng, bài đá cầu
hay bài cầu lông lớp 10 các em không thể theo kịp yêu cầu chung của bài học…
Nhiều em điều kiện học tập thiếu thốn, thiếu: dụng cụ tập luyện, cầu, vợt cầu

lông, trang phục, hố nhảy cao … nên ngại học hoặc muốn học nhưng do điều
kiện thiếu thốn đã cản trở việc học tập của các em. Một số em có tâm lí trông
chờ, lười vận động, ngại tập luyện những bài tập vận dụng lặp đi lặp lại động tác
khi làm thì lóng ngóng, kĩ năng tiếp thu chậm, sợ bẩn, sợ đau…

6


Trong một lớp có sự chênh lệch khá lớn về lực học giữa những em khá
giỏi (Đạt) và những em yếu kém (Chưa Đạt). Điều này càng làm cho những HS
yếu kém thiếu tự tin thường không dám trình bày ý kiến cá nhân, cũng như
không dám nêu thắc mắc của mình trước những vấn đề của bài học.
2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM TIẾN
BỘ TRONG MÔN THỂ DỤC LỚP 10.
2.3.1. NHỮNG BIỆN PHÁP CHUNG
2.3.1.1. Tìm hiểu HS nhằm phân loại đối tượng HS yếu kém thể dục.
Muốn đánh giá đúng đối tượng để từ đó có phương pháp dạy phù hợp và
có những biện pháp cụ thể với từng đối tượng HS yếu kém thì GV cần nắm được
đặc điểm HS yếu kém môn thể dục. GV có thể tìm hiểu thông qua học bạ THCS,
qua GV chủ nhiệm và nắm đối tượng ngay ở những tiết học đầu tiên, tìm hiểu
nguyên nhân và đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp.
* Đặc điểm của học sinh yếu kém môn thể dục
Học sinh yếu kém môn Thể dục học là những học sinh có kết quả học tập
thường xuyên ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường xuyên chưa đạt. Sự yếu kém
của học sinh trong quá trình học tập được thể hiện như sau:
- Các em không thể bắt kịp chương trình học hiện tại, không có khả năng
tự tập luyện ở nhà.
- Học sinh lĩnh hội kiến thức chậm, nắm bản chất động tác còn hời
hợt, hay nhầm lẫn với các động tác khác. Không biết vận dụng vào tập luyện và
thi đấu.

- Sau nhiều lần gặp khó khăn khi tiếp thu bài và thực hiện bài tập, hứng
thú tập luyện đối với môn học giảm sút nghiêm trọng, khiến các em mất tự tin
và rơi vào trạng thái căng thẳng, đối phó cho xong trong các giờ học.
- Học sinh không chịu giao tiếp, không có hứng thú tham gia vào các hoạt
động tập luyện, hoạt động giao lưu giữa thầy và trò, thái độ tập luyện còn thụ
động. Tính tình thì nhút nhát, rụt rè ít khi phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Ở HS có sức học yếu kém hoặc thiếu khả năng học tập thì thường có sức
khỏe yếu, thiếu kĩ năng vận động một cách vững chắc và sâu sắc như các bạn
khác cùng lớp.
Sự yếu kém môn thể dục được biểu hiện ở nhiều hình thức nhưng nhìn
chung HS yếu kém môn thể dục thường có các đặc điểm sau:
- Có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức, kĩ năng vận động.
- Tiếp thu kiến thức chậm.
- Phương pháp học tập môn thể dục chưa tốt, chưa khoa học.
- Thờ ơ với giờ học thực hành, thường xuyên không luyện tập ở nhà, bỏ tiết.
Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm này để có thể giúp đỡ học sinh
yếu kém một cách có hiệu quả.
* Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn thể dục
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn
đến học sinh học yếu kém môn Thể dục đó là
- Nguyên nhân từ học sinh
7


+ Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác,
môn thể dục có nhiều kĩ thuật động tác, nhiều động tác khó, học sinh lười vận
động thiếu vốn kiến thức cơ bản do đó các em tiếp thu kiến thức ngày càng khó
khăn và thiếu hụt.
+ Một số em lười tập luyện vì sợ bẩn, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ
tập luyện dẫn tới không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc tập luyện và

vận dụng vào việc thi đấu.
+ Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong tập luyện, có thói quen lười vận
động hay dựa vào giáo viên.
- Nguyên nhân từ giáo viên
Chưa thật sự quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ
chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật sự tâm lý, chưa động
viên khéo léo kịp thời đối với những những tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ.
Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực
hành môn thể dục.
Không nắm chắc đối tượng HS dẫn tới chưa có phương pháp giáo dục
phù hợp.
Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến
phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, không có phân tích kĩ thuật trên
lớp, bỏ giờ dạy lý thuyết, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc hậu.
Việc kiểm tra đánh giá học sinh chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích
lệ học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười.
Chưa tạo được không khí học tập thân thiện, giáo viên chưa phối hợp tốt
với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh…
- Nguyên nhân từ phụ huynh học sinh và xã hội
Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện cũng như thời gian dành cho
việc học còn thiếu nên kết quả học tập theo đó bị hạn chế.
Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em, thậm chí
khoán trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet và các dịch
vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn. Điều này cũng là một thuận lợi nếu phụ huynh hướng
dẫn con em sử dụng internet cho việc khai thác tài liệu và ôn lại kiến thức…Nhưng
nó cũng có mặt trái khi phụ huynh không quản được con em mình để cho các em
nghiện điện tử, nghiện fecebook…không dành thời gian cho việc học.
Sau khi nắm bắt đặc điểm HS học yếu, kém môn thể dục cũng như nắm
bắt nguyên nhân gây nên. GV phải đưa ra được các biện pháp phù hợp để giúp

những HS này.
2.3.1.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở
Đối với lứa tuổi HS nói chung và HS lớp 10 nói riêng, tình cảm, việc làm,
hành động của các em còn mang tính chất cảm tính. Các em có thể không thích
học môn Thể dục chỉ vì các động tác tập luyện lặp đi, lặp lại đơn điệu và gây
nhàm trán, miệt mỏi. Chính vì vậy, muốn giúp các HS yếu kém môn Thể dục
tiến bộ trước hết phải làm cho các em nhận thức rõ ý nghĩa và tác dụng to lớn
8


của tâp luyện TDTT. Bởi vậy, GV cần phải làm mẫu kĩ thuật động tác đúng, đẹp
gây hứng thú tập luyện đối với học sinh, tạo cảm giác an toàn để các em bày tỏ
những khó khăn trong tập luyện, trong cuộc sống của bản thân mình là yếu tố rất
quan trọng. Sự khích lệ của thầy cô làm các em tự hào về mình, tự tin vào bản
thân và có hứng thú tập luyện thực sự. Để thực hiện được, GV cần:
- Tạo không khí tập luyện thoải mái, nhẹ nhàng, không mắng hoặc dùng
lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà
hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Ví dụ: HS không tập chung
quan sát, đừng vội quát mắng hay trách phạt mà hãy nhắc nhở nhẹ nhàng, hỏi rõ
lý do, và sẵn sàng hướng dẫn lại khi em chưa hiểu bài.
- Khen ngợi kịp thời, đúng lúc. Phải tìm ra ưu điểm để khen thành thật
tránh để các em bị tổn thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ: làm đúng kĩ
thuật, thực hiện động tác đẹp, khen nhãn quang quan sát tốt, khen tập trung nghe
giảng, khen sự phối hợp nhịp nhàng các động tác ...Không đợi HS làm hết kĩ
thuật rồi mới khen tốt. Các em thực hiện tốt từng bước kĩ thuật thì khen
ngay “Đúng rồi, em tực hiện tiếp đi!”. Theo dõi quá trình thực hiện kĩ thuật của
các em, nếu thấy HS bắt đầu làm sai thì phải nhắc ngay để các em không thực
hiện sai động tác tiếp theo, nếu không các em sẽ nản không tự tin để tập luyện.
2.3.1.3. Giáo dục ý thức học tập
GV cần giúp HS xác định đúng động cơ, thái độ học tập: học để có kiến

thức, để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức đó
thành kiến thức của mình. Học để lập thân lâp nghiệp cho cuộc sống tương lai
sau này của chính các em, cho gia đình các em sau đó là phục vụ tổ quốc, phục
vụ nhân dân.
Tôi không quên kể cho các em nghe câu chuyện tấm gương vượt khó:
“Những tấm gương vượt lên trong khó khăn để có thành tích cao” để các em
thấy được muốn học tập tốt thì phải có kế hoạch, ý thức tự giác và kiên trì thì
mới thành công.
2.3.2. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ
2.3.2.1. Những biện pháp giúp đỡ các đối tượng HS
* Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn
Các em bị thiếu đồ dùng học tập, ngoài các buổi đến lớp các em phải đi
làm thêm để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian tập trung cho tập
luyện. GV cần:
- Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em qua hồ sơ, qua GV chủ nhiệm,
qua bạn bè của HS đó.
- Đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một
phần nào các khoản đóng góp có thể được.
- Phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp
bạn có thể mua một số đồ dùng tập luyện, bút, vở, cầu, vợt và nên chủ động cho
các em mượn một số đồ dùng học tập.
- Trao đổi với phụ huynh, động viên gia đình tạo điều kiện cho em học
tập, để các phụ huynh này nhận thức rõ quyền lợi của các em bây giờ là được
9


học, có thể các em sẽ không học tiếp cao đẳng, đại học nhưng các em cần được
học tập để phát triển toàn diện về tư duy, thể chất. Khi có có kiến thức bước vào
cuộc sống các em sẽ có khả năng tư duy linh hoạt trước thử thách của cuộc đời,
việc học là việc cần thực hiện ngay bây giờ, nếu bỏ lỡ sẽ khó hoặc không còn cơ

hội để làm lại, còn “đi làm kiếm tiền” thì sau này sẽ có cả cuộc đời phía trước
để thực hiện.
* Với những HS bị tổn thương, mất cân bằng về mặt tình cảm
Một số em có bố mẹ đi làm ăn xa, ở cùng ông bà hoặc anh em họ hàng
nên thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ. Hay có những em sống trong gia
đình bố mẹ bất hoà, thường xuyên cãi vã, hoặc đã li hôn. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến kết quả học tập của các em vì tâm lý chán nản và bản thân không có
người thường xuyên nhắc nhở, quan tâm. Với đối tượng này, GV nên tìm cách
thường xuyên trò chuyện gần gũi với các em (có thể nói chuyện giờ ra chơi, gọi
điện thoại, kết bạn trên mạng xã hội facebook ) nhằm động viên an ủi để các em
có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, giúp các em trở lại trạng thái cân
bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.
Một số em nảy sinh tình yêu nam nữ quá sớm gây sa sút trong học tập.
Với đối tượng này, GV cần nói chuyện riêng với các em nhằm giúp các em hiểu
được việc cần làm bây giờ là học tập giúp các em có được một nền tảng kiến
thức cơ bản vững chắc, một công việc phù hợp. Đó chính là cơ sở vững chắc để
các em có một tình yêu chân chính.
Đồng thời cùng với GV chủ nhiệm kết hợp liên lạc với phụ huynh phối
hợp uốn nắn, động viên các em.
* Với đối tượng học sinh yếu kém do lười biếng, ham chơi.
Một số HS thường xuyên bỏ giờ ham mê trò chơi điện tử. Một số khác
vẫn đến lớp nhưng không tập luyện, thờ ơ, không chú ý vào bài học. Với đối
tượng này, GV cần:
- Trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt
tốt, mặt xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Động viên những em học
khá trong lớp kết bạn thân để kéo những HS này khỏi sự “ham chơi”. Đồng thời,
phối hợp với phụ huynh để kiểm soát giờ giấc đi học và không cho các em tiền
tiêu vặt.
- Yêu cầu các em tập chung tập luyện và kiểm tra đột xuất để lấy điểm
miệng. Trong các giờ học nên khuyến khích cho các em lên làm mẫu động tác,

có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự
tin và hứng thú học tập hơn.
* Với đối tượng học sinh yếu kém do “hổng” kiến thức cơ bản
Tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong khi các
em không nhớ ngay cả những kiến thức cơ bản tưởng chừng đơn giản ở lớp
dưới. Bản thân các em khi đã mất “gốc” ở lớp dưới rồi có chú ý học bài mới
cũng không thể hiểu mà chỉ có học vẹt sau đó thấy chán nản, thấy môn học quá
khó …(hiện tượng này còn kéo dài mãi ngay cả khi các em học lớp 12 ví dụ
như môn đá cầu có em vẫn không tâng được 10 quả cầu một lần... ). Chính vì thế
10


ngay từ đầu năm lớp 10 GV cần tổ chức ôn tập bổ sung kiến thức cho các em để
HS yếu kém có đủ kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên
lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.
Với kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy ở ngôi trường có nhiều HS yếu
kém, để giúp các em ôn lại kiến thức tôi đã thực hiện.
Ôn tập thường xuyên liên tục các kiến thức Thể dục THCS trọng tâm
Không nắm chắc kiến thức cơ bản là một đặc điểm đặc trưng của HS yếu
kém. Ví dụ các em không nhớ kĩ thuật động tác của từng môn, bản chất của vận
động dẫn đến việc thực hiện sai động tác. Không nhớ nhớ động tác dẫn đến việc
thực hiện các bài tập phối hợp các kĩ thuật động tác có sai lệch.
Bước 1: Ôn tập nội dung chương trình môn học
Để nhớ được nội dung tôi cho các em học thuộc bài các nội dung bằng sơ
đồ mũi tên như sau: Lý thuyết → Thể dục nhịp điệu → Chạy ngắn → Chạy bền
→ Nhảy cao → Đá cầu → Cầu lông → Thể thao Tự chọn( Bóng chuyền, bóng
đá, bóng rổ, bơi, đẩy tạ). Khi các em đã thuộc, định kì tôi vẫn yêu cầu nhắc lại
mà quên nhắc các em nhớ lại bài cho đúng.
Bước 2: Nội dung cơ bản của từng môn học bằng lược đồ tư duy để
HS nắm lại một cách tổng quát.

Để nắm vững nội dung cơ bản của từng môn học thì tôi yêu cầu các em
lập sơ đồ để các em dễ nhớ.
VD:
TT Môn học
Nội dung cơ bản
Ghi chú
1
Lý thuyết
- Phương pháp tự tập luyện TDTT
- Sư dụng các yếu tố thiên nhiên và vệ sinh để
rèn luyện sức khỏe
2
Thể dục NĐ Bài tập gồm 16 động tác
3
Chạy ngắn
- Một số trò chơi, Đt bổ trợ KT và PT sức mạnh
- Tâp hoàn chỉnh các giai đoạn KT chạy nhanh
- Một số điểm trong luật điền kinh( Chạy ngắn)
4
Chạy bền
- Một số trò chơi luyệ cách thở và ĐT bổ trợ KT
- Chạy trên địa hình tự nhiên theo nhóm SK, GT
- Một số động tác hồi tỉnh sau khi chạy
5
Nhảy cao
- Một số trò chơi, Đt bổ trợ KT và PT sức mạnh
chân
- Hoàn chỉnh KT các giai đoạn KT nhảy cao kiểu
“Nằm nghiêng”
- Một số điểm trong luật điền kinh( Nhảy cao)

6
Đá cầu
- Một số trò chơi, Đt bổ trợ KT và PT sức mạnh
và sự khéo léo của chân. Di chuyển nhiều bước
- Tâng “ búng” cầu.
-Chuyền cầu bằng mu bàn chân
- Đá tấn công bằng mu bàn chân
- Phát thấp nghiêng mình
11


- Một số bài tập phối.
- Một số điểm trong luật đá cầu
- Một số trò chơi, Đt bổ trợ KT và PT sức mạnh
tay.
- Cách cầm vợt và tư thế chuẩn bị. Di chuyển
- Đánh cầu thấp thuận tay và trái tay.
- Phát cầu thấp – gần, cao – thuận tay.
-Một số điểm trong luật đá cầu.

7

Cầu lông

8

Thể thao TC *. Bóng chuyền:
- Một số trò chơi, Đt bổ trợ KT và PT sức mạnh
tay.
- Tư thế chuẩn bị. di chuyển

- Chuyền bóng cao tay bằng hai tay.
- Đệm bóng – phát bóng chính diện.
- Một số điểm trong Luật bóng chuyền

Bước 3: Ôn tập lại các kĩ thuật đã học động tác sau đó áp dụng để vào
thi đấu tập
Việc đầu tiên HS phải xác định được các kĩ thuật động tác ở từng môn
trong chương trình thể dục 10
Lượng kiến thức ôn lại cho các em nhiều động tác nên không thể nóng
vội tập luyện cùng một lúc thì các em HS đã học yếu sẽ nản thay vào đó tôi chia
nhỏ khối lượng kiến thức ra ôn tập và luyện tập thường xuyên vừa sức. Sau đó
tăng đần độ khó và phối hợp nhiều động tác→ cho các em đấu tập sử dụng các
động tác đơn giản.
2.3.2.2. Đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học
Điều 24.2 của Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập của HS ” [ 3, Tr 56]
Mỗi tiết dạy GV có thể sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực chính vì thế trong phạm vi của đề tài tôi chỉ giới thiệu một số phương
pháp đã sử dụng có hiệu quả đối với học sinh học yếu môn thể dục.
* Sử dụng tốt kĩ thuật đặt câu hỏi trong mỗi bài dạy
Kĩ thuật đặt câu hỏi trong mỗi bài dạy đối với người GV rất quan trọng
mức độ câu hỏi đưa ra vừa làm nổi bật trọng tâm của bài dạy vừa phải bám sát
đối tượng HS trong một lớp để các em đều có thể tham gia xây dựng bài kể cả
HS yếu kém. Ví dụ: Khi dạy phần Xuất phát trong chạy ngắn. ( tiết 3 PPCT)
trang (50, 51 SGV Thể dục 10)

12



Tôi cho HS còn yếu nêu ba khẩu lệnh khi xuất phát và thực hiện theo
khẩu lệnh. Vào chỗ→ Sẵn sàng→ Chạy. “ Các em làm nhiệm vụ hô theo ba
khẩu lệnh trên và quan sát các bạn để nắm chắc kiến thức”.
+ Sau khẩu lệnh “Vào chỗ” vào ngồi xuống chống hai tay trước vạch suất
phát; lần lượt đặt chân thuận vào bàn đạp trước, chân kia bàn đạp sau.
+ Sau lệnh “ Sẵn sàng” , người chạy chuyển dần trọng tâm về trước, đồng
thời nâng mông,hai vai nhô về trước, trọng tâm dồn về trước, mắt nhìn về trước
cách vạch xuất phát 40 – 50m.
+ Sau lệnh “Chạy”, xuất phát được bắt đầu bằng đạp mạnh hai chân. Đẩy
hai tay rời đường chạy.
* Sử dụng phương pháp làm việc nhóm kết hợp với kĩ thuật chia
nhóm, kĩ thuật “khăn phủ bàn”
Tuỳ theo nhiệm vụ học tập, GV có thể sử dụng hình thức HS làm việc cá
nhân hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp. Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối
hợp của các cá nhân để nhiệm vụ hoàn thành nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn
hoạt động cá nhân mới nên sử dụng phương pháp làm viêc nhóm. [3]
- Kĩ thuật chia nhóm: năng lực HS giữa các nhóm là tương đương nhau,
phân công nhóm trưởng, thư ký… Giáo viên cho hai nhóm thi đấu các nhóm còn
lại quan sát
- Kĩ thuật “khăn phủ bàn” (tất cả các thành viên đều ghi ý kiến vào ô của
mình sau đó thống nhất ghi vào giữa) tránh trường hợp phát phiếu học tập cho
các nhóm thì chỉ có một số HS học tốt trả lời còn số còn lại thì không tham gia.
Ngoài việc sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn” khi học sinh làm việc nhóm tôi yêu
cầu mọi thành viên trong nhóm phải tham gia để nắm được nhiệm vụ của nhóm
và có thể gọi bất kì HS nào trong nhóm đứng lên trả lời, GV phải quan sát HS ở
các nhóm nếu thấy HS nào không tham gia phải đến hỏi gợi ý, nhắc nhở các em
kịp thời. Ví dụ : khi dạy nội dung tự chọn bóng chuyền. GV chia lớp thành các
nhóm sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn” để tìm hiểu về kĩ thuật đệm bóng,

chuyền bóng cao tay, phát bóng thấp, cao tay, đập bóng trên lưới (Tìm hiểu về
độ chính xác kĩ thuật của các thành viên trong hai nhóm thi đấu trên sân sau đó
đánh giá vào phiếu học tập và thống nhất ý nghĩa của các thông số kĩ thuật và kí
hiệu ghi trong ô ); Tìm hiểu về sự phối hợp hài hòa giữa các thành viên trong
nhóm trong quá trình thi đấu.
* Sử dụng có hiệu quả dạy học bằng sơ đồ tư duy.
Tôi đã sử dụng phương pháp này để hướng dẫn HS ôn tập lại kiến thức cơ
bản phân loại các môn tập luyện; kiến thức sau khi học hết một môn học. Hoặc
phần củng cố sau một bài.
* Sử dụng phương pháp trực quan, gắn bài học với việc giải thích các
hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống. Tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin vào soạn giảng.
- Chúng ta đã biết đặc điểm của thể dục vừa mang tính định lượng, vừa
mang tính định tính. Vì vậy GV thực hiện các kĩ thuật động tác phải chính xác,
động tác đẹp, cho HS được thực hiện lại các kĩ thuật sẽ gây hứng thú cho học
13


sinh và tăng khả năng ghi nhớ và tiếp thu kiến thức được tốt hơn và chắc chắn
những HS học yếu bộ môn vẫn có thể trả lời tốt hiện tượng các em quan sát
được là gì. Để học sinh thực hành đạt kết quả tốt trước khi làm mẫu kĩ thuật
động tác ở trên lớp tôi nghiên cứu kĩ các kĩ thuật từ sách giáo viên, từ bài giảng
mẫu của đồng nghiệp.
- Khi dạy những bài cần vận dụng kiến thức môn thể dục và liên môn kiến
thức môn sinh học vào giải thích các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống GV
hướng dẫn cho HS giải thích từ đó tạo hứng thú và yêu thích bộ Thể dục. Ví dụ
1: Khi dạy bài chạy bền SGV [70]
GV hướng dẫn cho HS giải thích hiện tượng:
+ Tại sao hiện tượng “cực điểm” và cách khắc phục?
+ Vì sao xuất hiện trạng thái “ hô hấp lần hai”?

+ Tại sao khi chạy bền phải chạy theo chiều ngược chiều kim đồng hồ?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Chạy ngắn (Tiết 3-14, Thể dục 10) [50 - 66]
GV hướng dẫn cho HS giải thích các hiện tượng:
+ Tại sao khi chạy 100m tim lại đập nhanh hơn bình thường rất nhiều?
+ Vì sao khi tập luyện thể dục thể thao cơ thể lại chảy mồ hôi nhiều?
+ Tại sao mồ hôi lại có vị mặn?
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin nhằm tạo hứng thú giúp học
sinh dễ tiếp thu kiến thức. Ví dụ như việc sử dụng máy chiếu đa năng và các
phần mềm trình chiếu một số hình ảnh ứng dụng cũng như tác hại của việc tập
luyện không khoa học, lược đồ tư duy, tóm tắt kiến thức trong tiết luyện tập, bài
tập củng cố…
2.3.2.3. Đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh.
GV phải nắm yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng của môn học.
- Nội dung các câu hỏi trong đề kiểm tra cũng rất quan trọng phải bám
vào ma trận nhận thức với 4 cấp độ: biết, hiểu, vận dụng thấp, vận dung cao. Trừ
một số câu ở vận dụng cao có tính mới đòi hỏi các em tổng hợp kiến thức thì các
câu hỏi còn lại chỉ nhớ lại kiến thức cơ bản, các bước thực hiện các kĩ thuật
trong các bài học và làm những bài tập hiểu, vận dụng ở mức độ tương tự …mà
tôi đã dặn dò các em về nhà ôn tập. Đối với HS học yếu bộ môn việc thường
xuyên kiểm tra lại các kiến thức trọng tâm của thể dục 10 như việc xác chạy
ngắn có mấy giai đoạn, Nhảy cao giai đoạn nào quan trọng nhất, thực hiện đúng
tư thế động tác … là rất quan trọng vì các em có nắm được các kiến thức nêu
trên các em mới có thể học tốt hơn ở những kiến thức tiếp theo, kiến thức bài
học sau. GV có thể kiểm tra đột xuất để lấy điểm miệng, cho các em lên làm
những bài tập tương tự để lên lấy điểm miệng trong lúc củng cố bài, các em sẽ
rất vui vì đấy là điểm trong quá trình học các em rễ nhớ và thường câu hỏi rễ
hơn. Phải thấy được sự cố gắng đó để ghi nhận khen ngợi, động viên các em kịp
thời dù có thể chỉ là những lời nhận xét khích lệ, tinh thần xung phong …
2.3.2.4. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập trên lớp và tự học ở nhà


14


Cùng thầy cô giáo dạy nhưng có em kết quả học tập cao, có em kết kết
quả học tập chưa cao, thậm chí còn yếu, kém. Nhiều em vẫn đổ lỗi tại mình
không có năng khiếu. Nhưng một trong những nguyên nhân mà các em chưa
nhận thấy đó là các em chưa có phương pháp tập luyện hiệu quả dẫn đến kết
quả tập luyện còn yếu, kém. Chính vì thế hướng dẫn HS cách học rất quan trọng.
Trước hết, GV cần yêu cầu HS:
Dù học ở trường hay ở nhà khi vào tập luyện phải tập trung, không làm
việc riêng, kiên trì.
- Ghi chép bài cẩn thận, đầy đủ kết hợp với việc nghe giảng trên lớp
(Khuyến khích bằng cách chấm vở lấy điểm miệng với bài lý thuyết).
- GV yêu cầu học sinh phải có vở, dụng cụ tập luyện để tham gia học tập
trên lớp cũng như ở nhà không ngại làm sai. GV giải thích cho HS dù có làm sai
thì lần sau các em mới rút được kinh nghiệm, khắc sâu được kiến thức.
- Không hiểu phải hỏi thầy, hỏi bạn, không nhớ chắc chắn phần nào, động
tác nào thì tự mình phải xem lại sách vở hoặc kiểm tra trên mạng.
- Đối với bài tập về nhà đối với học sinh yếu các em không cần phải thực
hiện các động tác phức tạp.
- GV tổ chức nhóm học tập ở nhà (nhóm 2 em HS trở lên tùy thuộc vào
địa bàn các em ở gần) để giao bài tập về nhà phù hợp với các em.
- Sau khi học xong một bài cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức đã
học bằng sơ đồ tư duy, hoặc ôn tập một cách có hệ thống để các em rễ nhớ nhất.
2.3.3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
2.3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm
Đầu năm học 2017-2018, tôi được phân công dạy môn thể dục lớp 10A1,
10A2, 10A3 và 10A4 Trường THCS&THPT Thống Nhất. Qua tìm hiểu học bạ
lớp 9 tôi nhận thấy trình độ chung về môn Thể dục của bốn lớp 10A1, 10A2,

10A3 và 10A4 là tương đương nhau. Vì vậy tôi chọn ngẫu nhiên hai lớp 10A1
Và 10A2
Bảng thống kê lực học môn Thể dục của lớp 10A1 và 10A2 đầu năm
học 2017-2018
Lớp

Tổng số
HS

10A1
10A2

43
45

Khá, giỏi, TB (Đ)
Số
Tỷ lệ(%)
Số
lượng
lượng
28
65,1
15
30
66,7
16

Yếu, kém (CĐ)
Tỷ lệ(%)

34,9
33,3

Trên cơ sở đó, tôi tổ chức thực nghiệm tại lớp 10A2 và lấy lớp 10A1 làm
đối chứng. Việc dạy thực nghiệm và đối chứng thực hiện theo đúng kế hoạch
giảng dạy của nhà trường.
Thời gian thực nghiệm được tiến hành từ ngày 20/9/2017 đến ngày
15/5/2018.
- Lớp thực nghiệm: 10A2 với số lượng HS là 45 em.
15


- Lớp đối chứng: 10A1 với số lượng HS là 43 em.
2.3.3.2. Tiến hành thực nghiệm
* Phân loại các đối tượng HS yếu kém môn Thể dục
Nhóm 1 (gồm 5 em: Nguyễn Khắc Đại, Lê Trung Hậu, Lê Thị Diệu,
Nguyễn Hữu Dương, Đỗ Văn Đức) với đặc điểm: hay bỏ tiết, vào muộn, ít nói,
trong lớp thường không nghe giảng, không ghi bài, không chịu tập luyện, tỏ thái
độ bất cần, hỏi gì cũng không biết.
Nhóm 2 ( gồm 6 em: Nguyễn Thúy Hiền, Đỗ Thị Huyền, Nguyễn Thị
Huyền, Nguyễn Văn Nam, Trịnh Hằng Nga, Lê Trung Nghĩa) với đặc điểm
chung: không nhớ các kiến thức cơ bản môn Thể dục ở lớp dưới, thường xuyên
không thuộc bài và không thực hiện bài tập, rụt rè, sợ hãi mỗi khi GV kiểm tra
bài cũ, không tham gia ý kiến vào bài học.
Nhóm 3 (gồm 5 em: Phạm Thị Nhung, Hoàng Thị Phượng, Lê Văn Tuấn,
Phạm Văn Vũ , Trần Văn Xuân ) với đặc điểm: chăm chú nghe giảng, thỉnh
thoảng cũng tham gia xây dựng bài những kiến cơ bản môn Thể dục ở lớp dưới
có nhớ nhưng không được nhiều, ngại thực hiện các bài tập cho dù chỉ làm lại
động tác vừa thực hiện, có tâm lí chông chờ vào thầy cô và bạn bè làm thì mới
làm theo. Chính vì thế khi bắt tay vào làm bài hay bị nhẫm lẫn động tác nọ với

động tác kia dẫn đến kết quả tập luyện của các em rất thấp.
* Thường xuyên gần gũi, động viên, quan tâm, khích lệ kịp thời những
tiến bộ dù nhỏ của HS học yếu môn Thể dục.
Nhóm 1: Đối những HS này chê bai hoặc thường xuyên cho các em điểm
CĐ mỗi khi không thuộc bài cũ không phải là biện pháp hiệu quả thậm chí ý
thức học còn kém hơn bởi các em không có điểm tựa, không có động lực. Tôi đã
gặp gỡ riêng từng em cũng như thông qua các bạn cùng lớp biết được nguyên
nhân trốn học, bỏ tiết của bốn HS Nguyễn Khắc Đại, Lê Trung Hậu, Nguyễn
Hữu Dương, Đỗ Văn Đức thường xuyên chơi điện tử ở quán Internet gần
trường học. HS Nguyễn Khắc Đại, Đỗ Trung Đức, Nguyễn Hữu Dương có hoàn
cảnh kinh tế gia đình khó khăn các em thường bỏ tiết để tham gia bốc vác mía,
sắn, dứa cho chủ xe để lấy tiền chi tiêu. Trong khi nói chuyện với tôi các em
đều có tâm sự nhiều lúc vào lớp học nhưng vì “hổng” kiến thức cơ bản của
nhiều môn học dẫn đến ngại học cả môn thể dục, do nghiện chơi điện tử, mặt
khác do đi làm thêm nên trong người luôn thấy mệt mỏi …vì thế nên nghĩ rằng
mình học chẳng được…Gặp gỡ phụ huynh của em Đức, em Đại, em Dương và
được biết kinh tế gia đình khó khăn nhưng gia đình cũng không bắt các em
phải nghĩ học để đi làm. Do các em ngại học thích đi làm để có tiền tiêu pha cá
nhân. Biết được điều đó tôi đã phân tích cho các em thấy sự quý giá của sức lao
động các em bỏ ra. Thứ nhất tuổi các em chưa phù hợp để lao động nặng, lao
động quá sức vì hệ thống xương, khớp các em chưa đạt độ rắn chắc do vậy làm
việc nặng nó kìm hãm sự phát triển, hoặc phát triển lệch lạc. Thứ hai công các
em lao động chưa xứng đáng vì các em để sức đó đầu tư vào học tập sau này thu
nhập của các em sẽ cao hơn. Các em là một công nhân kĩ thuật thì tiền lương mà
các em hưởng sẽ cao hơn gấp nhiều lần, công việc sễ ổn định hơn so với việc
16


các em đi làm thuê theo thời vụ thế này. Nếu các em quyết tâm thầy cô và các
bạn sẽ cùng em bổ sung lại kiến thức “hổng” cho các em. Chính vì thế tôi cho

HS thành lập các nhóm học sau giờ học phụ đạo buổi chiều để ôn lại kiến thức
cơ bản cử mỗi nhóm một đến hai em học tốt bộ môn tham gia kèm cặp, bản thân
tôi cũng thường xuyên ở lai trao đổi cùng các em … Đối với bài học mới trên
lớp tôi luôn nhấn mạnh các mấu chốt kĩ thuật và nêu lên các sai sót thường gặp
để các em tập luyện đạt kết quả cao hơn.
Nhóm 2: Trong tiết học trên lớp, tôi nhấn mạnh những nội dung chính của
bài, chia nhỏ các giai đoạn, các động tác khó thành các bước nhỏ lẻ, vận dụng
các động tác bổ trợ cho các em luyện tập vừa sức, những bài tập cùng loại.
Thường xuyên gọi các tham gia xây dựng bài có khi không cần hoàn chỉnh một
một động tác ví dụ: Tại chỗ thực hiện động tác lăng chân đánh tay trong nhảy
cao… tôi cũng không ngừng nhắc lại những kiến thức liên quan tới bài học, tốc
độ làm mẫu động tác, lúc đầu chậm sau đó vừa phải, tập trung vào những kiến
thức trọng tâm của bài. Thường xuyên kiểm tra kiến thức bài mới tập và cho
điểm nếu các em làm tốt. Động viên các em tham gia học nhóm sau giờ học phụ
đạo buổi chiều.
Nhóm 3: Tôi tiến hành cho các em luyện tập vừa sức, những bài tập
phối hợp và liên kết dần hoàn thiện, mỗi khi các em phối hợp sai, tôi đều chỉ ra
lỗi mắc phải và chỉnh sửa lại cho đúng, không quên động viên các em “ không
sao cả, sai thì sửa , lần sau các em nhớ đừng phạm phải lỗi này nữa là được”.
Lỗi sai chủ yếu là ngại làm cứ nghĩ đơn giản mình thực hiện được nhưng khi
thực hiện thì lại lẫn lộn, không đúng kĩ thuật động tác. Để khắc phục lỗi này các
em phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ liên quan đến tiết dạy, các em có thể nghiên
cứu thêm qua tài liệu, tranh ảnh, nếu không hiểu phải hỏi ngay ... Hướng dẫn các
em cách học hiệu quả ở nhà, tự bổ sung những kiến thức cũ mà các em đã quên.
Động viên các em tham gia học nhóm cùng các bạn.
* Ôn tập thường xuyên những kiến thức cơ bản.
Để HS học yếu môn thể dục có thể học tốt lên việc đầu tiên là phải ôn tập
lại các kiến thức cơ bản tưởng chừng như rất đơn giản cho các em. Đó là xác
định được nội dung môn học, một số trò chơi, động tác bổ trợ kỹ thuật, phát
triển và sự khéo léo, các kĩ thuật cơ bản, một số điểm cơ bản trong luật điền

kinh( phần...), đấu tập…
Số tiết luyện tập đầu năm ít vì thế tôi khuyến khích cho các HS trong lớp
tự học để trao đổi. Riêng đối với các HS yếu, kém tôi chủ động sắp xếp thành
các nhóm cho phù hợp, thường xuyên hỏi nhóm trưởng sự tiến bộ của các em
trong nhóm và chủ động đưa thêm một số bài tập phù hợp để các em tập luyện
thêm. Tôi cho HS đăng ký lịch học nhóm và báo cáo với nhà trường để HS được
mượn thêm dụng cụ học tại trường.
* Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh
Để tạo hứng thú cho các em trong các tiết học, yêu thích môn học tôi đã
sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như mục: 2.3.2.2.

17


Khi ra đề kiểm tra tôi bám vững các quy trình ra một đề kiểm tra, chấm
trả bài, việc coi thi nghiệm túc cũng rất quan trọng. Trước kiểm tra tôi cho lớp
xếp đội hình hợp lí tránh để học sinh làm mẫu cho các em được kiểm tra quan
sát làm theo, hoặc dùng lời phân tích nhắc bạn. HS trao đổi cho nhau đều bị cho
điểm chưa đạt để nêu gương.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.4.1. Đánh giá định tính
Tôi đã áp dụng những biện pháp trên và theo dõi sự chuyển biến trong
hoạt động học tập của HS yếu kém, tôi nhận thấy:
- Ở lớp 10A1 (Lớp đối chứng): Không khí của giờ học rất trầm, các em HS
yếu kém hầu như không tự giác phát biểu xây dựng bài và không tự đưa ra các
thắc mắc hay ý kiến của cá nhân mình trước tập thể. Trong các giờ các em có tập
luyện nhưng vì không hiểu bản chất nên tốc độ còn chậm, kiểm tra làm thử vẫn
còn làm sai động tác cơ bản, không phối hợp được các động tác chỉ phụ thuộc
vào bạn khác làm để làm theo, các em tỏ ra không tự tin khi tập luyện, vẫn còn
hiện tượng bỏ tiết.

- Ở lớp 10A2 (Lớp thực nghiệm): Tôi đã phối hợp một cách phù hợp, linh
hoạt các biện pháp nêu trên để giúp đỡ HS yếu kém. Vì vậy, các giờ học môn thể
dục đối với các em rất nhẹ nhàng, thoải mái, các em hào hứng tham gia vào bài
học, các em tích cực tập trung quan sát, suy nghĩ trước sự hướng dẫn của GV,
không còn hiện tượng trốn học đi chơi điện tử, nói chuyện riêng trên lớp. Mức
độ tích cực của HS yếu kém ngày càng được tăng từ giờ học trước đến giờ học
sau, đặc biệt các em không còn quên các kiến thức cơ bản ở lớp dưới, biết vận
dụng kiến thức để thực hiện đúng bài tập bổ trợ, làm đúng kĩ thuật, … Đặc biệt,
các em mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trong nhóm cũng như trước tập thể
lớp, hăng hái thực hiện và đưa ra các nhận xét đánh giá khi GV yêu cầu.
2.4.2. Đánh giá định lượng
- Tôi đã cho HS lớp 10A1 và 10A2 làm bài kiểm tra theo đúng phân phối
chương trình, phù hợp với yêu cầu của môn thể dục kết hợp với việc kiểm tra
miệng đến thời điểm cuối năm học kết quả trung bình cả năm môn Thể dục của
hai lớp được thể hiện trong bảng sau :
Lớp
Tổng
Khá, giỏi, TB (Đ)
Yếu, Kém (CĐ)
số
Số
Tỷ lệ(%)
Số
Tỷ lệ(%)
lượng
lượng
10A2
45
43
95,6

2
4.4
10A1
43
36
83,7
7
16,3

18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy việc dạy học với đối tượng HS yếu kém
môn Thể dục là một công việc không hề đơn giản, đòi hỏi người dạy phải kiên trì,
nhẫn nại và thật sự tâm huyết với nghề. Để giúp những HS yếu kém có thể từng
bước tiến bộ đòi hỏi GV phải “vừa dạy, vừa dỗ, vừa kích thích”, phải nắm bắt và
hiểu tâm lý của các em để có những biện pháp phù hợp nhằm tác động đến tình cảm,
khơi dậy sự hứng thú đối với môn Thể dục, tạo cho các em niềm tin về khả năng tiến
bộ của mình nếu thật sự cố gắng. Từ đó, phần nào rèn luyện cho các em ý chí, nghị
lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Theo tôi, đề tài có thể ứng dụng để giảm tỷ lệ HS yếu kém môn Thể dục
khối 10 ở Trường THCS&THPT Thống Nhất và cả những trường khác có tỷ lệ
HS yếu kém cao.
Trên đây là những suy nghĩ và các biện pháp đã được tôi áp dụng đạt hiệu
quả khá cao trong quá trình giảng dạy của bản thân. Trước tình hình học sinh
“ngồi nhầm lớp”, học sinh yếu kém còn nhiều, tôi mạnh dạn đưa ra để quí thầy
cô cùng thảo luận. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong Hội đồng khoa học ngành cùng quý thầy, cô góp ý để tôi

hoàn thiện hơn trong công tác giảng dạy của mình.
3.2. KIẾN NGHỊ
Đối với nhà trường: Nên tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm học để phân
loại đối tượng HS yếu kém nhằm phụ đạo riêng ngay từ đầu năm giúp các em theo
kịp chương trình chuẩn trên lớp. Thường xuyên nhắc nhở giáo viên khi lên lớp cần
tạo không khí vui vẻ, thân thiện với HS giúp các em tiếp thu bài học đạt hiệu quả
hơn. Đồng thời, cần tránh miệt thị, chê bai các HS yếu kém, tích cực sưu tầm tài
liệu và học hỏi từ đồng nghiệp về phương pháp dạy HS yếu kém.
Đề tài mới chỉ đặt vấn đề nghiên cứu một số biện pháp trong dạy HS yếu
kém môn Thể dục lớp 10. Tôi nhận thấy đề tài này có thể mở rộng nghiên
cứu và cụ thể hóa các biện pháp nhằm giúp đỡ HS yếu kém trong toàn bộ nội
dung chương trình thể dục phổ thông.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Vũ Văn Thành

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Trương Văn Đồng

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học tích cực (Bộ giáo dục và đào tạo – Dự án Việt Bỉ- NXB ĐH
Sư Phạm).

2. Module THPT 23: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh- Phạm
Văn Hoan.
3. Module THPT 18: Phương pháp dạy học tích cực- Trần Đình Châu, Đặng
Thu Thuỷ, Phan Thị Luyến.
4. Module THPT 19: Dạy học với công nghệ thông tin – Trần Kiều Hương.
6. Một số sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực thể dục thể thao trên trang Web
sáng kiến kinh nghiệm google.
7. SGV Thể dục 9 CTC, NXB Giáo dục việt nam
8. SGV Thể dục 10 CTC, NXB Giáo dục Việt Nam
9. Chương trình trường học –Trường THCS &THPT Thống Nhất.
10. Trang Web Giáo án điện tử, Đề thi đề kiểm tra, bài giảng điện tử.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trương Văn Đồng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường THCS&THPT Thống Nhất,
Yên Định

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,

Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

1
2
3

21



×