Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy và học giải toán có lời văn lớp 2 cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.98 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
1.MỞĐẦU.....................................................................................................02
1.1.Lí do chọn đề tài......................................................................................02
1.2.Mục đích nghiên cứu...............................................................................03
1.3.Đối tượng nghiên cứu:.............................................................................03
1.4.Phương pháp nghiên cứu:........................................................................04
2. NỘI DUNG................................................................................................04
2.1. Cơ sở lí luận:...........................................................................................04
2.2. Thực trạng..............,................................................................................05
2.2.1. Những việc đã làm được......................................................................05
2.2.2. Những mặt còn hạn chế......................................................................06
2.3. Các giải pháp thực hiện..........................................................................08
2.3.1. Một số giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng dạy và học giải toán
có lời văn cho học sinh lớp hai.....................................................................08
2.3.2. Một số giải pháp hỗ trợ khác..................................................................15
2.4. Hiệu quả của sáng kiến: .................................................................... ....18
2.4.1. Về phía học sinh lớp 2D……………………………………………18
2.4.2. Kết quả đạt được trong trường…………………………………………19
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................19
Kết luận:.......................................................................................................19
Kiến nghị......................................................................................................20

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.

Một trong những nội dung “ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục” đó là
đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt môn Toán - một môn học hết sức quan


trọng đối với các em học sinh nhất là dạng Toán có lời văn của HS lớp Hai. Với
các em, những lời giải, những phép tính đang còn quá lạ lẫm, quá mới mẻ. Vừa
ở lớp Một lên, các em đang còn học mà chơi, chơi mà học… Những bài toán
đang ở dạng đơn giản, giờ đây phải làm quen với những bài toán phức tạp hơn,
những bài toán mang tính trừu tượng về nội dung, vừa đọc phải vừa suy ngẫm,
tính toán để chọn lựa hướng đi, cách làm… Nếu giáo viên không có phương pháp
dạy tối ưu thì các em có học tốt được không ? Cấp Tiểu học, lớp Hai là lớp đầu
tiên học về phân môn Tập làm văn, phân môn Luyện từ và câu. Lớp mà bước đầu
phải giải toán có lời văn. Vì thế nếu các em giải tốt các bài toán có lời văn sẽ rất
thuận lợi cho các em sau này. Không những giúp các em học tốt môn Toán ở lớp
trên mà còn giúp các em phát triển trí khả năng tư duy để học tốt các môn học
khác. Hơn nữa nó là động lực tạo ra ý thức học tập, bên cạnh đó còn là niềm vui,
niềm phấn khởi để tạo ra hứng thú học tập cho các em. Còn ngược lại, nếu các em
học kém phần giải toán sẽ sinh ra nhiều bất lợi như: mất kiến thức, không học tốt
môn toán ở lớp Hai cũng như các lớp trên, không phát triển được khả năng tư duy,
sáng tạo, không hỗ trợ được cho các môn học khác như Tiếng Việt, TNXH, Mĩ
thuật v.v. không tạo niềm vui, hứng khởi học tập,… Để nâng cao chất lượng môn
Toán cho học sinh lớp Hai, ngoài sự phấn đấu nỗ lực của các em, đòi hỏi người
GV phải có phương pháp giảng dạy, phải có ý thức nghề nghiệp, phải luôn nhiệt
tình với công việc, phải thường xuyên tích luỹ chuyên môn, nghiệp vụ, phải có
lòng yêu nghề, mến trẻ…
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp Hai- đặc biệt là phần
giải toán có lời văn cho HS là một vấn đề vô cùng quan trọng. Là một giáo viên
trẻ, trực tiếp dạy ở trường tiểu học, với lòng say mê, nhiệt huyết nghề nghiệp, tôi
thấy thực trạng dạy và học giải toán có lời văn cho HS lớp Hai của trường chúng
tôi cần phải cố gắng. Tôi suy nghĩ, trăn trở và tìm ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học giải toán có lời văn cho học sinh lớp Hai. Vì những
lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu trong năm học 2017-2018:
"Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy và học giải toán có lời văn cho
HS lớp Hai”.

2


1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Chúng ta đều biết, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhà trường
là nâng cao chất lượng dạy và học. Điều quan trọng là làm thế nào để đưa chất
lượng đi lên? Đấy mới là điều khó. Quan trọng hơn nữa là việc làm đó có thành
công hay không? Có đạt hiệu quả cao hay không? Đấy mới là then chốt. Để mở
ra được cái nốt thắt quy luật đó đòi hỏi người viết đề tài phải tìm tòi, nghiên cứu,
sáng tạo và linh hoạt trong mọi tình huống. Cùng với không khí thi đua dạy và
học trong toàn trường, toàn thành phố, toàn tỉnh, tất cả GV- HS đều phải nỗ lực
hết mình tìm ra những biện pháp để khắc phục khó khăn, bất lợi của trường
mình. Phát huy những mặt mạnh đã có sẵn trong đội ngũ GV, các em HS, tận
dụng sự quan tâm của nhà trường, gia đình và xã hội để đưa chất lượng ngày
một đi lên. Với các em HS lớp Hai, việc dạy cho các em viết thành câu lời giải
đúng, đủ, đẹp đã khó chứ đừng nói gì đến các em phải đọc bài toán, suy nghĩ rồi
tìm cách giải cho hợp lí hoặc nhiều cách giải khác hay hơn. Ngay từ đầu năm,
một số em đọc bài toán còn chưa thông, chưa hiểu cách giải, lời giải viết sai,
phép tính thực hiện chưa đúng…, GV có ít thời gian học hỏi bạn bè, đồng
nghiệp ....nên chất lượng dạy và học phần giải toán có lời văn chưa cao. Vì vậy
tôi quyết định nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích đưa ra một số giải pháp liên
quan đến phương pháp dạy học của GV, đến ý thức trách nhiệm của gia đình,
của xã hội để giúp các em học tốt. Với những giải pháp đưa ra của đề tài, chắc
chắn chất lượng môn Toán của khối Hai trong nhà trường chúng tôi sẽ được
nâng lên, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán của toàn
trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2D.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết. (Phân tích và tổng hợp lí thuyết;

Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết)
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. (Phương pháp quan sát; Phương
pháp điều tra; Phương pháp đàm thoại; Phương pháp thực nghiệm)
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Môn Toán là một trong hai môn nhiều giờ và cũng là một trong những
môn công cụ ở khối lớp Hai. Là môn học liên quan đến rất nhiều các môn học
khác như: Tiếng Việt; Mĩ thuật... Học sinh học tốt môn Toán sẽ bổ sung rất nhiều
3


cho các môn học khác, và ngược lại, nếu các em học tốt các môn học khác như :
Tiếng Việt; Đạo đức; TNXH... thì tất nhiên các em sẽ học tốt môn Toán. Vì các
em có đọc được, viết được thì các em mới hiểu được yêu cầu của bài tập nói gì?
Mới hiểu được bài toán ấy cho ta biết gì? Hỏi ta điều gì? Rồi mới suy luận lo gíc
và làm ra phép tính, kết quả được ! Nhưng ta xét về khía cạnh khối lớp, thì lớp
Hai là lớp đầu tiên học về các phân môn Tập làm văn, Luyện từ và câu... và liên
quan đến giải toán có lời văn. Ở lớp một, các em mới học vần là chính, còn môn
Toán thì mới làm quen với một số bài toán nhưng thể hiện bằng tóm tắt và yêu
cầu học sinh điền số. Còn ở lớp hai, các em phải đọc đề toán, biết tóm tắt rồi nêu
cách giải. Mỗi dạng toán đều có những đặc điểm khác nhau, nếu các em không
suy nghĩ kĩ thì sẽ rất dễ nhầm giữa dạng toán này với dạng toán khác. Môn Toán
là một môn học khó đối với các em, ngoài những kiến thức về số học, về đại
lượng và đo đại lượng, về yếu tố hình học thì học sinh còn phải học một nội dung
rất quan trọng đó là giải bài toán có lời văn. Nếu các em học tốt phần giải toán có
lời văn thì chất lượng môn toán sẽ được đi lên và một khi các em đã học tốt môn
Toán ở khối Hai thì chắc chắn các em sẽ học tốt môn Toán ở các khối lớp trên.
Ngoài ra nó còn làm cho các em thấy tự tin, phấn khởi trong quá trình học tập. Nó

còn là động lực thúc đẩy cho các em vươn xa tới mai sau.
Song song với việc học tập của học sinh thì vấn đề dạy học của GV cũng
vô cùng quan trọng. Cô sẽ là người quyết định đến chất lượng của các tiết học.
Tiết học ấy có thành công hay không? Có đạt kết quả cao hay không? Được bao
nhiêu % hoàn thành môn học? Bao nhiêu % chưa hoàn thành môn học?... Hay
trong tiết học còn quá nhiều HS tiếp thu bài chậm? Vì sao HS tiếp thu bài chậm?
Vì sao HS chưa làm bài tập xong? Cô có gây được hứng thú học tập cho các em
không? Có phát huy được tính tích cực của HS hay không? Tất cả HS có được
hoạt động không? Tất cả các vấn đề đó đều liên quan đến phương pháp dạy học
của GV và phụ thuộc vào tiến trình dạy học của cô giáo rất nhiều. Vì vậy cô giáo
là người rất quan trọng trong việc quyết định đến chất lượng học tập của lớp.
Trước tình hình đó, tôi không thể không bầy tỏ ý kiến của mình bằng cách viết
thành SKKN. Tôi mạnh dạn chọn đề tài này là một vấn đề hoàn toàn hợp lí.
Trong đề tài có đưa ra "Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy và học
giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2". Mặc dù những giải pháp đó chưa thực
sự được sắc bén, chưa được táo bạo; song dù sao cũng góp được một phần nào
4


vào việc nâng cao chất lượng môn Toán lớp 2 của lớp tôi. Mong rằng đề tài này
cũng sẽ được nhân rộng góp phần vào việc nâng cao chất lượng học toán của
toàn trường trong những năm tới và cũng là bài học kinh nghiệm cho các đồng
nghiệp của tôi.
2.2. Thực trạng.
2.2.1. Những việc đã làm được.
+ Những năm gần đây, đặc biệt là năm học 2017- 2018, tôi rất quan tâm
đến việc nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và nâng cao chất lượng môn
Toán nói riêng, đặc biệt là môn toán khối Hai. Ngay từ đầu năm tôi đã tổ chức
khảo sát chất lượng HS để nắm bắt tình hình và phân loại đối tượng HS. Từ đó
có kế hoạch kèm cặp những học sinh chưa đạt, động viên các em mua đầy đủ

SGK- ĐDHT. Tổ chức họp phụ huynh HS, mục đích cùng phụ huynh giúp các
em học tốt. Kết hợp với các đoàn thể khác trong và ngoài nhà trường để cùng
nâng cao chất lượng cho các em.Tôi thường xuyên dự giờ, thăm lớp đồng
nghiệp để học hỏi, rút kinh nghiệm cho mình.
.- Tôi đã lập Kế hoạch bài học bài đầy đủ trước khi đến lớp. Đầu tư thời
gian, công sức, trí tuệ vào tiết dạy. Dạy học theo phương pháp mới, phát huy
tính tích cực của HS. Hằng ngày đều kiểm tra bài vở của HS, đặc biệt chú trọng
đến dạng giải bài toán có lời văn. Trong tiết học luôn lưu ý HS cách đọc đề, cách
tóm tắt và cách giải. Học sinh giải như thế nào là đúng, là hợp lí? Có bao nhiêu
cách giải? Cách giải nào hay nhất?... Luôn đưa ra những tình huống sư phạm
cho HS xử lí. Luôn chú trọng đến kết quả học tập của HS.
+ Đối với HS: nhìn chung các em đều chăm chỉ học tập. Đa số các em có
ý thức học tập tốt. Làm bài tập đầy đủ, vâng lời bố mẹ, thầy cô.
Khảo sát đầu năm, chất lượng môn Toán lớp 2D đạt như sau:
TT Lớp
1

2D


số
45

Hoàn thành tốt
SL
TL
12
26.6

Hoàn thành

SL
TL
24
53.4

Chưa hoàn thành
SL
TL
9
20

2.2.2. Những mặt còn hạn chế.
* Về học sinh:

5


- Năm học 2017- 2018, lớp 2D trường Tiểu học Đông Vệ 1 có tổng số HS
là 45 em, trong đó nam: 22 em, nữ 23 em. Đa số các em đều là con em gia đình
nông dân, buôn bán nhỏ,… do bận làm ăn nên ít quan tâm tới việc học tập của
con em. Sự tiếp thu bài của một số em còn chậm, một số em lại chưa cố gắng
vươn lên, ý thức học tập chưa cao.
- Sự chuẩn bị của gia đình về sách vở, đồ dùng học tập cho các em còn
chậm, còn thiếu. Sự kèm cặp giúp đỡ các em học ở nhà chưa thường xuyên, đôi
khi còn ỷ lại cho nhà trường.
Khi học phần giải toán có lời văn, HS thường gặp phải một số khó khăn
sau:
+ Về hiểu đề: HS thường đọc trượt đi, không hiểu đề nên không làm được
bài hoặc hiểu lơ mơ làm chừng chừng, hoặc hấp tấp rồi làm sai… Không hiểu ý
diễn đạt của các câu văn hoặc chưa từng trải qua thực tế nên không hiểu. Ví dụ:

Ví dụ 1: ( Bài tập 3 trang 111) : Có 18 lá cờ, chia đều cho 2 tổ. Hỏi mỗi tổ
được mấy lá cờ ?
Ở bài này HS phải tìm xem: Số lá cờ của một tổ và lấy 18: 2 = 9 (lá cờ).
Nhưng ở bài toán: Có 18 lá cờ chia đều cho các tổ. Mỗi tổ có 2 lá cờ. Hỏi có tất cả
bao nhiêu tổ? Bản chất bài toán ở đây lại khác. HS phải tìm số tổ được nhận cờ
chứ không phải tìm số cờ trong một tổ nữa. Và phép tính sẽ là: 18 : 2 = 9 (tổ).
Cũng là 18: 2 = 9 nhưng do bản chất bài toán khác nhau nên đơn vị tính ở đây
cũng khác nhau và đương nhiên là lời giải cũng khác nhau. Ở hai bài toán này HS
cần phải hiểu một bên là tìm số cờ trong một tổ, một bên là tìm số tổ được nhận
cờ. Đây chính là bước đầu cho việc hình thành bài toán rút về đơn vị ở lớp 3.
Qua kiểm tra vở bài tập toán của HS tôi thấy: HS thường nhầm lẫn bản
chất của các bài toán, khó tưởng tượng vì không trải nghiệm thực tế.
+ Về tóm tắt: HS không biết cách tóm tắt như thế nào cho hợp lí với bài
toán, để từ tóm tắt mà tìm cách giải cho đúng. Từ tóm tắt có thể nhìn vào đó đọc
lại toàn bộ bài toán.
Ví dụ 2: ( Bài tập 4 trang 26 ) : Em 7 tuổi, anh hơn em 5 tuổi. Hỏi anh bao
nhiêu tuổi?
Nhẽ ra ở bài toán này HS nên tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng thì dễ thấy
bản chất của bài toán và dễ dàng tìm ra cách giải nhưng đa số HS lại quen tóm
tắt là:
6


Em

: 7 tuổi

Anh hơn em : 5 tuổi
Anh


: …tuổi

+ Về cách giải bài toán:
Khi đặt lời giải: HS không lựa chọn câu văn, thường là lời giải chưa
chính xác với nội dung bài toán hoặc thừa hoặc thiếu từ ngữ. Có khi không viết
hoa đầu câu, sai lỗi chính tả hoặc sai đơn vị cần tìm.
Ví dụ 3: ( Bài 3 trang 35) . Tháng trước tổ em được 16 điểm mười, tháng
này tổ em được nhiều hơn tháng trước 5 điểm mười. Hỏi tháng này tổ em được
bao nhiêu điểm mười?
Đa số HS chỉ ghi lời giải là: Tổ em được là: (hoặc: Tháng này tổ em được
là:) và sau đó phép tính lại ghi tên đơn vị là “em” chứ không phải là “điểm mười”.
Khi thực hiện phép tính: Có HS không hiểu đề bài cho biết gì và cần tìm
gì? hoặc không hiểu như thế nào là làm phép tính cộng, như thế nào là làm phép
tính trừ? Cứ làm chừng chừng may ra thì đúng. Hoặc khi thực hiện phép tính
đúng thì kết quả lại sai hoặc sai tên đơn vị tính.
Ví dụ 4( Bài tập 3 trang 45): Một lớp học có 35 HS, trong đó có 20 HS
trai. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu HS gái?
HS không hiểu từ “trong đó” ở bài này là phải lấy tổng số HS trừ đi HS
trai. Một số em không hiểu nội dung bài toán nói gì? Không mường tượng được
sự việc diễn ra trong bài toán. Vì thế có em làm phép tính cộng, có em làm phép
tính trừ. Hoặc đơn vị tính lại là HS trai hoặc là HS. v.v.
Đến đáp số: Một số em chỉ có điền kết quả, không có tên đơn vị, hoặc tên
đơn vị lại sai, thậm chí kết quả ở phép tính đúng mà đáp số lại viết sai v.v
* Về phía giáo viên:
- Dạy hai buổi/ ngày nên tôi chưa có nhiều thời gian đầu tư cho việc tự
học, tự bồi dưỡng, chưa đóng góp nhiều công sức trong việc lựa chọn phương
pháp đổi mới trong dạy học toán, đặc biệt là dạng toán có lời văn để nâng cao
chất lượng dạy học môn Toán. Chưa có nhiều giờ dạy giỏi trong tiết học.
2.3. Các giải pháp:


Sau khi nghiên cứu thực trạng về dạy học giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 2, tôi đưa ra một số giải pháp thực hiện như sau:
7


2.3.1.Một số giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng dạy và học giải
toán có lời văn cho học sinh lớp hai.
* Giải pháp 1: Rèn cho học sinh kĩ năng tìm hiểu, phân tích và tóm tắt
đề bài toán.
- Rèn cho HS kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề bài toán.
* Ví dụ 1: (Bài 4/SGK trang 46): Vừa cam vừa quýt có 45 quả, trong đó
có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt?
HS thường không hiểu nội dung bài toán nói gì? Không hiểu bản chất của
bài toán hay nói cách khác là không hiểu nội dung câu văn. “Vừa cam vừa quýt”
có nghĩa là tổng số cả cam và quýt. Lại không hiểu từ “trong đó” có nghĩa là
trong số 45 quả đó đã có 25 quả quýt. Nên HS có thể làm sai. Em thì thực hiện
phép trừ, em thì thực hiện phép cộng. Vì thế ở bài này yêu cầu giáo viên phải vẽ
hình ảnh trực quan ra, sau đó tóm tắt. Cho các em nhìn lại hình ảnh và tóm tắt để
đọc lại bài toán. Vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, hiểu bản chất và sau đó giải.
* Ví dụ 2: ( Bài 3 trang 47) : Có 2 chục que tính, bớt đi 5 que tính. Hỏi
còn lại bao nhiêu que tính ?
Đa số HS không đổi 2 chục que tính = 20 que tính rồi sau đó mới trừ mà
HS làm sai bởi 2 lí do :
- HS hấp tấp, không nhớ bước đổi.
- HS không nhớ phần kiến thức đổi : 2 chục que tính = 20 que tính mà
thường đổi sai. Từ đó HS làm sai, lấy 2 + 5 = 7 ( que tính).
Ở bài này, hướng dẫn các em đọc kĩ đề, cho các em xác định một số từ
cần nhớ, gạch chân các từ đó. VD : chục ; que tính ; bớt đi ; để các em hình
dung ra cách giải sau khi đã hiểu bài toán.
* Ở một số dạng bài mà phép tính là phép cộng, HS dễ lẫn lộn làm phép

trừ và ngược lại : Nhẽ ra làm phép trừ thì HS lại làm phép cộng. HS không xác
định đúng các từ ngữ trong câu để suy đoán ra phép tính.
Ví dụ 3: ( Bài 3 trang 28). Một đội trồng rừng có 27 nữ và 18 nam. Hỏi
đội đó có bao nhiêu người ?
Một số em không biết làm phép tính cộng hay trừ vì không tìm ra dấu
hiệu nào của bài toán liên quan đến phép tính. Hoặc một số học sinh chỉ hiểu
máy móc là có từ “nhiều hơn” thì làm phép cộng, có từ “ít hơn” thì làm phép trừ.
Vậy ở bài này không có từ nào như thế thì làm phép gì? HS dễ lúng túng và làm
8


sai. Đối với bài này, phải hướng dẫn HS đọc kĩ đề sau đó tóm tắt bài toán. Nhìn
vào tóm tắt bài toán HS sẽ hiểu là làm phép tính gì? hướng dẫn HS tóm tắt bài
toán như sau:
Nữ

: 27 người.

Nam

: 18 người.

Có tất cả :...người?
Từ đó HS sẽ giải như sau :
Bài giải
Đội đó có số người là:
27 + 18 = 45 ( người)
Đáp số: 45 người.
* Ví dụ 4: ( Bài 4 trang 51). Một cửa hàng có 51 kg táo, đã bán 26 kg táo.
Hỏi cửa hàng đó còn lại bao nhiêu ki-lô-gam táo ?

HS thường làm sai bởi 2 lí do: Không đọc kĩ bài toán và không hiểu bài
toán nói gì? Nên một số HS thường làm chừng phép tính cộng hoặc trừ. Với ở
bài này GV cần hướng dẫn như sau: Cho HS đọc kĩ đề toán, phân tích đề toán
cho biết gì và yêu cầu chúng ta tìm gì? Xác định từ cần lưu ý, gạch chân từ đó
và hiểu từ đó. Đó là từ “đã bán”; “còn lại”. “Đã bán” có nghĩa là số kg táo đó
còn lại ít đi và phải làm phép tính trừ. Sau đấy cho HS giải vào vở.
- Rèn kĩ năng tóm tắt đề bài toán.
Một số HS khi tóm tắt bài toán không biết cách tóm tắt như thế nào để
thể hiện rõ nội dung bài toán và dễ nhận biết để làm bài.
Ví dụ 1: ( Bài 3 trang 63). Mảnh vải màu xanh dài 34 dm, mảnh vải màu
tím ngắn hơn mảnh vải màu xanh 15dm. Hỏi mảnh vải màu tím dài bao nhiêu
đề-xi- mét ?
HS thường tóm tắt là:
Mảnh vải màu xanh: 34dm.
Mảnh vải màu tím : ngắn hơn 15dm.
Mảnh vải màu tím : ....dm?
Ở bài này giáo viên cần giải thích cho HS hiểu với cách tóm tắt này cũng
được, xong nhìn nó chưa được khoa học và chưa có tính sáng tạo cao, nó không
thể hiện rõ nội dung, bản chất của bài toán, nhìn vào khó hiểu. Nên ta tóm tắt

9


bằng sơ đồ đoạn thẳng thì thích hợp hơn. Ta có thể tóm tắt như sau :
34 dm
Tấm vải xanh
Tấm vải tím

15 dm
... dm ?


Nhìn vào tóm tắt bằng sơ đồ. HS có thể đọc lại đề toán và giải một cách
dễ dàng. HS sẽ hiểu phải thực hiện phép tính trừ để tìm tấm vải màu tím.
* Giải pháp 2: Rèn cho học sinh kĩ năng trình bày bài giải
* Một số HS sai lời giải mặc dù đã đọc kĩ đề toán và tóm tắt đề hợp lí.
Nhưng vì chưa hiểu rõ bản chất của bài toán hoặc đôi khi do tính cẩu thả nên lời
giải thường viết thiếu hoặc sai.
Ví dụ 1: ( Bài 3 trang 62 ). Nhà bạn Hà nuôi 34 con gà, nhà bạn Ly nuôi ít
hơn nhà bạn Hà 9 con gà. Hỏi nhà bạn Ly nuôi bao nhiêu con gà ?
HS thường viết lời giải là: Nhà bạn Ly nuôi là: …hoặc Nhà bạn Ly nuôi
số con là: ….hoặc Có số con gà là:… hoặc Còn lại số con gà là:…. v .v. Ở
nhược điểm này GV cần cho HS đọc kĩ đề toán. HS cho biết bài toán cho ta biết
gì và hỏi ta điều gì? Nhấn mạnh ở phần câu hỏi xem người ta hỏi ta cái gì thì trả
lời cái đó ( lưu ý là kèm theo đơn vị tính). Hỏi nhà bạn Ly nuôi bao nhiêu con
gà thì ta trả lời là: Nhà bạn Ly nuôi số con gà là:… Những HS yếu ta có thể
hướng dẫn nhớ máy móc là: Bỏ tiếng “hỏi” đi và thêm tiếng “số” thay cho từ
“bao nhiêu”, với tiếng “là” cuối câu ta sẽ có một lời giải đầy đủ
* Về thực hiện phép tính: Một số HS lại thực hiện sai phép tính cộng
thành trừ và ngược lại. Một số HS lại biết làm phép tính đúng với yêu cầu bài
toán nhưng kết quả tính lại sai.
Một số HS tính đúng kết quả nhưng lại sai đơn vị tính hoặc không bỏ đơn vị tính
vào trong ngoặc.
Ví dụ 2: ( Bài 4 trang 64). Một cửa hàng đồ chơi có 84 ô tô và máy bay,
trong đó có 45 ô tô. Hỏi cửa hàng đó có bao nhiêu máy bay ?
HS thường có những tồn tại sau: Thường không biết làm phép tính gì và
làm là phép tính cộng vì không hiểu từ “trong đó”. Cũng có em làm trừ: Lấy 84
– 45 nhưng kết quả lại sai. Có em trừ đúng nhưng đơn vị tính lại sai. (VD lại viết
10



là: đồ chơi hoặc ô tô…) hoặc không bỏ đơn vị tính vào trong ngoặc. Ở tồn tại
này GV cần giúp các em đọc kĩ đề toán, phân tích đề và hiểu đề: 84 là cả ô tô và
máy bay. Trong đó có 45 ô tô (tức 45 ô tô trong 84 ô tô và máy bay). Ta phải lấy
84 – 45 ô tô thì còn lại số máy bay. Nếu HS tính sai kết quả thì GV phải bổ sung
phần số học. Cho các em ôn lại phần tính trừ dạng 54 – 18 để các em hiểu và
nhớ cách trừ. Nếu các em không hiểu đơn vị tính thì giải thích cho các em là
người ta hỏi cái gì thì đơn vị tính là các đó và lưu ý bỏ trong dấu ngoặc. Sau khi
hướng dẫn cho các em những tồn tại trên, GV ra các bài toán tương tự thì các em
đã làm được.
* Cách viết đáp số:
Một số em ghi lời giải và phép tính đúng nhưng đáp số lại sai. Vấn đề này
không khó xong do HS không chú ý hoặc do sơ suất nên đã bị sai.
Ví dụ 3 ( Bài 4 trang 64 ): Mẹ vắt được 50 lít sữa bò, chị vắt được ít hơn
mẹ 18 lít sữa bò. Hỏi chị vắt được bao nhiêu lít sữa bò ?
Thường HS làm như sau:
Bài giải
Chị vắt được số lít sữa bò là:
50 - 18 = 32 ( lít ).
Đáp số: 32 lít sữa bò.
Ở phần này GV cần lưu ý HS là đơn vị tính. Đọc lại bài toán và phần câu
hỏi, xác định rõ đơn vị tính là gì? ( rõ ràng ở bài này là lít nên cả phép tính và
đáp số phải kèm theo đơn vị lít chứ không phải là sữa bò. Từ “sữa bò” chỉ là làm
rõ thêm cho số lít tìm được thôi. Nếu ta không để lít mà chỉ để “sữa bò” thì
người đọc không hiểu đó là 32 thùng sữa bò hay 32 hộp sữa bò? Vì thế đáp số
phải ghi rõ ràng đơn vị tính thì mới đúng với yêu cầu của bài toán. Hay ở bài 2
trang 95: Mỗi con gà có 2 chân. Hỏi 6 con gà có bao nhiêu chân? HS lại cứ
nhầm số “chân gà” với “con gà”. Mà “chân gà” và “con” gà khác nhau hoàn
toàn. Vì vậy GV cần phải cho HS tìm hiểu kĩ bài toán rồi mới làm.
* Giải pháp 3: Rèn cho học sinh giải một số dạng toán khó và dễ nhầm
lẫn.

* Dạng bài toán HS khó hiểu và dễ nhầm lẫn:
Ví dụ 1 ( Bài 3 trang 72): Một bến xe có 35 ô tô, sau khi một số ô tô rời bến,
trong bến còn lại 10 ô tô. Hỏi có bao nhiêu ô tô rời bến ?
11


Bài này HS khó tưởng tượng. HS ít va chạm thực tế, nên cứ suy nghĩ quẩn
quanh mãi mà không biết làm như thế nào? Có HS lại suy nghĩ theo diễn giải
của bài toán và áng chừng số ô tô rời bến để còn lại là 10 ô tô nên các em giải
như sau:
Bài giải
Số ô tô rời bến là:
35 - 25 = 10 ( ô tô)
Đáp số: 25 ô tô ( hoặc có em lại đáp số là 10 ô tô).
Đối với dạng bài tập này GV cần hướng dẫn các em hiểu đề bằng cách
phân tích đề, mô tả lại diễn biến của bến xe. Giải thích cho HS bài toán hỏi gì thì
phép tính phải tìm cái đó, và kết quả phải là số cần tìm chứ không phải là số đã
cho. Sau khi hướng dẫn lại, HS sẽ giải đúng theo yêu cầu.
Ví dụ 1 ( Bài 3 trang 102) : Mỗi ngày Liên học 5 giờ, mỗi tuần lễ Liên
học 5 ngày. Hỏi mỗi tuần lễ Liên học bao nhiêu giờ?
Đối với bài này HS khó suy luận, khó hiểu, HS không tư duy lôgic theo
sự diễn đạt của bài toán. Thấy hơi vướng mắc một chút là lười suy nghĩ và làm
chừng chừng. Có HS làm phép tính là: 5 x 1 = 5 ( giờ). Có HS lại làm là: 5 x 7 =
35 ( giờ). Và đương nhiên một số em sẽ làm là: 5 x 5 = 25 (giờ). Khi trong một
lớp học mà có nhiều em, mỗi em làm một kiểu như vậy, giáo viên không nản
lòng mà cần mẫn giúp các em hiểu ra bản chất của bài toán. Thực tế không phải
lấy 5 giờ nhân với một tuần mà cũng không phải lấy 5 giờ nhân với 7 ngày của
mỗi tuần, mà quan trọng mấu chốt ở đây là mỗi tuần Liên học 5 ngày chứ không
phải học 7 ngày. Sau khi cho HS phân tích kĩ bài toán, HS đã hiểu và làm đúng
theo yêu cầu.

Ví dụ 2 ( Bài tập 2 trang 113): Có 24 HS chia đều thành 3 tổ. Hỏi mỗi tổ
có mấy HS?
Ở bài tập này HS thường lẫn lộn với bài tập dạng: Có 24 HS chia thành
các tổ, mỗi tổ có 3 học sinh. Hỏi có tất cả bao nhiêu tổ? Hai bài tập này cùng
làm một phép tính chia, đều lấy 24 : 3 = 8. Nhưng về bản chất hoàn toàn khác
nhau. Yêu cầu của mỗi bài toán cũng khác nhau. Ở bài 1 là tìm số HS trong mỗi
tổ khi đã biết số tổ. Còn ở bài tập 2 là tìm số tổ khi đã biết số HS trong một tổ.
Vậy khi giải xong ta sẽ biết ở BT1 là có 3 tổ, mỗi tổ 8 HS. Còn ở bài tập 2 thì lại
có 8 tổ, mỗi tổ 3 HS. Cũng có HS giải đúng nhưng lại không hiểu gì về bản chất
12


của bài toán cả mà chỉ giải theo quán tính. Vì vậy ở dạng bài dễ lẫn này, GV cho
HS đọc kĩ đề, phân tích đề, tóm tắt đề rồi đọc lại đề bài để hiểu rõ yêu cầu của
bài tập sau đó mới đi đến cách giải. Nếu HS hiểu rõ bản chất của hai bài tập này
cũng sẽ bổ sung cho kiến thức Tiếng Việt và các môn học khác rất nhiều vì nó
như là tìm hiểu nội dung một vấn đề nào đó vậy. Vì thế GV không thể lướt qua
hoặc dạy sơ sài phần này được. Sau khi HS đã hiểu kĩ các em sẽ vận dụng vào
cuộc sống rất tốt.
Ví dụ 3 ( Bài tập 3 trang 128): Có một số kẹo chia đều cho 3 em, mỗi em
được 5 cái kẹo. Hỏi có tất cả bao nhiêu cái kẹo?
Ở bài tập này HS dễ nhầm lẫn là làm phép tính cộng vì thấy có từ “tất cả”.
Vì vậy GV lại cần phải nhấn mạnh cho các em rằng ở đây có từ “chia”. Có nghĩa
là phải tìm số bị chia. Mà muốn tìm số bị chia ta lại lấy thương nhân với số chia.
Vậy trong bài toán này các em cần xác định rõ đâu là số bị chia? Đâu là số chia?
Đâu là thương? Từ đó các em sẽ giải bài toán một cách dễ dàng. Nhưng ở những
bài như bài tập 3 trang 172 v.v. không có từ “chia” thì ta làm như thế nào? Đối
với những bài này, GV lại dựa vào các từ như “xếp hàng”. GV cho HS đọc kĩ bài
toán và hiểu rõ ý nghĩa của bài toán. Từ đó xác định cách làm cho đúng.
- Một số bài toán liên quan đến đại lượng HS hay nhầm lẫn.

Một số bài toán liên quan đến đại lượng, HS hơi khó tưởng tượng, không
nhớ kĩ cách đổi nên thường làm sai.
Ví dụ 1( Bài 3 trang 175) : Hai xã Đinh Xá và Hiệp Hoà cách nhau 11 km.
Nhà bạn Phương cách xã Hiệp Hoà 20km ( xem hình vẽ). Hỏi nhà bạn Phương
cách xã Đinh Xá bao nhiêu ki- lô mét
20km
nhà Phương

xã Hiệp Hoà
…km ?

xã Đinh Xá

11km

HS thường không hiểu cách làm. Bạn thì làm phép cộng, bạn thì làm phép
trừ. Với bài này GV cần hướng dẫn cho HS đọc kĩ đề toán, quan sát kĩ hình vẽ,
mô tả lại, phân tích đề, đưa về dạng toán tìm số hạng chưa biết. Từ đó HS sẽ có
cách làm đúng.

13


Ví dụ 2 : ( Bài tập 4 trang 174): Một trạm bơm phải bơm nước trong 6
giờ. Bắt đầu bơm lúc 9 giờ. Hỏi đến mấy giờ thì bơm xong ?
Đối với bài này HS khó hiểu hành văn, câu từ nên không hiểu ý nghĩa của bài
toán. Thường làm chừng phép tính còn lời giải thì sai hoặc không chính xá. Vì
vậy GV phải cho HS đọc kĩ đề, nêu câu hỏi HS trả lời và tưởng tượng ra công
việc mà Trạm bơm đã làm. Nhớ lại về cộng trừ số đo thời gian. Bám vào nội
dung bài để nêu lời giải. Từ đó HS có thể giải là:

Giải
Trạm bơm bơm nước xong lúc:
9 + 6 = 15 ( giờ)
Đáp số: 15 giờ.
Đối với dạng bài tập: Giải bài toán theo tóm tắt. HS thường không hiểu đề
và dẫn đến làm sai.
Ví dụ 3 ( Bài 4 trang 37): Giải bài toán theo tóm tắt sau:
46 cây
Đội 1
5 cây
Đội 2
... cây ?
Ở bài này GV cho HS quan sát kĩ tóm tắt, sau đó từ tóm tắt đặt được đề
bài toán : Đội Một trồng được 46 cây. Đội Hai trồng nhiều hơn đội Một 5 cây.
Hỏi đội Hai trồng được bao nhiêu cây ? Đọc bài toán, HS lại nhìn vào tóm tắt,
trả lời các câu hỏi :
? Bài toán cho biết gì? ( Đội Một trồng được 46 cây, đội Hai trồng nhiều
hơn đội Một 5 cây).
? Bài toán yêu cầu ta điều gì? ( Hỏi đội Hai trồng được bao nhiêu cây?)
Sau ki HS đã hiểu bài toán các em sẽ nêu cách giải dễ dàng.
Tương tự như vậy, đối với các bài toán khác, HS khó hiểu, GV cũng sẽ
tìm cách giúp đỡ các em để HS hiểu bài một cách dễ dàng và đem lại kết quả
cao. Gây hứng thú học tập cho các em.
2.3.2. Một số giải pháp hỗ trợ khác.
Để hỗ trợ và góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học toán phần giải toán có lời văn cho học sinh lớp hai, ngoài những việc làm nêu trên,
giáo viên cần thực hiện tốt thêm các yêu cầu sau:
14


- Làm tốt công tác tự học tự bồi dưỡng GV:

Mỗi giáo viên không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, học hỏi bạn bè, đồng
nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn. Luôn nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu
sách báo, tập san để trau dồi kiến thức. Đặc biệt là luôn dự giờ thăm lớp để đúc
rút kinh nghiệm cho bản thân. Tham gia đầy đủ các chuyên đề do Nhà trường và
PDG tổ chức để củng cố kiến thức và nâng cao tay nghề. Không bao giờ dấu
những yếu kém, chỗ nào không hiểu hỏi ý kiến chuyên môn nhà trường. Vì vậy
vốn kiến thức và kinh nghiệm của giáo viên dạy khối lớp hai của trường ngày
một vững vàng hơn. Mỗi giáo viên càng ngày càng khẳng định mình thông qua
các giờ dạy và chất lượng học tập của HS.
Đối với mỗi giáo viên, việc đầu tiên là nghiên cứu nội dung bài học, tìm
hiểu các loại tài liệu có liên quan, vận dụng vào thực tế đối tượng HS của lớp
mình để soạn bài cho sát thực. Sau đó lên lớp, dạy HS theo phương pháp đổi
mới, phát huy tính tích cực của HS. Vận dụng các chuyên đề do Nhà trường và
PGD tổ chức. Trong quá trình lên lớp tôi luôn thực hiện tốt các vấn đề sau đây:
- Tiết học luôn đảm bảo đầy đủ kiến thức, hệ thống nổi bật trọng tâm.
- Luôn vận dụng bài học vào thực tế, có tính cập nhật thực tiến, gắn với
đời sống xung quanh trẻ.
- Dạy học đúng đặc trưng bộ môn, đúng loại bài (lí thuyết, thực hành).
- Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
- Hình thức tổ chức dạy học phong phú, phù hợp; phân bố thời gian hợp lí.
- Sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học thiết thực, hiệu quả. Thường xuyên
ứng dụng Công nghệ thông tin.
- Gần gũi, quan tâm đến từng đối tượng HS.
- Đảm bảo tất cả HS đều được hoạt động học tập tích cực theo đúng khả
năng của mình. Tạo điều kiện cho HS có cơ hội thể hiện mình và đương nhiên
HS nắm được kiến thức, kĩ năng cơ bản và vận dụng được. Tiết học luôn mang
lại hiệu quả cao.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn:
Tôi luôn tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuẩn bị các ý
kiến xác đáng đóng góp cho tổ, khối . Các đồng nghiệp của tôi luôn đưa ra

những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng đại trà nói chung cũng như
chất lượng học môn toán nói riêng, tìm ra những khó khăn vướng mắc của giáo
viên trong quá trình dạy học, đặc biệt là phần giải toán có lời văn lớp hai để tổ
15


chuyên môn trao đổi, góp ý xây dựng; hoặc nêu lên thực trạng của từng lớp, đề
xuất hướng giải quyết,... Tham gia đầy đủ các chuyên đề do nhà trường, do
phòng Giáo dục tổ chức, học hỏi kinh nghiệm cũng như nắm bắt những đổi mới
trong quá trình dạy học.
- Dạy tốt tất cả các môn, nâng cao chất lượng đại trà:
Muốn nâng cao chất lượng môn toán, trước hết phải nâng cao chất lượng
đại trà có nghĩa là phải dạy tốt tất cả các môn học trong chương trình. Bởi môn
học này bổ trợ cho môn học kia. Học tốt Tiếng Việt; Đạo đức; TNXH… sẽ hỗ
trợ nâng cao chất lượng môn Toán. Có đọc thông viết thạo thì mới đọc được đề
toán, mới có những lời giải hay, đầy đủ. Chữ viết có đẹp thì mới trình bày được
rõ ràng. Học tốt môn Đạo đức thì mới có ý thức học tập tốt v.v. Sau khi HS đã
học tốt tất cả các môn, sẽ xoay trọng tâm vào môn Toán. Trong môn Toán lại dạy
tốt tất cả các kiến thức như: Số học; Đại lượng và đo đại lượng; Yếu tố hình học.
Vì có học tốt phần số học thì làm phép tính trong bài giải mới đúng. Có học tốt
phần đại lượng thì mới hiểu nội dung bài toán và ghi tên đơn vị mới đúng. Có
học tốt phần hình học thì mới hiểu những bài toán liên quan đến hình học nói gì
và vẽ sơ đồ tóm tắt ra sao. v.v. Sau khi HS nắm chắc các phần kiến thức đó sẽ đi
sâu vào phần kiến thức giải bài toán có lời văn. Trong phần giải bài toán có lời
văn, tự phân loại các dạng toán, chú trọng vào những bài toán các em hay mắc
lỗi để đưa ra giải pháp, uốn nắn các em kịp thời ngay trong từng tiết học. Sau đó
mới củng cố thêm cho các em trong các tiết ôn tập để từ đó các em vận dụng vào
thực tế cuộc sống, vận dụng khi làm bài tập .
- Làm tốt công tác chủ nhiệm, tạo tâm lí tự tin cho các em.
Ngay từ đầu năm, sau khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu từng đối tượng HS:

điều kiện hoàn cảnh của từng em, năng lực, sở trường của mỗi em, tính cách của
từng em, em nào mạnh dạn, em nào nhút nhát, em nào không thông minh lắm
nhưng lại chăm học; em nào thông minh, sáng dạ nhưng lại hấp tấp hoặc lười.
Hoàn cảnh gia đình của các em như thế nào, điều kiện học tập ở nhà ra sao?... để
GV có kế hoạch kèm cặp bồi dưỡng từng đối tượng HS. Sắp xếp chỗ ngồi như
thế nào cho hợp lí? Phân công, chia tổ cho các em kèm cặp lẫn nhau. Lúc thì
cùng đối tượng, lúc thì cùng sở thích. Lúc thì cùng ngõ phố v.v Để từ đó giúp
đỡ tất cả các em cùng tiến bộ. Song song với việc giúp đỡ các em trong học tập,
giáo viên cần phải luôn gần gũi các em, chia sẻ cùng các em những vui, buồn,
16


những khó khăn trong cuộc sống, trong học tập, luôn là người mẹ hiền thứ hai
của các em. Sau một thời gian quan tâm, giúp đỡ, chất lượng học tập của lớp đi
lên rõ rệt, đặc biệt là môn Toán.
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm.

Sau một thời gian thực hiện đồng bộ tất cả các biện pháp nêu trên kết quả
đạt được cụ thể như sau:
2.4.1. Về phía học sinh lớp 2D.
Sau gần một năm học trăn trở và thực hiện đề tài. Với lòng say mê nghề
nghiệp, với sự nhiệt tình trong công tác chuyên môn cùng với nhận thức được
trách nhiệm nặng nề đối với ngành. Bản thân tôi đã rất cố gắng trong việc giúp
đỡ HS học tập để nâng cao chất lượng dạy môn Toán cho HS lớp 2D. Kết hợp
với sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu, Tổ chuyên môn và sự cố gắng của từng HS
trong lớp. Chất lượng học tập của học sinh khối lớp 2D ngày một đi lên. Từ
những em chưa hoàn thành ở đầu năm đã vươn lên xếp loại hoàn thành, từ hoàn
thành lên hoàn thành tốt. Các em phấn khởi, hăng say học tập hẳn lên, không
còn tự ti, rụt rè như trước nữa. Chất lượng của các em ngày một tiến bộ. Các em
đã đọc thông thạo đề toán, biết cách phân tích đề toán, tóm tắt và giải đúng. Lời

giải rõ ràng, rành mạch. Phân tích đúng với yêu cầu của bài toán, tính đúng kết
quả và viết đúng đáp số. Không còn lẫn lộn các đơn vị tính nữa. Trình bày đẹp,
sạch sẽ. Trong các tiết học, GV còn đưa ra các tình huống ở một số bài toán cho
HS giải quyết. Hoặc trong các tiết ôn tập, đưa ra các dạng bài khác nhau để củng
cố kiến thức nhưng các em đều thực hiện được. Từ những tiến triển đó, chất
lượng về giải toán tăng lên rõ rệt. Không còn học sinh chưa đạt môn Toán, tỉ lệ
HS hoàn thành tốt tăng lên trong đợt kiểm tra cuối kì một. Từ đó chất lượng của
học sinh về môn toán cũng rất khả quan, cụ thể
- Chất lượng HS đại trà về môn Toán :
TT Lớp
1

2D


số
45

Hoàn thành tốt
SL
TL
20
44.5

Hoàn thành
SL
TL
25
55.5


Chưa hoàn thành
SL
TL
0
0

Nhìn vào bảng tổng hợp trên, có thể thấy rằng, chất lượng học toán của
lớp 2D tăng lên rõ rệt. GV đã thực sự đổi mới phương pháp dạy học, biết kết
17


hợp giữa những kinh nghiệm của bản thân, của đồng nghiệp, kết hợp các
phương pháp truyền thống và sáng tạo riêng của mình, vì vậy chất lượng của lớp
ngày một đi lên. Tôi nghĩ rằng nếu áp dụng sáng kiến này để triển khai rộng rãi
giảng dạy các lớp khối 2 thì chất lượng sẽ tăng cao. Hy vọng rằng đề tài của tôi
sang năm tới cũng sẽ được đồng nghiệp áp dụng.
2.4.2. Kết quả đạt được trong trường.
Từ những kinh nghiệm nhỏ nhoi mà tôi đã thực hiện tại khối chuyên môn
lớp 2 trong năm học này, tôi đã trao đổi với đồng nghiệp trong các buổi sinh
hoạt tổ khối hoặc các buổi sinh hoạt chuyên môn toàn trường. Giáo viên trong tổ
đã rất ủng hộ cho việc làm của tôi. Họ đã nhìn thấy hiệu quả đạt được rõ rệt ở
khối lớp 2. Từ đó vận dụng một vài sáng kiến nhỏ vào trong quá trình dạy học.
Chất lượng của các lớp cũng được nâng lên. Đặc biệt đến giữa học kì II, khối 2
chúng tôi không còn học sinh chưa hoàn thành về môn toán.
3. KẾT LUẬN
3.1.Kết luận:
- Như chúng ta đã biết, trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã rất
coi trọng sự nghiệp Giáo dục. Đảng cho rằng : "Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Nền Giáo dục có phát triển được hay không, những nhân tài có xuất hiện
được hay không chính là nhờ vào sự học tập, rèn luyện của các em học sinh. Mà

chất lượng của các em có tốt hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào sự giảng dạy
của các thầy cô giáo. Nhận thức tốt điều đó, là một giáo viên trực tiếp phụ trách
giảng dạy lớp 2, tôi rất trăn trở, băn khoăn trong quá trình giảng dạy. Làm sao để
dạy tốt? Làm sao để đưa chất lượng tăng cao với một lớp có nhiều đối tượng
khác nhau, có những đặc thù riêng biệt hơn so với những lớp khác ? Việc đưa
chất lượng đại trà đi lên đã khó huống gì bồi dưỡng học sinh hoàn thành xuất
sắc, phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn học. Vậy muốn đưa chất lượng đi
lên thì trước hết giáo viên phải dạy tốt tất cả các môn học và đặc biệt là chú
trọng vào môn Toán. Trong môn Toán thì phần giải toán có lời văn là vô cùng
quan trọng, nó kết hợp cả kiến thức số học, đại lượng và hình học, nó còn bổ
sung cho các môn học khác nữa. Từ tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp đến gặp
gỡ, trao đổi với phụ huynh, rồi làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục cũng như là
tìm ra phương pháp phù hợp để giúp đỡ các em nắm vững kiến thức, tiếp thu bài
18


một cách dễ dàng. Ở mỗi dạng bài, tôi đều giúp GV tìm hiểu nguyên nhân vì sao
các em không hiểu để từ đó có biện pháp khắc phục. Nghiên cứu, tìm tòi những
giải pháp hữu hiệu để giúp các em hiểu bài. Thay đổi hình thức dạy học, gần gũi,
quan tâm, giúp đỡ học sinh. Khích lệ các em nêu cao tinh thần học tập. Ngoài
các lần kiểm tra định kì do nhà trường tổ chức, hàng tuần, hàng tháng kiểm tra
vở bài tập cho các em chữa những lỗi sai, chỉ ra hướng khắc phục và động viên
học sinh giúp các em củng cố kiến thức và đó cũng là căn cứ để giúp GV nắm
bắt tình hình và điều chỉnh quá trình dạy học cho hợp lí hơn. Qua gần một năm
nghiên cứu và thực hiện theo sáng kiến của mình. Kết quả cho thấy chất lượng
HS tiến bộ rõ rệt, khẳng định được vai trò to lớn của GV trong quá trình dạy
học, trong công tác chủ nhiệm. Các em học sinh chăm ngoan, học giỏi, vâng lời
bố mẹ, thầy cô. Cùng nhau thi đua trong học tập. GV nắm vững chương trình,
kiến thức môn toán hơn và đặc biệt nắm vững phương pháp dạy học toán – giải
toán có lời văn.

Mặc dù chất lượng đạt được như vậy nhưng năm học này chỉ là năm khởi
đầu cho đề tài của tôi. Hy vọng rằng năm tới đề tài sẽ được thực hiện ngay từ
đầu năm học và được nhân rộng ra các khối lớp khác.
3.2. Kiến nghị:
* Cấp nhà trường.
- BGH nhà trường cần chọn giáo viên có kinh nghiệm, có năng lực để dạy
chuyên đề cho GV toàn trường học tập, từ đó chỉ đạo tổ chuyên môn rút kinh
nghiệm để các giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
- Hiệu trưởng nhà trường chỉ đạo chuyên môn, mở hội thảo chuyên đề về
viết và áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm cấp trường để cho giáo viên được học
tập kinh nghiệm lẫn nhau, nhất là giáo viên khối lớp hai học tập về phần giải
toán có lời văn, giúp cho tôi được hiểu rõ hơn nữa về những kinh nghiệm của
từng giáo viên trong quá trình dạy học, và nghiên cứu, thực hiện đề tài khoa học
của họ. Từ đó tôi học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm trong công việc giảng dạy
được nhiều hơn cho bản thân mình.
* Đối với cấp trên:

19


+ Đề nghị với PGD&ĐT hằng năm mở các lớp chuyên đề về nghiên cứu
và áp dụng đề tài SKKN để cho chúng tôi có cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các
trường bạn, từ đó tạo điều kiện cho tôi thực hiện tốt đề tài cho các năm sau.
+ Tổ chức Hội nghị Tôn vinh những giáo viên có SKKN xếp loại cao, có
tác dụng giáo dục đạt hiệu quả, sau đó cho chúng tôi có cơ hội được tham khảo,
học tập những sáng kiến đó, tích luỹ thêm kinh nghiệm cho việc viết và thực
hiện đề tài ở các năm sau .
Với thời gian có hạn, kinh nghiệm ít ỏi nên đề tài chỉ tập trung đi sâu điều
tra, nghiên cứu về môn Toán – dạng bài giải toán có lời văn lớp 2 và đưa ra một
số giải pháp giúp giáo viên lớp 2 ở trường tôi dạy học giải toán có lời văn khỏi

lúng túng nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. Trong quá trình nghiên cứu không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành
từ ban Giám khảo và các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, ngày 5 tháng 4 năm 2018
Xác nhận của Hiệu trưởng

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

nhà trường

không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Hường

20


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện : Nguyễn Thị Hường
Chức vụ

: Giáo viên
Đơn vị công tác :
Trường Tiểu học Đông Vệ 1
SKKN thuộc lĩnh vực: Môn Toán

21


THANH HOÁ NĂM 2018

22


23



×