Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho HS lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.19 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là “Hình thành và phát triển ở HS các kĩ
năng sử dụng Tiếng Việt( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi”, môn Tiếng Việt bậc Tiểu học lấy nguyên tắc
dạy học giao tiếp làm định hướng cơ bản. [2]
Trong giáo dục phổ thông nói chung và trường Tiểu học nói riêng, môn
Tiếng Việt là một môn quan trọng chiếm vị trí chủ yếu trong trương trình. Môn
này có đặc trưng cơ bản vừa là môn học cung cấp cho học sinh một khối lượng
kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ của từng môn
học vừa là công cụ để học tập các môn học khác. [6]
Phân môn Tập đọc rèn cho HS các kĩ năng đọc( đọc thành tiếng, đọc thầm,
đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc
theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân
môn Tập đọc cung cấp cho HS những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con
người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học( như
đề tài, cốt truyện, nhân vật,…) và góp phần rèn luyện nhân cách cho HS. [2]
Môn Tập đọc là một phân môn có tầm quan trọng to lớn với bậc Tiểu học,
nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu
các môn học khác. Trong năng lực hoạt động ngôn ngữ ở con người thể hiện ở kĩ
năng: Nghe, nói, đọc, viết. Như vậy kĩ năng đọc là một trong bốn kĩ năng hoạt
động của ngôn ngữ. Đặc biệt ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng, kĩ năng
đọc có ý nghĩa rất sâu sắc, đọc để nắm được ý chính của đoạn văn, biết đặt đầu
đề cho đoạn văn, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật hoặc chi tiết trong
bài học. Môn này giúp học sinh trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển
tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Muốn học giỏi thì trước
hết phải đọc thông, viết thạo thì các em mới nắm được nội dung bài. Từ đó các
em mới cảm thụ được cái hay, cái đẹp, suy luận, tìm tòi để làm bài được tốt. [4]
Môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng đặt ra một nhiệm
vụ quan trọng, trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc trôi chảy
một đoạn văn, đoạn đối thoại,bài văn ngắn, bài thơ. Bước đầu biết đọc thầm bài


văn, bài thơ. Hiểu được ý chính của đoạn, bài. Qua đó tạo cho các em sự say mê,
hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể hỗ trợ cho trẻ học tốt các môn học
khác. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu
cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lòng ham
muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng
Việt và tình yêu tiếng Việt. Giờ Tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học
sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để phát triển óc phân
tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Môn Tập
đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng
việt qua các bài văn chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa
học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động, được
luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Học môn Tập đọc, việc đọc và hiểu là 2

1


khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó, hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt
giúp cho việc đọc tốt. Ngược lại việc đọc tốt giúp cho việc hiểu bài thêm sâu
sắc. Để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng
dạy của phân môn này.
Việc dạy đọc bên cạnh những thành công còn có những hạn chế: Học sinh chưa
đọc được như ta mong muốn, đọc chưa đúng ở những chỗ ngắt nhịp vì các em chưa
hiểu được nội dung câu thơ, câu văn nên các em ngắt nghỉ không đúng với nội dung
biểu cảm của tác giả. Học sinh chưa hiểu cách nói văn chương, các em thường
ngắt giọng giữa chừng, các em chưa biết phân biệt chỗ nào cần lên giọng, chỗ
nào cần xuống giọng. Khi đọc câu hỏi, giọng đọc các em còn đều đều chưa toát
lên được nội dung câu hỏi. Khi đọc các câu hội thoại các em chưa phân biệt
được giọng của nhân vật, giọng của tác giả. Giáo viên Tiểu học còn lúng túng
các bước khi dạy tập đọc theo chương trình mới, vận dụng quy trình còn máy
móc, dạy còn theo sách giáo viên, sách thiết kế bài soạn chứ không chú ý đến

đặc thù của địa phương. Cần đọc bài tập đọc như thế nào, làm thế nào để chữa
lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, diễn
cảm hơn. Làm sao để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu,… Đó là những trăn
trở của giáo viên trong mỗi giờ Tập đọc. Từ thực trạng đó nên dẫn đến giờ dạy hiệu
quả chưa cao mà trong chương trình chưa có hướng dẫn cụ thể, chưa đúc rút kinh
nghiệm trong giảng dạy. Vì thế tôi băn khoăn, trăn trở và mạnh dạn chọn nghiên
cứu viết SKKN " Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2".
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
- Tìm hiểu yêu cầu nhiệm vụ và thực trạng dạy học của phân môn Tập đọc
lớp 2.
- Đưa ra một số kinh nghiệm giúp học sinh rèn kĩ năng đọc tốt hơn, qua đó
nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài được nghiên cứu ứng dụng trực tiếp đối với 32 học sinh lớp 2C
trường Tiểu học Quảng Lộc, Quảng Xương, trong năm học 2017 - 2018 (lớp tôi
chủ nhiệm) và 33 học sinh lớp 2B (lớp đối chứng).
- Nghiên cứu về các giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp.
- Phương pháp nghiên cứu, lí luận.
Tìm đọc, phân tích, thu thập các vấn đề về lí luận dạy học liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra quan sát, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Tôi tiến hành điều tra ở hai lớp: lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để nắm
được kĩ năng đọc của HS trước và sau khi thực hiện các giải pháp.
- Phương pháp thực nghiệm và đối chứng kết quả.

2



Từ những kết quả thực nghiệm và đối chứng, bản thân đã đánh giá, nhận
xét và phân tích số liệu để làm cơ sở đưa ra những nhận định và kết luận sát
thực.
- Phương pháp đàm thoại, vấn đáp, trắc nghiệm.
Trực tiếp đàm thoại với đồng nghiệp, học sinh để tìm hiểu những thuận lợi,
khó khăn trong quá trình dạy và học. Lấy phiếu trắc nghiệm để kiểm tra kĩ năng
đọc hiểu của HS.
- Phương pháp luyện tập thực hành.
Tiến hành thực hành soạn, dạy theo định hướng của những kinh nghiệm
đưa ra.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
a. Vị trí, vai trò của phân môn Tập đọc.
Phân môn Tập đọc có vị trí rất quan trọng trong chương trình Tiểu học nói
chung. Tập đọc là bài học khởi đầu giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, chiếm lĩnh
công cụ (nghe, nói, đọc, viết). Dạy Tập đọc còn trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn
học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của HS về cuộc sống, đồng thời bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng , tình yêu cái đẹp,
cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống; hứng thú đọc sách và yêu
sách tiếng Việt, từ đó mở rộng cánh cửa cho học sinh nắm lấy kho tàng tri thức
của loài người.
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc
lưu loát, trôi chảy) đọc hiểu và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành
trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện
đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có
tác động tích cực đến những kỹ năng khác. [2]
- Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội

dung văn bản. Ngược lại nếu không hiểu điều đang đọc thì không thể đọc nhanh
và diễn cảm được. Nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở
cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng, hay chính nhờ hiểu đúng mới đọc
đúng. Vì vậy trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.
- Thông qua việc dạy đọc, làm cho học sinh thích đọc và thấy đó là một trong
những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát
triển.
- Đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh
nhiệm vụ rèn kỹ năng đọc, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ:
+ Làm giàu và tích cực hóa vốn kiến thức ngôn ngữ, đời sống và kiến thức
văn học cho học sinh.
+Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống, hình
thành một số kĩ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân.
+ Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản.

3


+ Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
Quá trình dạy học gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: Hoạt động
dạy học của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ thể
của hoạt động dạy với hai chức năng truyền đạt và chủ đạo tổ chức. Học sinh là
đối tượng (khách thể) của hoạt động dạy nhưng lại là chủ thể của hoạt động học
tập với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức.
Hoạt động học tập của học sinh chỉ có thể đạt hiệu quả nếu học sinh tiến
hành các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động
cơ nhận thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập, mỗi học sinh tự hình thành và
phát triển nhân cách của mình mà không ai có thể làm thay được.
Dạy học là con đường thuận lợi nhất, giúp học sinh trong khoảng thời gian
ngắn nhất, có thể nắm được một khối lượng kiến thức cần thiết. Nó được tiến

hành một cách có tổ chức, có kế hoạch, giúp học sinh phát triển một cách có hệ
thống, năng lực hoạt động trí tuệ và tư duy sáng tạo. Từ đó giúp học sinh có
hành động đúng đắn trong học tập. [4]
b. Cơ sở thực tiễn.
Khi tiến hành làm đề tài này tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn
Tập đọc 2 để tìm hiểu nội dung, cấu trúc của chương trình, tìm hiểu việc học của
các em, tìm hiểu các tài liệu hướng dẫn của ngành, nghiên cứu rút kinh nghiệm
qua từng tiết dự giờ. Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt nhất là
phân môn Tập đọc.
Tìm hiểu đội ngũ giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp gì? Những
điểm hợp lý và chưa hợp lý trong quá trình rèn đọc cho học sinh.
Thường xuyên dự giờ của giáo viên dạy khối 2; 3 để rút kinh nghiệm trong
quá trình dạy học nhất là phân môn Tập đọc.
+ Học sinh: Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học còn nhỏ, tự
giác trong học tập chưa cao, trình độ đọc còn yếu( do các em mới từ lớp 1 lên),
đọc phát âm theo tiếng địa phương nhiều. Đa số HS chưa có ý thức trau dồi vốn
từ, ít đọc sách, ít luyện nói.Một bộ phận không nhỏ HS có bố mẹ đi làm ăn xa để
ở nhà cho ông bà nên ông bà không biết dạy cháu đọc.
+ Giáo viên: Phần luyện đọc nhiều giáo viên cho là dễ, nhưng thực chất đây
là phần khó nhất, phần trọng tâm của bài giảng. Ở khâu này, giáo viên ít mắc lỗi
về thao tác kĩ thuật nhưng lại không biết dạy như thế nào để phát huy tính tích
cực sáng tạo của học sinh, chưa chú ý đến tốc độ đọc của các em theo yêu cầu
về kiến thức và kĩ năng cơ bản phù hợp với từng khối lớp. Hơn nữa có một số
giáo viên thường sử dụng các ngôn từ, phát âm mang nhiều nét riêng của các địa
phương, nhiều GV chưa chú trọng đến việc phát âm tiếng Việt theo chuẩn tiếng
phổ thông.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Đặc điểm tình hình
* Địa phương, phụ huynh.
-Thuận lợi: Địa phương tuy còn nghèo nhưng rất quan tâm đến giáo dục,

nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc học của con em mình.

4


-Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên, không thể không nói đến những
khó khăn:
+Địa phương nơi tôi công tác là một xã thuần nông, nền kinh tế người dân
còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy trong xã có rất nhiều người dân phải đi làm ăn
xa nên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập của các em. Nhiều gia đình
không quan tâm đến việc học tập của con em mình, giao phó cho ông bà hoặc có
tư tưởng khoán trắng cho nhà trường.
* Nhà trường, học sinh.
-Thuận lợi: BGH nhà trường thường xuyên quản lý sát sao và có kế hoạch
hoạt động phù hợp, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc Dạy - Học của giáo
viên và học sinh. Trường có số lượng hơn 500 em, số HS ở các lớp không quá
đông nên thuận lợi cho GV quan tâm các em nhiều hơn.
-Khó khăn:+Nhà trường: Điều kiện cơ sở vật chất của trường còn nhiều
thiếu thốn: chưa có các phòng chức năng cho học sinh, bàn ghế ngồi học còn
chưa đúng quy cách, một số GV chuyển từ cấp hai xuống nên việc tiếp cận
phương pháp dạy học Tiếng Việt còn hạn chế.
+Về HS: Việc học Tiếng Việt của các em còn hạn chế, nhất là nhiều học
sinh còn đọc sai, phát âm không đúng và còn sai lỗi phát âm địa phương. Các
em còn tiếp thu bài một cách thụ động. Các em ngại đọc nhiều lần.
2.2.2. Thực trạng dạy học Tập đọc của các trường Tiểu học.
* Về phía giáo viên.
- Một số giáo viên chưa thực sự chú ý đến vai trò của đọc mẫu, đọc diễn
cảm trong quá trình dạy Tập đọc.
- Việc lựa chọn từ và giải nghĩa từ của giáo viên còn rập khuôn (bám sát từ
ở phần chú giải trong SGK).

- Chưa phân biệt lựa chọn từ mới để cung cấp cho nội dung bài.
- Vẫn còn nhiều giáo viên đọc bài, giao tiếp còn sử dụng tiếng địa phương
nên chưa sửa sai được cho học sinh.
- Việc sử dụng đồ dùng còn hạn chế, giáo viên còn dạy "chay", chưa coi
những phương tiện trực quan là cần thiết trong việc luyện đọc,... Vì thế việc đọc
đúng, đọc hay của học sinh còn hạn chế.
* Về học sinh.
Học sinh mới từ lớp 1 lên nên chỉ mới biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ
và đọc chưa đúng các phụ âm khó. Bên cạnh đó, đọc hiểu, nắm nội dung bài còn
khó hơn. Qua khảo sát chất lượng đầu năm kết quả cho thấy: hầu hết các em đọc
còn chậm. Khi đọc còn ngắt, nghỉ chưa hợp lí, đọc ê a, ngắc ngứ, thậm chí một
số em còn phải đánh vần để đọc từng chữ .
Thực trạng của nhiều học sinh đọc kém có nhiều nguyên nhân dẫn đến. Một
số em đến lớp không tập trung chú ý nghe giảng, chưa chịu khó luyện đọc, đi
học chưa chuyên cần, phụ huynh không kiểm tra, nhắc nhở con em học tập ở
nhà, một số HS chậm phát triển về trí tuệ. Tất cả những điều trên đã dẫn đến kết
quả học tập của đa số học sinh là chưa cao. Nhất là phân môn Tập đọc, các em
chỉ biết đọc, chứ đọc chưa đúng, chưa hay.

5


Từ những thực trạng nêu trên và để hoàn thành ý tưởng nêu ra “Một số
kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2” của mình. Ngay từ đầu năm
học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc, lấy 2 lớp làm trung
tâm nghiên cứu đó là lớp 2C (lớp chủ nhiệm) và lớp 2B (lớp đối chứng).
Sau khi dạy bài "Làm việc thật là vui" [1]. Tôi đã phát hiện ra những lỗi
học sinh thường hay mắc phải cụ thể như sau:
*Lớp 2C (Lớp thực nghiệm) và lớp 2B(Lớp đối chứng)
Lớp

HS đọc
Học sinh
HS đọc đúng
HS đọc ngắc
đúng, trôi chảy, đọc đúng, trôi
nhưng còn chậm, ngứ, phát âm
biết ngắt nghỉ chảy, ngắt nghỉ
ngắt nghỉ chưa
còn sai
hợp lí
chưa hợp lí
hợp lí
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2C
6
18,75
12
37,51
7
21,87
7
21,87
2B

5
15,15
13
39,4
7
21,21
8
24,24
Từ kết quả khảo sát trên tôi rút ra được nhận xét:
* Ưu điểm:
- Hầu hết học sinh ở hai lớp đều đã biết đọc đúng trình tự văn bản.
- Nắm được yêu cầu bài tập.
* Nhược điểm:
- Kết quả khảo sát lần 1 cho thấy số học sinh ở cả 2 lớp nói chung và lớp tôi
chủ nhiệm nói riêng đã mắc lỗi phát âm, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn
cảm quá lớn. Cụ thể phần luyện phát âm có em Đào Thắng, Minh, Quân, Lan
Nhi ,... Phần ngắt giọng có em Trịnh Thắng, Xuân Hiếu, Duy… Phần đọc diễn
cảm thì chủ yếu là các em nêu trên mắc lỗi và một số em khác như em Bình,
Vân, Toàn.
* Nguyên nhân:
+ Giáo viên dạy lớp 1 còn nói tiếng địa phương cho nên việc hướng dẫn
phát âm theo chuẩn tiếng phổ thông cho HS là chưa cao. Bên cạnh đó GV chưa
chú ý cho HS luyện đọc trong các giờ học môn học khác.
+ Nguyên nhân chủ quan là do chính các em đem lại đó là tinh thần học tập,
thái độ học tập của các em chưa cao, do đặc điểm tâm lí trẻ 7 - 8 tuổi các em rất
hiếu động, khả năng tập trung chưa cao, do bố mẹ bận hoặc đi làm ăn xa nên
không có người kèm cặp, đôn đốc các em học tập. Trong khi đó, để học sinh đọc
đúng, biết ngắt giọng, nhấn giọng, đọc diễn cảm đòi hỏi ở tính kiên trì, nhẫn nại
chịu khó.
2.3. Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2.

Qua khảo sát thực trạng đầu năm và từ những nguyên nhân chủ quan, khách
quan nêu trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp về rèn kĩ năng đọc nhằm
năng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2.
Giải pháp 1: Xác định mục tiêu nội dung dạy học bài Tập đọc:

6


- Xác định mục tiêu giờ học tức là xác định nội dung để viết mục I “Mục
tiêu” trong kế hoạch bài dạy. Chúng ta biết rằng mục tiêu của phân môn Tập đọc
là các kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm.
Vì vậy, khi xác định mục tiêu giờ Tập đọc ta phải chỉ ra được tốc độ,
những nội dung luyện đọc đúng, đọc diễn cảm, đọc hiểu như thế nào?.
- Xác định nội dung dạy đọc càng cụ thể chi tiết bao nhiêu thì việc tiến
hành giờ dạy càng có hiệu quả bấy nhiêu. Để xác định mục tiêu, nội dung dạy
học chúng ta phải trả lời được: Sau giờ học học sinh đạt được những gì? Cụ thể
đó là trả lời các câu hỏi:
+ Học sinh cần đọc bài tập đọc trong thời gian bao lâu? (để xác định tốc
độ đọc, luyện kỹ năng đọc nhanh). [7]
+ Những từ ngữ, câu nào học sinh luyện đọc thành tiếng, chúng cần được
đọc lên như thế nào và vì sao lại chọn những từ ngữ, câu đó để luyện đọc?.
+ Toàn bài cần đọc với giọng điệu như thế nào, tốc độ, cường độ, cao độ,
trường độ ra sao?.
+ Những từ ngữ, câu nào cần giải nghĩa và giải nghĩa chúng ra sao?
Những tình tiết nào của câu chuyện cần tìm hiểu và tìm hiểu chúng như thế nào?
+ Nội dung chính của bài tập đọc là gì, ý nghĩa của bài văn, bài thơ, câu
chuyện là gì? Học sinh được giáo dục điều gì sau khi đọc bài tập đọc?.
Giải pháp 2: Rèn các kỹ năng đọc:
*Đọc mẫu:
- Giáo viên đọc mẫu thật diễn cảm, phù hợp với từng văn bản. Biết hướng

dẫn học sinh về cách đọc; sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học
thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động rèn kĩ năng
đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài, tham gia các trò chơi
luyện đọc, ...) phát triển kĩ năng đọc cho học sinh.
Tôi luôn chú trọng cách đọc mẫu làm thế nào cho hấp dẫn, lôi cuốn được
các em bắt chước cách đọc diễn cảm.
Ví dụ : Bài thơ: “ Mẹ'' [1]
Giáo viên đọc mẫu với giọng chậm rãi, tình cảm; ngắt nhịp thơ đúng; nhấn
giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm: lặng, mệt, nắng oi, chẳng bằng…. [8]
Ví dụ : Bài : ''Chuyện bốn mùa. [1]
- Đọc mẫu toàn bài. Chú ý phát âm rõ, chính xác; giọng đọc nhẹ nhàng;
đọc phân biệt lời các nhân vật: Lời Đông khi nói với Xuân trầm trồ, thán phục.
Giọng Xuân nhẹ nhàng. Giọng Hạ tinh nghịch, nhí nhảnh. Giọng Đông nói về
mình lặng xuống, vẻ buồn tủi. Giọng Thu thủ thỉ. Giọng bà Đất vui vẻ, rành rẽ.
Nhấn giọng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm: sung sướng nhất, ai cũng yêu, đâm chồi
nảy lộc, đơm trái ngọt, nghỉ hè, tinh nghịch, thích, chẳng ai yêu, đều có ích, đều
đáng yêu,… [2]
Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh
cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ, nhấn giọng ở những từ ngữ in đậm.
Ví dụ : Bài thơ : '' Mẹ[1]
Lặng rồi / cả tiếng con ve

7


Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi.//
Những ngôi sao / thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con.//
Bài thơ “Mẹ” thuộc thể thơ lục bát, bài thơ thể hiện nỗi vất vả và tình
thương bao la của mẹ dành cho con. Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ

điệu nên tôi thường dùng cử chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu
thơ. Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được không khí trong lớp
học thoải mái để học sinh có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và
cũng từ đó các em học tập và bắt chước thầy.
- Giáo viên phải có kỹ năng “đọc” thành thục.
Như ta đã biết chất lượng đọc của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó vai trò hướng dẫn của giáo viên rất quan trọng.
Kỹ năng đọc là mục đích cuối cùng chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi
giờ học Tập đọc. Giáo viên phải tạo được cho mình kỹ năng đọc thành thục.
Giáo viên phải biết cách xác định từ, câu quan trọng đến việc hiểu được nghĩa,
ý, tình của văn bản. Giáo viên không thể hình thành ở học sinh kỹ năng gì mà
bản thân mình không có, không thể gặt hái được những gì mà ta không có khả
năng gieo trồng. Vì vậy, trong dạy học chúng ta không có quyền đòi hỏi học sinh
làm những gì mà bản thân mình chưa làm được. Giáo viên không thể luyện cho
học sinh đọc hay, đọc diễn cảm mà bản thân mình chưa xác định được bài văn
cần đọc với giọng điệu như thế nào?. Khi dạy học không có hiệu quả, nhiều giáo
viên đổ lỗi cho phương pháp mà không biết rằng “Phương pháp chỉ là hình thức
của sự tự vận động bên trong của chính nội dung”.
Một trong các phương pháp dạy học quan trọng nhất ở Tiểu học là
phương pháp luyện theo mẫu [5]. Vì vậy, không biết làm mẫu thì không thể tiến
hành giờ dạy. Do đó, khi soạn bài, giáo viên phải xác định được những kỹ năng
đọc cần có và luyện tập cho mình thành thục những kỹ năng này. Khi soạn bài,
giáo viên phải tự làm trước những gì mà học sinh phải làm trên lớp: Đọc thành
tiếng, giải nghĩa từ, trả lời những câu hỏi về nội dung bài.
- Giáo viên có sự hiểu biết về chương trình SGK và các tài liệu dạy học.
- Giáo viên phải tìm hiểu vốn “đọc” của học sinh, đặc điểm, trình độ của
học sinh. Việc tìm hiểu học sinh là một quá trình lâu dài đã được tiến hành
trước đó. Để tiến hành dạy học Tập đọc, chúng ta phải hiểu rõ học sinh của
mình, đặc điểm, trình độ của học sinh, các em đã có những kiến thức kỹ năng
đọc gì, cụ thể chúng ta phải biết rõ học sinh của mình có hứng thú với những

bài tập đọc nào, phát âm có gì sai chuẩn, khó phát âm, những từ ngữ nào, câu
nào trong bài khó đọc đúng, đọc hay. Để luyện đọc hiểu, chúng ta cần nắm
được học sinh của mình chưa hiểu, khó hiểu những từ ngữ nào, nội dung nào
trong bài… Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ
của nội dung và kỹ năng dạy đọc. Chẳng hạn, những lỗi phát âm lệch chuẩn của
học sinh giúp giáo viên xác định được những từ ngữ trong bài cần luyện đọc
đúng chính âm.
* Đọc thành tiếng:

8


Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần
ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35cm,
cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi [4]. Ở lớp khi được cô
giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế
khi đọc, tức là rèn đọc to. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng người
đọc một lúc đóng hai vai: Một vai - và mặt này thường được nhấn mạnh - là
người tiếp nhận thông tin, bằng chữ viết, vai thứ hai là người trung gian để
truyền thông tin, đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này,
người đọc đã thực hiện việc tái sản sinh văn bản. Vì vậy khi đọc thành tiếng
người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng
với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ
em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công tạo cho
các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe.
Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ để cho mình cô
giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn cho tất cả những
người này nghe rõ. Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là đọc quá to hoặc
gào lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ “lí nhí” giáo viên cần tập cho các

em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên
cho học sinh đứng lên bảng để đối diện với những người nghe, tư thế đứng đọc
phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, 2 vai phải được mở rộng và cân bằng hai
tay.
* Luyện đọc đúng:
- Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc
đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói
cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao
gồm việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị), ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc
đúng ngữ điệu). [7]
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị
Tiếng Việt.
+ Đọc đúng các phụ âm đầu s/x, tr/ch
+ Đọc đúng các chính âm: Có ý thức phân biệt để không đọc “bưởi” thành
“bửi”, “hạt muối” thành “hạt múi”...
+ Đọc đúng các âm cuối: “tiếc”, “tiết”,...
+ Đọc đúng các thanh có các lỗi phát âm địa phương như lẫn thanh (~) và
thanh sắc (?) VD: Không đọc “cũng” thành “củng”, “võng” thành “vỏng”,....
+ Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt hơi, ngữ điệu câu, cần phải
dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng từ để ngắt hơi cho đúng.
Khi đọc không được tách một từ làm hai. VD: không đọc:” Ông già bẻ gẫy từng
chiếc một/cách dễ dàng.//”
+ Không tách từ chỉ hoạt động với từ chỉ đặc điểm mà nó đi kèm:
VD: không đọc: “Cúc tỏa / hương ngào ngạt an ủi chim.//”

9


Ví dụ không đọc: - Tuổi nhỏ làm / việc nhỏ

Tùy theo sức của mình.
+ Không tách quan hệ từ “là” với danh từ đi sau nó, ví dụ không đọc: Mẹ là/ngọn gió của con suốt đời:
+Không đọc tách bộ phận giải thích phía sau: Quả dừa – đàn lợn / con
nằm trên cao
- Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: Ngắt hơi khi gặp dấu phẩy,
nghỉ hơi khi gặp dấu chấm (với dấu chấm nghỉ hơi 1 quãng bằng khoảng thời
gian đọc 1 chữ, ngắt hơi ở dấu phẩy bằng nửa quãng nghỉ hơi sau dấu chấm).
(Một buổi sáng, đôi bạn dạo chơi trên cánh đồng.). Đọc đúng các ngữ điệu câu:
Lên giọng ở cuối câu hỏi( Cậu có bao nhiêu trí khôn?), xuống giọng ở cuối câu
kể( Mình chỉ có một thôi.), thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt
trong câu cảm, với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội
dung cầu khiến khác nhau( Cậu có trăm trí khôn, nghĩ kế gì đi!). Ngoài ra còn
phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu( Tàu dừa - chiếc lược chải vào
mây xanh)...
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
- Trình tự luyện đọc đúng: Trước khi lên lớp giáo viên phải dự tính để
ngăn ngừa các lỗi khi HS đọc. Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi
phát âm mà học sinh địa phương dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ,
câu khó để luyện đọc trước.
- Khi muốn luyện đọc 1 từ nào đó, đầu tiên giáo viên đọc mẫu trước rồi cho
các em đọc cá nhân, sau đó cho cả lớp đọc đồng thanh. Với những câu mà giáo viên
dự tính sẽ có nhiều em đọc sai cách ngắt nghỉ ( hoặc ngắt nhịp), GV đọc mấu, gọi HS
nêu cách ngắt – nghỉ(hoặc ngắt nhịp thơ), sau đó cho HS đọc lại câu, cuối cùng
mới luyện đọc hoàn chỉnh cả đoạn bài.
* Luyện đọc nhanh:
Đọc nhanh là nói đến tốc độ đọc, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ, vấn đề
tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Khi đọc cho người khác nghe thì
người đọc phải xác định tốc độ nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp thời thì
cần đọc rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc
độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời

nói.
+ Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ
tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để
đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách
giữ nhịp đọc. Ngoài ra còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự
kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài
có tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc độ đọc như
thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
* Luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc:
Trước hết phải luyện cho học sinh không bỏ sót tiếng, không thêm tiếng,
không lạc giọng.

10


Học sinh lớp 2 khi đọc có em còn bỏ sót tiếng hoặc lạc giọng. Vì các em
này chưa làm chủ được tia mắt. Với những học sinh này giáo viên phải quay lại
với việc sử dụng que trỏ hoặc thước đặt dưới từng dòng kẻ để HS đọc.
* Dạy cho học sinh đọc đúng ngữ điệu, ngắt giọng đúng:
Trong giờ dạy Tập đọc giáo viên phải hướng dẫn đến giáo dục cho học
sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của tiếng Việt, sự giàu
đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế
nhưng hiện nay ở trường Tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt là ngữ
điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do khiến cho học
sinh của chúng ta đọc và nói chưa lưu loát. Vì các em không hiểu đúng văn bản
được đọc.
Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố này.
Khi đọc các bài văn xuôi, chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ
đoạn. Khi đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một
tiết đoạn.

Vì vậy đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng nói riêng vừa là mục
đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội
dung bài đọc. Mỗi bài đọc nhằm chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp, chỗ ngắt
giọng ,dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai khi đọc, cũng là xác định
những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài tập đọc cụ thể. Từ đó dạy đọc đúng,
hiểu đúng các bài Tập đọc ở Tiểu học.
* Rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh: [3]
Muốn học sinh có năng lực, có kỹ năng đọc hiểu tốt. Giáo viên phải có
định hướng, có kế hoạch sắp xếp thời gian tìm hiểu bài và thời gian luyện đọc
thành tiếng và phải coi trọng chất lượng đọc.
- Mỗi giờ lên lớp giáo viên xác định nội dung đọc hiểu cho các em. Tuỳ
theo khả năng nhận thức của từng vùng để dẫn dắt câu hỏi cho học sinh hiểu
nghĩa của từ “chìa khoá” “câu khoá” trong bài, tóm tắt được nội dung của đoạn,
bài, phát hiện ra những yếu tố và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung.
Có nhiều bài chỉ có thể dạy “đọc nhớ”, khó dạy đọc hiểu, nội dung bài rời rạc
không có chiều sâu, với những bài Tập đọc hiện hành ở lớp 2 tôi tạm chia làm 2
nhóm mức độ tương ứng với 2 nhóm dạy đọc hiểu:
+ Tiếp nhận văn bản văn chương.
+ Hiểu những yếu tố văn chương.
Để HS hiểu được các yếu tố văn chương cũng cần phải có cách lựa chọn phù
hợp
VD: Bài “Mẹ” [1] có câu cuối “Mẹ là ngọn gió của con suốt đời” là câu
thơ có nhiều chất văn nhất. Nếu giáo viên giảng về tình thương, sự chăm sóc của
mẹ đối với con thì sẽ không đọng lại gì trong tâm trí học sinh lớp 2. Ngược lại
nếu yêu cầu học sinh giải thích câu thơ lại quá khó. Vì thế nên áp dụng cách hay
hơn bằng hình thức kiểm tra phiếu trắc nghiệm.
Ta có thể xây dựng phiếu bài tập trắc nghiệm như sau:

11



Dòng nào dưới đây nêu đúng ý của câu thơ:“Mẹ là ngọn gió của con
suốt đời”
A, Mẹ ngồi quạt cho con suốt đời
B, Mẹ suốt đời lo lắng, chăm sóc cho con.
C, Mẹ như ngọn gió làm cho con được mát mẻ. [8]
* Đọc thầm: [4]
Cũng như khi đọc thành tiếng, tư thế ngồi đọc thầm (vì ít khi đứng đọc)
phải ngay ngắn, khoảng cách giữa mắt và sách 30-35cm.
- Kỹ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc to →
đọc nhỏ → đọc mấp máy môi (không thành tiếng) → đọc hoàn toàn bằng mắt,
không mấp máy môi (đọc thầm) giai đoạn cuối lại gồm 2 bước: Di chuyển mắt
theo que trỏ hoặc ngón tay rồi đến chỉ có mắt di chuyển. Giáo viên phải tổ chức
quá trình chuyển từ ngoài vào trong này.
Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời
gian đọc thầm cho từng đoạn và bài.
- Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn
bản đọc. Do đó dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức đọc hiểu. Kết quả của
đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Tức là
toàn bộ những gì được đọc. Như tâm lý ngôn ngữ học đã chỉ ra để hiểu và nhớ
những gì được đọc, người đọc không phải xem tất cả các chữ đều quan trọng
như nhau mà có thể và cần sàng lọc để giữ lại những từ “chìa khóa”, những
nhóm từ mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ để giúp ta hiểu được nội dung của
bài. Trong những bài văn đó là những từ dùng “đắt” tạo nên giá trị nghệ thuật
của từ có tín hiệu nghệ thuật. Đó là những từ giàu màu sắc biểu cảm như các từ
láy, những từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng, có sự chuyển nghĩa văn
chương.
Tiếp đó cần hướng dẫn học sinh đến việc phát hiện ra những câu quan
trọng của bài. Những câu nêu ý nghĩa chung của bài.
Giải pháp 3: Tổ chức tốt các hoạt động trong giờ học Tập đọc. [4]

A. Kiểm tra:
*Mục tiêu: Kiểm tra và củng cố việc đọc thành tiếng và đọc hiểu nội
dung bài đã học.
*Hình thức thực hiện:
- Kiểm tra đọc thành tiếng:
+ Yêu cầu học sinh đọc một đoạn hoặc cả bài đã học.
+Cho HS nhận xét giọng đọc, ngữ điệu của đoạn vừa đọc.
- Kiểm tra đọc hiểu: Trả lời một câu hỏi về nội dung đoạn, bài vừa đọc.
*Thời gian kiểm tra tiến hành từ 3 - 5 phút. Số lượng kiểm tra có thể từ
2-3 học sinh.
B. Bài mới:
1- Giới thiệu bài: Có thể dùng tranh ảnh, đặt câu hỏi nêu vấn đề để gây
hứng thụ tạo nhu cầu đọc bài ở học sinh không nên nói hết nội dung bài trong

12


phần giới thiệu vì sẽ áp đặt nội dung trước cho học sinh trong khi lẽ ra nó là cái
đích mà học sinh cần khám phá.
2- Luyện đọc:
a) Đọc mẫu:
*Yêu cầu: GV đọc mẫu, hướng dẫn HS cách đọc. Đây chính là cái đích,
mẫu hình kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Đồng thời giáo viên dùng
giọng đọc mẫu của mình để học sinh có một biểu tượng ban đầu về nội dung văn
bản. Lúc này đọc mẫu lại là phương tiện cho học sinh bước đầu làm quen với
văn bản để chiếm lĩnh nội dung của nó. Bước đọc mẫu rất quan trọng, nó quyết
định việc học sinh yêu thích hay không yêu thích văn bản được đọc. Yêu cầu
đọc mẫu phải đảm bảo chất lượng, đọc đúng chuẩn: Đọc đúng, rõ ràng, trôi
chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm.
Khi đọc mẫu giáo viên cầm sách theo đúng quy cách. Giáo viên phải ổn

định trật tư, tạo cho học sinh tâm thế hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh
đọc thầm theo để theo dõi bài đọc. Khi đọc, giáo viên đứng ở vị trí bao quát
được cả lớp.
Trong khi đọc, giáo viên cần thỉnh thoảng nhìn lên học sinh để tạo được
sự giao cảm, thu hút học sinh. Mặc dù vậy, việc hướng vào người nghe trong khi
đọc không được làm bài đọc bị gián đoạn. Muốn thế, ở nhà giáo viên phải đọc
kỹ bài nhiều lần.
b) Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện đọc, kết hợp giải nghĩa từ
b1/ Đọc từng câu: ( 2 đến 3 lượt)
- Học sinh tiếp nối nhau đọc từng câu đến hết bài (có thể đọc khoảng 2
lượt bài).
- Kết hợp sửa lỗi phát âm cho HS
- GV ghi bảng một số tiếng, từ khó, dễ lẫn để HDHD luyện đọc: GV đọc
mẫu, HS luyện đọc cá nhân, lớp đọc ĐT.
-HS tiếp tục đọc nối tiếp từng câu( lượt 2)
b2/ Đọc từng đoạn trước lớp:
- GV chia đoạn
- Gọi HS nối tiếp nhau đọc trước lớp ( mỗi em 1 đoạn), kết hợp HD đọc
các câu khó (HD ngắt nghỉ) và HD thể hiện tình cảm qua giọng đọc (phần này
có thể xử lý qua 1 – 2 lượt HS đọc). HS và GV nhận xét, tuyên dương.
- HS đọc nối tiếp đoạn( lượt 2), kết hợp giải nghĩa từ mới, từ khó bằng các
hình thức: Tìm từ mới, giải thích từ mới, tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đặt câu
với từ mới,...)
b3/ Đọc từng đoạn trong nhóm:
- HS luyện đọc cặp đôi theo bàn, bạn này đọc, bạn khác lắng nghe sau đó
đổi lại.
- GV nên có quy ước với HS để tiện theo dõi.
-Một số nhóm đại diện nhận xét việc luyện đọc trong nhóm của nhóm
mình.


13


b4/ Thi đọc giữa các nhóm: (Lưu ý: Với lớp 3 bước này chuyển xuống
phần luyện đọc lại)
- Các nhóm thi đọc (ĐT, CN, từng đoạn, cả bài). GV cần tạo điều kiện để
nhiều HS được tham gia đọc. Bố trí HS có trình độ tương đương thi với nhau.
Có thể tổ chức trò chơi luyện đọc (đọc tiếp sức, truyền điện, theo vai,...)
- Lớp lắng nghe và nhận xét.
b5/ Lớp đọc ĐT(1- 2 đoạn hoặc cả bài)( với những văn bản không đọc
được ĐT thì bỏ bước này)
3- Hướng dẫn tìm hiểu bài:
GV hướng dẫn HS đọc thành tiếng hoặc đọc thầm từng đoạn và tìm hiểu
bài dựa theo các câu hỏi trong SGK.
* Lưu ý:
- Khi Y/c HS đọc thành tiếng cần kết hợp y/c HS cả lớp cùng đọc thầm để
theo dõi.
- Trước khi y/c HS đọc thầm, cần giao nhiệm vụ (đặt câu hỏi) cho HS.
- GV có thể chẻ nhỏ các câu hỏi trong SGK, hoặc thêm câu hỏi dẫn dắt,
gợi mở giúp HS dễ trả lời hơn.
4- Luyện đọc lại / Học thuộc lòng (nếu SGK yêu cầu)
- Luyện đọc lại được thực hiện sau khi HS đã nắm được nội dung bài đọc.
- Hình thức tổ chức: Thi đọc ( giữa các cá nhân)
- Y/c của bước này: Luyện cho HS đọc trôi chảy, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ,
đúng mức và bước đầu có ý thức đọc diễn cảm (đối với HSHTT). Mặc dù
chương trình lớp 2 không đặt y/c dạy HS đọc diễn cảm nhưng GV vẫn cần HD
HS đọc thể hiện đúng ND bài ở bước này.
- Trình tự thực hiện:
+ GV đọc mẫu
+ GV lưu ý HS về cách đọc, giọng đọc hoặc giọng điệu của từng nhân vật

hoặc của toàn bộ đoạn văn, bài văn.
+ Tổ chức cho HS thi đọc CN, đọc phân vai và uốn nắn cách đọc cho HS.
+ Lớp và GV nhận xét, bình chọn CN và nhóm đọc tốt, đọc hay.
+ GV hướng dẫn HS học thuộc lòng (nếu SGK yêu cầu): GVHDHS luyện
HTL bằng cách xóa dần.
5- Củng cố, dặn dò:
- Lưu ý HS về nội dung bài, về cách đọc.
- Nhận xét về giờ học.
- Dặn HS những việc cần làm ở nhà.
Giải pháp 4: Thực nghiệm
1/ Mục đích thực nghiệm:
Tôi tổ chức thực nghiệm bằng cách đưa ra một số ý kiến đề xuất của mình
về một bài học cụ thể và tổ chức dạy ở trường nhằm đánh giá tính khả thi của
các giải pháp đã được đề xuất ở trong sáng kiến này.
2/ Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm:

14


Thực nghiệm vào tuần 26, bài "Sông Hương" [1]. Lớp 2C Trường Tiểu học
Quảng Lộc.
3/ Nội dung thực nghiệm:
- Soạn giáo án.Tiến hành dạy thực nghiệm
- Bài dạy: Sông Hương [1]
4/ Kết quả thực nghiệm:
Sau khi kiểm tra kết quả học tập của học sinh ở lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng ở trên tôi nhận thấy:
+ Ở lớp thực nghiệm: Mức độ hoạt động tích cực của học sinh trong giờ
học được biểu hiện khá rõ ràng. Bằng việc sử dụng các phương pháp và hình
thức tổ chức lớp học linh hoạt, lấy học sinh làm trung tâm, trong giờ học hầu hết

học sinh được tham gia quá trình chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kỹ năng. Học
sinh nhút nhát, học sinh đọc yếu được chú ý một cách đúng mức, khuyến
khích, động viên kịp thời. Vì vậy, kết quả học tập, rèn luyện được nâng cao.
Trong giờ thực nghiệm không có hiện tượng làm việc riêng, các em đều bị
cuốn hút vào các hoạt động học tập. Qua đó chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa
hai lớp thực nghiệm và đối chứng.
+ Ở lớp đối chứng: Hoạt động chính là giáo viên truyền thụ tri thức và đưa
ra một hệ thống các câu hỏi yêu cầu học sinh đưa vào ngữ liệu và kết quả phân
tích của sách giáo khoa để trả lời. Vì vậy, học sinh tham gia hoạt động học tập
một cách thụ động, máy móc và chỉ tập trung vào nhóm học sinh HTT và rèn
luyện kỹ năng đọc cho học sinh còn hạn chế nên hiệu quả đọc chưa cao.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua hai năm học giảng dạy ở lớp 2, áp dụng biện pháp trên tôi nhận
thấy kĩ năng đọc của lớp tôi tiến bộ rõ rệt, học sinh đọc tốt hơn nhiều so với
trước đây khi chưa áp dụng các giải pháp trên.
Để kiểm nghiệm lại kết quả sau khi tôi vận dụng các giải pháp rèn kĩ
năng đọc cho học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát lần 2 với bài đọc "Sông
Hương" trên đối tượng học sinh lớp tôi chủ nhiệm và lớp đối chứng. Sau khi
khảo sát tôi thu được kết quả sau.
*Lớp 2C (Lớp thực nghiệm) – Lớp 2B ( Lớp đối chứng)
Lớp HS đọc đúng,
Học sinh đọc
HS đọc đúng
HS đọc chậm,
trôi chảy, ngắt đúng, trôi chảy,
nhưng còn chậm, ngắc ngứ, phát
nghỉ hợp lí và
ngắt nghỉ hợp lí ngắt nghỉ chưa
âm còn sai
biết đọc diễn

chính xác
cảm.
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2C
15
46,9
12
37,5
5
15,6
0
0
2B
10
30,3
14
42,5
7
21,2
2
6
* So sánh với kết quả khảo sát đầu năm tôi nhận thấy:
- Học sinh hứng thú hơn trong việc đọc và cảm thấy yêu thích phân môn

này.

15


- Số học sinh đọc chưa đạt yêu cầu đã giảm rất nhiều, số học sinh đọc
còn chậm đã được nâng lên.
- Đa số học sinh đọc trôi chảy, ngắt nhịp đúng, nhấn giọng đúng chỗ,
lên xuống, nhanh chậm tuỳ lúc với bài văn.
- Nhiều em đọc đúng các từ ngữ có âm, vần, thanh dễ phát âm sai.
- Không còn học sinh đọc ê a, ngắc ngứ.
- Nhiều em đã biết đọc phân biệt lời người kể với lời các nhân vật.
- Nhiều em luyện đọc phân vai rất tốt.
- Một số em không chỉ đọc trôi chảy, đọc lưu loát mà còn diễn đạt đúng
ý của bài văn bằng giọng đọc có xúc cảm.
- Các em đọc thầm nhanh hơn.
- Kĩ năng đọc hiểu văn bản của các em tốt hơn.
- Các em hiểu nội dung văn bản tốt hơn, từ đó các em có hành văn trôi
chảy hơn, vốn từ ngữ phong phú hơn, sử dụng dấu câu hợp lí khi viết chính
tả, khi đặt câu. Học sinh viết đoạn văn trôi chảy, mạch lạc, diễn đạt ý xúc
tích rõ ràng, vốn từ của học sinh phong phú hơn.
- Đối với bản thân cũng đã có kinh nghiệm tốt hơn trong việc rèn đọc
cho học sinh thông qua các giờ Tập đọc. Đã cùng tham gia dự giờ góp ý cho
đồng nghiệp để đồng nghiệp cùng áp dụng các giải pháp hiệu quả này. Qua
các buổi sinh hoạt chuyên môn của nhà trường đã tổ chức trao đổi, hội thảo
đi đến thống nhất và thực hiện. Qua các giải pháp rèn kỹ năng đọc cho học
sinh mà bản thân tôi đã sử dụng và đồng nghiệp trong tổ khối, trong trường
cùng thực hiện đã góp phần nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhà
trường tốt hơn so với những năm học trước.
Như vậy qua việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh, các em không chỉ đọc

tốt mà còn giúp các em tiếp thu môn Tiếng Việt đạt hiệu quả cao, không
những thế chất lượng các môn học khác cũng được nâng lên rõ rệt.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Thông qua các giải pháp tôi đã áp dụng giảng dạy tại lớp 2C và kết quả đạt
được như trên, tôi rút ra cho bản thân những bài học kinh nghiệm trong quá trình
rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh các khối khác nói
chung:
- Giáo viên đọc mẫu phải thật hấp dẫn để lôi cuốn học sinh. Giáo viên đọc
chuẩn xác, phù hợp với từng văn bản để học sinh học tập.
- Phải rèn cho học sinh luyện phát âm đúng, chú ý các từ ngữ, luyện đọc
những từ ngữ học sinh phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần.
- Cho học sinh luyện đọc: đọc rành mạnh, đọc lưu loát cả văn xuôi, văn
vần. Đọc đúng nhịp thơ, thể hiện ngắt nghỉ đúng chỗ, nhấn giọng các từ ngữ,
biết thay đổi giọng đọc theo đúng ngữ cảnh và tình cảm của câu.
- Cho học sinh luyện đọc diễn cảm theo hình thức phân vai, đọc biết kết
hợp giảng giải của giáo viên, kết hợp việc tóm tắt ý của từng đoạn và nội dung
cả bài. Giáo viên phải giàu lòng yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, gương mẫu trong

16


dạy học. Giáo viên phải kiên trì, uốn nắn, sửa chữa cách phát âm sai cho học
sinh thật tận tình, chu đáo tránh giảng triền miên, nói nhiều, viết nhiều trong khi
học sinh đọc còn yếu.
Phối hợp nhịp nhàng về chương trình môn Tập đọc với các môn học khác
như : Tập làm văn, Kể chuyện, Chính tả,...
Trên đây là một số giải pháp của tôi đưa ra để áp dụng vào giảng dạy phân
môn Tập đọc lớp 2 để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh mà tôi cho là hữu
ích nhất.Trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí

quyết nghề nghiệp riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất
lượng dạy và học. Có lẽ đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Mong các
bạn đồng nghiệp đọc và đóng góp nhiều ý kiến, giải pháp hay hơn, hữu hiệu hơn
để đạt kết quả cao hơn trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 và làm tiền
đề cho HS học các lớp trên.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất.
Để rèn kĩ năng đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi mạn phép đưa
ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau:
* Đối với Tổ chuyên môn nhà trường
Tổ chức sinh hoạt chuyên môn có hiệu quả các nội dung trọng tâm, đưa ra
các giải pháp hay, thống nhất trong tổ để cùng thực hiện có hiệu quả.
* Đối với nhà trường
Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm cho
giáo viên và học sinh trong trường để nâng cao kĩ năng đọc đúng, đọc hay, đọc
diễn cảm cho cả GV và HS.
* Đối với Phòng Giáo dục
Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên Tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, nhất là môn Tập đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Quảng Xương, ngày 18 tháng 3 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
TRƯỞNG
viết, không sao chép của người khác.
Người viết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 - NXB Giáo dục.
Lêdục.
Thị Hương
[2] Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 - NXB Giáo

[3] Luyện tập về cảm thụ văn học ở Tiểu học - NXB Giáo dục, 2001.

17


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.

Trang
1
1

1.2. Mục đích nghiên cứu.

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

2

2. Nội dung sáng kiến.

3


2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

3-4

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

4-6

2.3. Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho HS lớp 2.

6 - 15

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân đồng nghiệp và nhà trường.

15 - 16
16

3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.

16 - 17

3.2. Kiến nghị.

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO

18



[1] Sách giáo khoa Tiếng Việt 2- NXB Giáo dục.
[2]. Sách giáo viên Tiếng Việt 2- NXB Giáo dục.
[3] Luyện tập về cảm thụ văn học ở Tiểu học - NXB Giáo dục.
[4] Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - NXB Giáo dục.
[5] Phương pháp dạy Tập đọc - Lê Phương Nga.
[6] Chương trình Tiểu học - NXB Giáo dục.
[7] Dạy học đọc ở Tiểu học - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2002.
[8] Luyện đọc và phát triển từ ngữ Tiếng Việt 2 – NXBGD Việt Nam.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH

19


VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

_______________________________
Tác giả; Lê Thị Hương
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Lộc

Tên đề tài SKKN

Dạy học Tiếng Việt lớp
1 phù hợp với đối
tượng học sinh dân tộc
H’mông z.

Hướng dẫn HS lớp 4
giải toán bằng sơ đồ
đoạn thẳng các dạng
toán về: “ Tìm hai số
khi biết tổng ( hay hiệu)
và tỉ số của hai số đó.”
Một số kinh nghiệm
hướng dẫn HS viết
đúng chính tả.

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/ tinh)

Kết quả
đánh giá xếp
loại
( A, B hoặc
C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Tỉnh

C

2008 - 2009


Huyện

C

2011 - 2012

Huyện

A

2013 - 2014

20



×