Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Chứng minh rằng quy phạm xung đột là loại quy phạm được sử dụng rất phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong TPQT Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.46 KB, 11 trang )

Đề bài: Chứng minh rằng quy phạm xung đột là loại quy phạm được sử dụng rất
phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài
trong TPQT Việt Nam
A. MỞ ĐẦU
Tư pháp quốc tế là một “ngành luật điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước
ngoài về tư pháp như dân sự, hôn nhân gia đình, lao động hoặc có khách thể là
vật tồn tại ở nước ngoài”. Nghiên cứu Tư pháp quốc tế là nghiên cứu các quy
phạm pháp quy điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài. Trong các loại quy phạm thì quy phạm xung đột là loại quy phạm
được sử dụng rất phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài trong TPQT Việt Nam.
B. NỘI DUNG
I.Các vấn đề chung về quy phạm xung đột
1. Khái niệm quy phạm xung đột
Quy phạm xung đột (QPXĐ) là quy phạm ấn định luật pháp nước nào sẽ
cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài
trong một tình huống thực tế.
2. Đặc điểm quy phạm xung đột:
- Thứ nhất, đây là quy phạm có tính chất điều chỉnh “gián tiếp” mang tính
thứ cấp, vì nếu chỉ dựa vào các quy phạm này thì cơ quan có thẩm quyền chưa
thể giải quyết thực chất vấn đề pháp lý phát sinh.
- Thứ hai, tính khách quan, trung lập của quy phạm xung đột thể hiện rõ
khi phân tích nội dung các quy phạm xung đột, vì các quy phạm này dựa trên các
nguyên tắc chung để lựa chọn pháp luật, như nguyên tắc “luật quốc tịch” của các
bên, hay “luật nước nơi có tài sản” …

1

1



- Thứ ba, quy phạm xung đột có tính chất phức tạp, vừa khó áp dụng đồng
thời lại dễ dẫn đến khả năng quy phạm này được áp dụng một cách máy móc.
3. Cơ cấu và phân loại QPXĐ:
- Cơ cấu của QPXĐ gồm hai thành phần: Phạm vi & Hệ thuộc ( hai bộ
phận này không thể tách rời nhau trong 1 QPXĐ, ko thể thiếu 1 bộ phận nào)
+ Phạm vi là phần quy định QPXĐ này được áp dụng cho loại quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài nào.
+ Hệ thuộc: là phần quy định chỉ ra luật pháp nước nào được áp dụng để
giải quyết quan hệ pháp luật đã ghi ở phần phạm vi. Là luật pháp của một nước
cụ thể ( VN, Pháp,Hoa kỳ, Anh…) thể hiện là luật quốc tịch của đương sự, luật
cư trú của đương sự, luật quốc tịch của pháp nhân…
- Phân loại: dựa vào kỹ thuật xây dựng,có 2 loại:
+ QPXĐ một bên: là quy phạm chỉ ra loại quan hệ dân sự này chỉ áp dụng
luật pháp của một nước cụ thể.
+ QPXĐ hai bên: là những quy phạm đề ra nguyên tắc chung để cơ quan
tư pháp có thẩm quyền lựa chọn luật của một nước nào đó sẽ được áp dụng để
đ/chỉnh đối với quan hệ tương ứng.
Ngoài ra, có thể phân loại theo nhóm các quan hệ đ/chỉnh hoặc phân loại
theo QPXĐ trong nước và QPXĐ thống nhất ( trong các điều ước quốc tế)…
4. Các hệ thuộc luật cơ bản: Hiện nay trong TPQT có một số kiểu hệ thuộc cơ
bản sau đây:
- Luật nhân thân ( Lex personalis): có 2 biến dạng gồm:
Luật quốc tịch hay còn gọi là luật bản quốc được hiểu là luật quốc gia mà
đương sự là công dân.
Luật cư trú được hiểu là luật của quốc gia mà ở đó đương sự có nơi cu trú
ổn định(cư trú ổn định là nơi thường trú)

2

2



- Luật quốc tịch của pháp nhân ( Lex societatis) được hiểu là luật quốc gia
mà pháp nhân mang quốc tịch.
- Luật nơi có vật ( Lex rei sitae) được hiểu là vật(tài sản) hiện đang tồn tại ở
nước nào thì Luật của nước đó được áp dụng đối với tài sản đó.
- Luật do các bên ký kết hợp đồng: theo nguyên tắc này thì các bên tham gia
hợp đồng được tự do thỏa thuận lựa chọn hệ thống pháp luật mà họ cho là hợp lý
để giải quyết quan hệ hợp đồng.
- Luật nơi thực hiện hành vi ( Lex loci actus): gồm có rất nhiều loại:
Luật noi kí kết hợp đồng được hiểu là quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia kí kết hợp đồng được xác định theo luật nơi kí kết hợp đồng.
Luật nơi thực hiện nghĩa vụ: Nơi thực hiện nghĩa vụ là nơi đáp ứng đầy đủ
các vấn đề về văn bản giao nhận, thời gian giao nhận, khi nào có thể và cần thiết
tiến hành giao nhận, hình thức và nội dung của biên lai giao nhận và thanh
toán…
Luật nơi thực hiện hành động: để giải quyết xung đột về hình thức hợp
đồng, một số nước còn áp dụng hệ thuộc như: hình thức của hợp đồng được
quyết định bởi nơi thực hiện nó.
- Luật nước người bán ( Lex venditoris): Thực tiễn trong quan hệ mua bán
hàng hóa quốc tế, nếu bên mua và bên bán không có thỏa thuận nào khác thì luật
nước người bán thường được áp dụng để giải quyết quan hệ hợp đồng của mua
bán đó.
- Luật nơi vi phạm pháp luật ( Lex loci delicti commissi) được hiểu là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật được giải quyết theo pháp luật
nơi vi phạm pháp luật.
- Luật tiền tệ ( Lex monetae): được hiểu là khi kí kết hợp đồng các bên thỏa
thuận thanh toán bằng một đơn vị tiền tệ nhất định, do đó các vấn đề liên quan
được giải quyết theo pháp luật nước ban hành và lưu thông đồng tiền đó.
3


3


- Luật tòa án ( Lex fori ): được hiểu là tòa án thầm quyền khi giải quyết vụ
việc chỉ áp dụng luật nước mình.
5. Hiệu lực áp dụng quy phạm xung đột
Các quy phạm xung đột chủ yếu nằm trong hệ thống các văn bản pháp luật
trong nước hoặc một số điều ước quốc tế nên chúng có hiệu lực chung theo các
văn bản pháp lý chứa đựng chúng. Tuy nhiên, hiệu lực thực sự của quy phạm
xung đột chỉ được thể hiện khi áp dụng trong các trường hợp và hoàn cảnh cụ thể
đã được ấn định trước.
Hiện nay, khi áp dụng các quy phạm xung đột, hiệu lực của các quy phạm
này có thể bị triệt tiêu, mất hiệu lực, hoặc bị hạn chế trong ba trường hợp sau:
bảo lưu trật tư công, dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ
ba và trường hợp lẩn tránh pháp luật.
II. Quy phạm xung đột là loại quy phạm được sử dụng rất phổ biến để điều
chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong TPQT
VN.
1. Tại sao quy phạm xung đột là loại quy phạm được sử dụng rất phổ biến
để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài
trong TPQT VN ?
- Do quy phạm xung đột là quy phạm đặc thù trong tư pháp quốc tế Việt
Nam nói riêng và TPQT nói chung. Trong thời kì mà quan hệ quốc tế luôn luôn
mở rộng thì việc xung đột pháp luật là không thể tránh khỏi. Và để giải quyết
xung đột này, quy phạm xung đột sẽ được áp dụng. Bởi bản chất của quy phạm
xung đột là lựa chọn pháp luật của nước nào đó sẽ cần áp dụng để giải quyết
trong những trường hợp cụ thể.
- Do nó thể hiện tính khách quan, và trung lập trong việc chọn luật áp
dụng đối với quan hệ pháp lý phát sinh. Nên quy phạm xung đột thường được

lựa chọn để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh
4

4


- Tính mục đích của quy phạm pháp luật xung đột, chính là nhằm tìm ra
những nguyên tắc để xác định pháp luật áp dụng nhằm giải quyết các quan hệ
tranh chấp trong tư pháp quốc tế với một giải pháp giống nhau, cho dù có sự lựa
chọn hệ thống pháp luật khác nhau. Do đó, khi nói đến giá trị điều chỉnh của quy
phạm pháp luật xung đột là hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí chủ quan của các chủ
thể tư pháp quốc tế, khi bản thân mỗi chủ thể đều mong muốn lựa chọn hệ thuộc
xung đột có lợi cho mình khi xác định thẩm quyền và luật áp dụng.
- Trong thực tiễn Tư pháp quốc tế, do các quy phạm thực chất thống nhất
có số lượng ít, không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ Tư pháp
quốc tế phát sinh ngày càng đa dạng; trong khi đó quy phạm xung đột được xây
dựng một cách đơn giản hơn, nhanh hơn nên có số lượng nhiều hơn. Do đó quy
phạm xung đt đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ Tư pháp quốc tế. Vì vậy phương
pháp điều chỉnh gián tiếp được coi là phương pháp cơ bản trong giai đoạn hiện
nay.
2. Chứng minh
Với việc ban hành Bộ luật Dân sự trong đó có Phần thứ bảy “ Quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài”, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam có một
văn bản pháp luật chứa đựng một tập hợp những QPXĐ tương đối quy mô và có
hệ thống. Luật dân sự là cái gốc điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong đời
sống xã hội, với việc gần như tất cả các điều luật liên quan đến quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự đều là các quy phạm xung đột đã
khẳng định được vai trò và vị thế hết sức quan trọng cảu quy phạm xung đột
trong đời sống Tư pháp quốc tế Việt Nam. Trong hơn 20 điều luật của Phần thứ 7
trong Bộ luật dân sự, có 3 điều luật ( từ Điều 758 đến Điều 760) là những quy

định chung và các điều luật còn lại là những quy định cụ thể về các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài. Nếu như Tư pháp quốc tế bao gồm hai loại quy phạm
5

5


để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quy phạm thực chất và
QPXĐ thì trong phần thứ 7 của BLDS 2005 chủ yếu chỉ có các loại QPXĐ.
Ngoài ra quy phạm xung đột có trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa VN
ký kết với các nước và trong các văn bản luật tư trong nước như Luật hôn nhân
và gia đình, Bộ luật hàng hải…Cụ thể:
- Quy phạm xung đột về năng lực chủ thể:
Để xác định năng lực chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài,
tư pháp quốc tế, chủ yếu xây dựng các quy phạm xung đột để lựa chọn áp dụng
từ Điều 761 đến Điều 765, BLDS 2005.
Điều 761 quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước
ngoài sẽ được xác đinh theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch.
Điều 762 quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước
ngoài. Cũng như đối với năng lực pháp luật, năng lực hành vi của cá nhân người
nước ngoài được pháp luật Việt Nam xác định bằng việc áp dụng nguyên tắc
Luật quốc tịch. Liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dân sự của người nước
ngoài, bộ luật dân sự 2005 đồng thời đưa ra quy định về việc xác định người
nước ngoài không có, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; bi mất tích
hoặc chết. Điều 763 BLDS đưa ra các quy tắc xác định người nước ngoài không
có, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dan sự.
Bên cạnh cá nhân, pháp nhân nước ngoài cũng là một chủ thể quan trọng
trong tư pháp quốc tế. Liên quan đến pháp nhân trong tư pháp quốc tế, có hai vấn
đề cần quan tâm là quốc tịch và quy chế nhân thân của pháp nhân. Pháp luật Việt
Nam không có quy định về xác dịnh quốc tịch cho pháp nhân mà chỉ quy định

việc xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài tại điều 765
BLDS như sau: Quy phạm trên quy định rằng khi xem xét vấn đề năng lực pháp
luật của pháp nhân nước ngoài phải căn cứ vào pháp luật của nước nơi có pháp
nhân đó thành lập. Như vậy có thể nói rằng BLDS đã gián tiếp thừa nhận nguyên
6

6


tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào nơi thành lâp của pháp nhân
đó, tức là sử dụng hệ thuộc Luật quốc tịch của pháp nhân. Với tinh thần đó, các
xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và cả các xí nghiệp 100% vốn
nước ngoài nhưng được thành lập theo Luật Đầu tư 2005 đều là những pháp
nhân mang quốc tịch Việt Nam. Ngược lại, tất cả những pháp nhân khong mang
quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài.
- Quy phạm xung đột về quyền sở hữu tài sản
Việc hình thành quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài do đó tất yếu sẽ làm
phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Trong quan hệ sở hữu có yếu tố
nước ngoài, tư pháp quốc tế của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất sử
dụng hệ thuộc Luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột. luật nơi có tài sản ko
những quy định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn định cả các điều kiện phát
sinh, chấm dứt và dịch chuyển quyền sở hữu. BLDS của Việt Nam cũng dựa trên
nguyên tắc chung phổ biến này để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sơ
hữu (điều 766).
- Quy phạm xung đột về thừa kế
Đây cũng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng và tác động của phong tục tập quán,
truyền thống, văn hóa…của các nước khác nhau nên quy định pháp luật các nước
trong lĩnh vực này cũng rất khác nhau. Do vậy, không thể xây dựng các quy định
thống nhất (về nội dung) về điều kiện kết hôn, phân chia di sản thừa kế cho công
dân các nước khác nhau. Điều 767 quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố

nước ngoài và Điều 768 quy định về thừa kế theo di chúc của BLDS 2005 là các
QPXĐ về thừa kế có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra các quy phạm này còn có trong
Điều 36 đến Điều 38 trong Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam-Lào…
- Quy phạm xung đột trong lĩnh vực hợp đồng và giao dịch dân sự
Trong BLDS việt nam, cac QPXĐ về lĩnh vực hợp đồng và giao dịch dân sự có
yếu tố nước ngoài được chứa đựng trong các điều từ 759 đến 772 BLDS.
7

7


- Quy phạm xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Được Pháp luật Việt Nam quy định tại Khoản 1 Điều 773 BLDS. Theo
quy định này khi xảy ra quan hệ bồi tương thiệt hai ngoài hợp đồng thì có thể có
hai hệ thống pl được áp dụng là pl nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và pl nơi phát
sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiêt hại. Như vây pl Việt Nam đã sử dụng
hệ thuộc Luật nơi vi phạm pháp luật.
- Quy phạm xung đột trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Trong tư pháp quốc tế, vấn đề bảo vệ quyền tác giả và quyền sở hưu công
nghiệp đã luôn là một vấn đề phức tạp và ngày nay, trong thời đại bùng nổ thông
tin thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ càng mang ý nghĩa quan trọng.
Điều 774 quy định về quyền tác giả có yếu tố nước ngoài. Ở đây các nhà
làm luật đã lựa chọn loại quy phạm xung đột một chiều để giải quyết xung đột về
quyền tác giả. Theo đó, tác giả là người nước ngoài, pháp nhan nước ngoài được
bảo hộ quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam có các quyền tác giả
được quy định cụ thể tỏng Luật sơ hữu trí tuệ 2005 của VN. Như vậy tác giả
nước ngoài sẽ được hưởng các quyền tài sản và nhân thân trong lĩnh vực quyền
tác giả như tác giả công dân VN.
Cùng với quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống
cây trồng là hai bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bởi các quy định

của pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế . Ở VN các quy định về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trông cho các cá nhân và
pháp nhân nước ngoài được quy định chung tại BLDS VN(Điều 775) và được cụ
thể trong luật sở hữu trí tuệ 2005.
Chuyển giao công nghệ là vấn đề mang tính thơi sự ở nước ta cũng nhưu
trên thế giới. Việc chuyển giao công nghệ liên quan trực tiếp đến lợi ích của các
cá nhân, pháp nhân, và cao hơn là của quốc gia được chuyển giao. Điều 776
BLDS quy định về chuyển giao công nghệ có yếu tố nước ngoài.
8

8


Ngoài ra BLDS 2005 đã bổ xung thêm một điều khoản hoàn toàn mơi về
thời hiệu khởi kiện như sau: “Thời hiệu khởi kiện đối với quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà pháp luật nước đó được
áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tương ứng”. Quy
định về thời hiệu khởi kiện trong PL của các quốc gia không giống nhau, đương
nhiên sẽ làm phát sinh xung đột PLvề thời hiệu khởi kiện.
III. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh
quan hện dân sự có yếu tố nước ngoài
Thứ nhất, điều 773 BLDS về quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngoài ghi nhận rằng có thể có hai hệ thống. Ở đây nên chọn ra
một hệ thống pháp luật duy nhất điều chỉnh quan hệ này. ở đây nên có quy định
rõ rang trong trường hợp nào thì sẽ áp dụng Luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại,
trường hợp nào sẽ áp dụng Luật nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây
thiệt hại.
Chúng ta có thể lựa chọn một hệ thống pháp luật khác, đó có thể là pháp
luật của nước mà cá nhân , pháp nhân gây thiệt hại mang quốc tịch cư trú; hay là
pháp luật của nước mà cá nhân, pháp nhân bị thiệt hại mang quốc tịch cư trú. Có

lẽ quy định như vậy sẽ dễ dàng hơn cho việc buộc chủ thể gây ra thiệt hại chịu
trách nhiệm trước hành vi của mình, buộc bồi thường thiệt hại cho người bị hại,
đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại được bảo vệ và giải quyết thỏa đáng.
Thứ 2 Với điểm không thống nhất giữa điều 762 và khoản 1 điều 768. sẽ
dễ dàng và phù hợp hơn khi bổ xung quy định tại Khoản 1 điều 768 về xác định
năng lực lập thay đổi hủy bỏ di chúc của người lập di chúc như sau: “ Năng lực
lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà
9

9


người lập di chúc là công dân. Trường hợp người nước ngoài lập di chúc ở Việt
Nam thì năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc của người đó phải tuân
theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Thứ 3: Điều 776 BLDS quy định “ việc chuyển giao công nghệ.... tuy
nhiên pháp luật nước ngoài ở đây là pháp luật nước nào thì không quy định cụ
thể. Theo tôi pháp luật thích hợp áp dụng để điều chỉnh quan hệ chuyển giao
cộng nghệ có yếu tố nước ngoài bên cạnh pháp luật vn là pháp luật của nước mà
các bên chủ thể ký kết hợp đồng đó đã lựa chọn. Sở dĩ như vậy là vi việc chuyển
giao công nghệ trên thực tế được thực hiện thông qua các hợp đồng chuyển giao
công nghệ, vì vạy các bên chủ thể có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật nước
ngoài với điều kiện luật nước ngoài đó ko trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật việt Nam.
C. KẾT LUẬN
Hiện nay ở Việt nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều
sử dụng các QPXĐ để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài. Qua đó các nhà lập pháp cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
sớm có những sửa đổi, bổ xung hoặc hướng dẫn bằng các văn bản dưới luật hợp
lý, rõ ràng và khoa học hơn cho những quy định phap luật về các vấn đề nêu

trên.

10

10


MỤC LỤC
1. Giáo trình tư pháp quốc tế -Đại học Luật Hà Nội
2. Vấn đề hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột hướng dẫn chọn pháp luật
điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay /
TS.Đoàn Năng // Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 11/1998,
3. Hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
trong bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp / Lê Thị
Bích Thuỷ; Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thái Mai . - Hà Nội, 2010

11

11



×