Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 101 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH BNH

TáI HòA NHậP CộNG ĐồNG
CHO NGƯờI CHấP HàNH XONG HìNH PHạT Tù Là PHụ Nữ
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH BNH

TáI HòA NHậP CộNG ĐồNG
CHO NGƯờI CHấP HàNH XONG HìNH PHạT Tù Là PHụ Nữ
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NG QUANG PHNG

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Bính


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG
ĐỒNG CHO NGƢỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT
TÙ LÀ PHỤ NỮ .................................................................................. 7
1.1. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng cho ngƣời chấp hành xong
hình phạt tù là phụ nữ ........................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng đối với người phạm tội ................. 7
1.1.2. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng cho người chấp hành xong

hình phạt tù là phụ nữ.......................................................................... 10
1.2. Yêu cầu tái hoà nhập cộng đồng đối với ngƣời phạm tội là
phụ nữ ................................................................................................ 13
1.2.1. Yêu cầu chung ..................................................................................... 13
1.2.2. Yêu cầu tái hoà nhập cộng đồng cho người phạm tội là phụ nữ.............. 15
1.3.
Những yêu cầu của quốc tế về tái hoà nhập cộng đồng cho
ngƣời phạm tội ................................................................................... 23
1.3.1. Những yêu cầu chung của quốc tế về tái hoà nhập cộng đồng ........... 23
1.3.2. Những yêu cầu của quốc tế về tái hoà nhập cộng đồng cho người
phạm tội là phụ nữ............................................................................... 25
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 28
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TÁI HÒA NHẬP
CỘNG ĐỒNG CHO CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ
LÀ PHỤ NỮ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TĨNH ................................................................................ 30
2.1. Quy định của pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng cho ngƣời
chấp hành xong hình phạt tù ........................................................... 30


2.1.1. Quy định của pháp luật hình sự áp dụng đối với phụ nữ phạm tội .......... 32
2.1.2. Quy định của pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng cho chấp hành
xong hình phạt tù là phụ nữ................................................................. 34
2.2.

Thực tiễn tái hòa nhập cộng đồng cho ngƣời chấp hành xong
hình phạt tù là phụ nữ trên địa bàn Hà Tĩnh ................................. 41
2.2.1. Kết quả tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình
phạt tù là phụ nữ .................................................................................. 42
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác tái hòa nhập cộng đồng

cho chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ ........................................ 53
2.2.3. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác tái hòa nhập cộng
đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù phụ nữ......................... 64
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 73
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO
NGƢỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ LÀ PHỤ NỮ ..... 75
3.1.

Các yêu cầu bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho ngƣời chấp
hành xong hình phạt tù là phụ nữ có hiệu quả .............................. 75

3.2.

Các giải pháp bảo đảm hiệu quả tái hòa nhập cộng đồng cho
ngƣờ chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ ................................ 77
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ........................................................... 77
3.2.2. Các chính sách bảo đảm áp dụng ........................................................ 80
3.2.3. Một số giải pháp khác ......................................................................... 82
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng


Trang

Bảng 2.1: Thống kê số vụ án hình sự đã xét xử trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh từ năm 2012- 2016, trong đó hình phạt tù được áp dụng

44

Bảng 2.2: Thống kê số người chấp hành xong hình phạt tù từ năm
2012 – 2016

48

Bảng 2.3: Thống kê về tình trạng việc làm của người phụ nữ chấp
hành xong hình phạt tù từ 2012-2016

49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác giúp đỡ, tạo điều kiện cho người chấp hành xong hình phạt
tù, đặc biệt khi người phạm tội là phụ nữ trở về với cuộc sống lương thiện
tại cộng đồng mang một ý nghĩa hết sức quan trọng trong chính sách pháp
luật của Việt Nam. Tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ phạm tội sau khi
chấp hành xong hình phạt tù là một công tác gắn liền với việc thực thi các
biện pháp hoà nhập xã hội cho phụ nữ, sau khi được trở về với cộng đồng từ
cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo điều kiện cho những phụ nữ đã chấp hành
xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình thường đồng thời giáo dục họ
trở thành những công dân có ích cho xã hội, hạn chế tối đa những trường
hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà còn được thể hiện rất rõ theo

tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII đã nhấn mạnh: “Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương
trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù,
giúp họ nhanh chóng tái hoà nhập cộng đồng” [17]. Bên cạnh đó, công tác
tái hoà nhập cộng đồng đối với phụ nữ phạm tội được thực hiện dựa trên
nguyên tắc của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 1982, theo đó: “Chế độ giam giữ, thi
hành án phải nhằm mục đích chính yếu trong việc đối xử với tù nhân là cải
tạo và đưa họ trở lại xã hội” [45]; Công ước Cedaw xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ Việt Nam tham gia ký kết năm 1980 nêu rõ:
Tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều bị lên án và các
quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, bao
gồm cả biện pháp pháp luật, nhằm bảo đảm cho phụ nữ được thực
hiện và hưởng thụ đầy đủ quyền con người và tự do trên cơ sở
bình đẳng với nam giới [16].

1


Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lượng
người phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hướng gia tăng; do đó, việc tái
hoà nhập cộng đồng cho các đối tượng này cần được quan tâm một cách đúng
đắn. Việc tiếp nhận số lượng các đối tượng đã bị cách ly với xã hội trong một
thời gian dài là một thách thức không nhỏ trong công tác tái hoà nhập cộng
đồng. Tái hoà nhập cộng đồng đối với phụ nữ phạm tội sau khi chấp hành
xong hình phạt tù là một hoạt động có liên quan đến nhiều cơ quan, ban ngành
và toàn xã hội. Luật Thi Hành án Hình sự năm 2010 quy định:
Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương,
cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học

tập, lao động, rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước;
hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái hoà nhập cộng đồng sau khi
chấp hành xong án phạt tù [30, Điều 39, Khoản 2].
Tuy nhiên, cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền
vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đưa người
phạm tội trở lại cuộc sống lương thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại
địa phương. Thực tế hiện nay cho thấy, các quy định về việc tái hoà nhập
cộng đồng đối với người phạm tội nói chung và phụ nữ nói riêng bị phân tán
ở các văn bản pháp luật khác nhau như luật hình sự, luật thi hành án phạt tù
hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ và ngành Công an
như Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chương trình phòng chống
và kiểm soát ma tuý. Ngoài ra công tác tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ
phạm tội chưa thực sự được quan tâm đúng mức cũng là nguyên nhân làm cho
công tác tái hoà nhập cộng đồng chưa thực sự phát huy hết vai trò của nó
trong quá trình giáo dục, cảm hoá người phạm tội để khi mãn hạn tù họ trở

2


thành những người có ích cho xã hội. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, phụ nữ phạm
tội mãn hạn tù trong những năm qua mặc dù đã được quan tâm của các cấp,
ban, ngành, tổ chức xã hội nhưng vẫn còn những trường hợp tái phạm, chưa
nhận được sự quan tâm đúng mực của gia đình, xã hội khiến cho họ khó khăn
trong việc hòa nhập với nơi mình sinh sống.
Từ những phân tích trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tái hòa nhập cộng
đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ (Trên cơ sở thực
tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay có nhiều công trình khoa học, sách báo pháp lý chuyên

ngành trong nước nghiên cứu ở mức độ và bình diện khác nhau về tái hòa
nhập cộng đồng như: Phan Xuân Sơn, Xây dựng môi trường giáo dục phạm
nhân trong các trại giam - Cơ sở lý luận, thực trạng, giải pháp, Đề tài khoa
học cấp cơ sở, Hà Nội, năm 2000; Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện,
Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Quang
Hưng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của
công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ. Thông tin khoa học pháp lý. Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư pháp. Tháng 4/2001; Vụ pháp luật hình
sự hành chính, Bộ tư pháp - Rà soát, đánh giá pháp luật, chính sách và thực
tiễn tái hoà nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật ở Việt Nam, năm 2007; Phạm Văn Lợi - Thực trạng pháp luật thi hành
án phạt tù và hướng hoàn thiện, năm 2006, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 2; Hồ Sĩ Sơn (2009), "Hình phạt tù và vấn đề tái hòa nhập cộng đồng ở
Việt Nam hiện nay", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Pháp luật và thực tiễn về tái
hòa nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy,
Viện Nhà nước và Pháp luật và Norwegian Center for Human Rights tổ chức
tại Hạ Long - Quảng Ninh, ngày 26 - 27/11; Trần Thị Quang Vinh (2009),

3


"Phòng ngừa tái phạm tội đối với người bị kết án tù của, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Pháp luật và thực tiễn về tái
hòa nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy,
Viện Nhà nước và Pháp luật và Norwegian Center for Human Rights tổ chức
tại Hạ Long - Quảng Ninh, ngày 26 - 27/11; Đinh Thị Hường (2014), luận
văn thạc sỹ luật học “ Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành
phố Hải Phòng”, Đại học quốc gia Hà Nội.Tuy nhiên vấn đề tái hoà nhập
cộng đồng cho phụ nữ phạm tội chưa đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực
tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề phải đi sâu

nghiên cứu và làm rõ. Do đó, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu về
vấn đề này là cần thiết và hữu ích.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và những
quy định của pháp luật Việt Nam về tái hoà nhập cộng đồng đối với người
phạm tội là phụ nữ. Thông qua việc phân tích tình hình tái hoà nhập cộng
đồng nói chung và đi sâu phân tích công tác tái hoà nhập cộng đồng đối với
người phạm tội là phụ nữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2012 –
2016 nhằm vận dụng có hiệu quả vào công tác tái hoà nhập cộng đồng nói
chung và phụ nữ nói riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, đồng thời tạo cơ sở về lý
luận và thực tiễn để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nước
ta về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quan điểm về tái hòa nhập cộng
đồng cho người phạm tội; nội hàm của tái hòa nhập cộng đồng dưới góc độ
chuyên ngành luật Hình sự và Tố tụng hình sự; Nghiên cứu thực tiễn tái hòa
nhập cộng đồng cho người phạm tội là phụ nữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; Từ

4


kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội là phụ nữ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một là, các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tái hoà nhập cộng
đồng; Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng đối với người phạm tội là phụ nữ; các
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các luật
có liên quan về tái hoà nhập cộng đồng đối với người mãn hạn tù là phụ nữ.

Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hoà nhập cộng đồng của
tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và
nguyên nhân của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của vấn đề.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Công tác tái hoà nhập đối với người phạm tội được thực hiện ở nhiều
giai đoạn khác nhau với những đối tượng khác nhau, nhưng đều được gọi
chung là người phạm tội. Phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu các
quy định về tái hoà nhập cộng cho người chấp hành xong hình phạt tù là phụ
nữ dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự; thực trạng thực
thi trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2012-2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp luật, quan điểm của Đảng nhà nước về công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng
khoa học kết hợp với một số phương pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp
điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối chiếu,
so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống hình sự.

5


6. Ý nghĩa của luận văn
a) Ý nghĩa về lý luận: luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về tái hoà
nhập cộng đồng đối với người mãn hạn cho người chấp hành xong hình phạt
tù là phụ nữ. Như vậy những vấn đề sẽ được làm rõ sẽ liên quan đến khái
niệm về tái hoà nhập cộng đồng, những yêu cầu quốc tế về tái hoà nhập cộng
đồng và những yêu cầu hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng.
b) Ý nghĩa về thực tiễn: luận văn sẽ làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam

về tái hoà nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ.
Đồng thời với những phương pháp khác nhau, đề tài sẽ làm rõ tình hình tái hoà
nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ ở Hà Tĩnh
hiện nay và những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của công tác này.
c) Ý nghĩa về lập pháp: trên cơ sở những nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn, đề tài cung cấp những cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo
hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong công tác tái hoà nhập cộng đồng đối với
người mãn hạn tù nói chung và phụ nữ nói riêng.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về tái hòa nhập cộng đồng cho người
chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về tái hòa nhập cộng đồng cho người
chấp hành xong án phạt tù là phụ nữ và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chƣơng 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về
tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù là phụ nữ.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
CHO NGƢỜI CHẤP HÀNH XONG HÌNH PHẠT TÙ LÀ PHỤ NỮ
1.1. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng cho ngƣời chấp hành xong
hình phạt tù là phụ nữ
1.1.1. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng đối với người phạm tội
Tái hòa nhập cộng đồng là quá trình hòa nhập về mặt xã hội và tâm lý
với môi trường xã hội của một con người. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, nó thường được đề cập cụ thể hơn tới những hình thức hỗ trợ khác

nhau cho những người phạm tội với nỗ lực nhằm ngăn cản họ tham gia vào
hành vi phạm tội (phòng ngừa) hoặc làm giảm khả năng tái phạm của họ
(phục hồi) [49]. Những người này phải thi hành các bản án, quyết định xử lý
vi phạm hành chính nên trong một thời gian nhất định không được tham gia
vào các quan hệ cộng đồng vì vậy, họ không tránh khỏi khỏi sự bở ngỡ,
không biết xử sự sao cho đúng chuẩn mực cộng đồng. Mặt khác do thời gian
cách ly khỏi khỏi xã hội kéo dài (thậm chí kéo dài trên hàng chục năm) nên họ
không thể thích ứng một cách dễ dàng với những thay đổi sâu sắc và nhanh
chóng của xã hội [22, tr.8]. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù việc trở về
sống với gia đình, với cộng đồng xã hội là một giai đoạn rất khó khăn nhưng
không phải không làm được nếu họ quyết tâm làm lại cuộc đời, biết chuẩn bị
tâm lý, hành trang để hòa nhập cộng đồng, đồng thời cộng đồng xã hội cũng
sẵn sàng tạo điều kiện giúp đỡ họ. Đây là một quá trình rất khó khăn, phức tạp
đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của bản thân người chấp hành xong hình phạt tù và
sự chung tay giúp sức của gia đình, xã hội và cộng đồng dân cư.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về “tái hòa nhập cộng
đồng” và “tái hòa nhập xã hội” đối với người phạm tội. Một số quan điểm cho

7


rằng tái hòa nhập cộng đồng là "tái hoàn lương" trở lại đối với cuộc sống đời
thường mà những người vi phạm, những người lầm lỗi đã mất đi. Cũng có ý
kiến cho rằng tái hòa nhập cộng đồng thực chất là các biện pháp quản lý của
cộng đồng đối với những người phạm tội. Bên cạnh đó đa phần các quan điểm
đều cho rằng tái hòa nhập cộng đồng là "quay lại lần thứ hai" hòa nhập với
cộng đồng xã hội đối với những người có quá khứ tội lỗi sau một thời gian bị
cách ly khỏi xã hội, cộng đồng dân cư. Đây cũng khái niệm về “tái hoà nhập
xã hội” được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Vấn đề “tái hoà nhập xã hội” được
đặt ra đối với những người phạm tội phải chịu hình phạt bị tước tự do. Tuy

nhiên theo quan điểm của tác giả, nếu sử dụng thuật ngữ “tái hòa nhập cộng
đồng” vấn đề tái hoà nhập hướng đến các yếu tố khách quan bên ngoài người
phạm tội như gia đình, cộng đồng dân cư để đưa người phạm tội trở lại với
cộng đồng, tái hoàn lương. Ngược lại, khi sử dụng thuật ngữ “tái hoà nhập xã
hội”, cái nhìn về tái hoà nhập đối với người phạm tội sẽ được mở ra, bao gồm
cả hai yếu tố bên trong và bên ngoài. Yếu tố bên trong là chính nhận thức, suy
nghĩ của người phạm tội về những hành đồng của mình đã đi ngược lại với
những quy tắc chung, chuẩn mực chung của xã hội dẫn đến việc vi phạm pháp
luật hình sự và phải chịu hình phạt. Yếu tố bên ngoài chính là các yếu tố tác
động đến việc người phạm tội có thể tái hoà nhập thành công hay không: sự
cảm thông, cái nhìn về sự thay đổi của người phạm tội, những cơ hội, điều
kiện được nhà nước và xã hội cung cấp giúp người phạm tội hoà nhập trở lại
được với cuộc sống. Góc nhìn này sẽ toàn diện và chính xác hơn.
Vấn đề tái hoà nhập cộng đồng được đặt ra đối với những người phạm
tội phải chịu hình phạt bị tước tự do. Tuy nhiên có thể hiểu tái hòa nhập cộng
đồng như sau: Tái hòa nhập cộng đồng là xóa đi những quá khứ tội lỗi và mặc
cảm của người phạm tội, tạo cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ
hòa nhập cộng đồng nơi họ cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên

8


của gia đình, cộng đồng xã hội [23, tr. 24]. Đây là những biện pháp tác động
tích cực giúp đỡ những người lẫm lỡ, những người có quá khứ phạm tội xóa
bỏ đi mọi mặc cảm của bản thân họ đối với cộng đồng, gia đình và xã hội để
họ có thể trở về là người dân lương thiện theo đúng nghĩa của nó. Như vậy có
thể hiểu tái hóa nhập cộng đồng đối với người phạm tội được xét ở hai khía
cạnh: Với cá nhân đối tượng thì tái hòa nhập cộng đồng chính là quá tự bản
thân họ tự nhận thức điều chỉnh tư duy và hành vi cho phù hợp với quy định
và chuẩn mực của cộng đồng, đồng thời thông qua lao động giao tiếp, họ dần

thích nghi với các sinh hoạt chung của cộng đồng; Bên cạnh đó các chủ thể là
nhà nước và xã hội, thông qua các hoạt động hỗ trợ cụ thể, tạo điều kiện cần
và đủ cho đối tượng tạo lập cuộc sống bình thường trong cộng đồng và bao
gồm nhiều giai đoạn khác nhau để chuẩn bị cho người phạm tội những điều
kiện cần thiết và tâm lý, kỹ năng sống khi họ trở về với xã hội sau một thời
gian bị cách ly [23, tr. 23 - 25].
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong hình
phạt tù dù được xét ở góc độ nào thì cũng nhằm hướng đến bảo đảm quyền
con người. Hoạt động này phải bảo đảm xuyên suốt từ trại giam đến gia đình
và cộng đồng. Trong thời gian chấp hành hình phạt tù học được học tập, giáo
dục về văn hóa, pháp luật và những chuẩn mực đạo đức, các kỹ năng nghề
nghiệp…Thông qua lao động và giao tiếp họ dần thích nghi với các sinh
hoạt chung của cộng đồng. Đồng thời xã hội thông qua các hoạt động cụ thể,
tạo điều kiện cần đủ cho các đối tượng tạo lập cuộc sống bình thường trong
cộng đồng [22, tr. 9].
Tái hòa nhập cộng đồng bao gồm nhiều giai đoạn bắt đầu từ việc chuẩn
bị cho phạm nhân bị cách ly ra khỏi xã hội những điều kiện cần thiết về nhận
thức, tâm lý và một số kỹ năng nghề nghiệp ngay trong quá trình giáo dục, cải
tạo tại nơi giam giữ để chuẩn bị cho tái hòa nhập cộng đồng. Giai đoạn phạm

9


nhân được trả tự do trở về tái hòa nhập cộng đồng và kết thúc khi họ được hỗ
trợ các điều kiện cần thiết để tạo lập một cuộc sống bình thường trong xã hội.
Lúc này là quá trình khẳng định vị trí của đối tượng tại cộng đồng, quá trình
này thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong việc xây dựng một cuộc sống
lương thiện, từng bước hoàn thiện nhận cách, nâng cao kiến thức văn hóa và
năng lực, trách nhiệm trong lao động.
Từ sự phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm tái hoà nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong án phạt tù là quá trình tác động tích cực hai
chiều giữa cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, gia đình
cũng như người chấp hành xong hình phạt tù nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi để người chấp hành xong hình phạt tù xóa bỏ đi mọi mặc cảm của
bản thân họ đối với cộng đồng, gia đình và xã hội để họ có thể trở về là người
dân lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.
1.1.2. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng cho người chấp hành xong
hình phạt tù là phụ nữ
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong tái hoà nhập cộng đồng đối với những
đối tượng là những người phụ nữ bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân và
tính từ khi còn là bị can, bị cáo cho đến khi mãn hạn tù hay là các đối tượng
tù tha và trở về địa phương. Theo tác giả có thể hiểu tái hoà nhập cộng đồng
đối với người phạm tội là phụ nữ trong phạm vi luận văn là “các biện pháp
tái hòa nhập cộng đồng được thiết kế riêng biệt ngay từ khi ở trong cơ sở
giam giữ và sau khi được phóng thích để giúp người phạm tội là phụ nữ được
trả tự do sau thời gian giam giữ có thể đối mặt với những thách thức liên
quan đến việc trở về với cộng đồng”. Ngoài những biện pháp được áp dụng
chung với người phạm tội, người phạm tội là phụ nữ cần được xem xét là một
đối tượng người phạm tội đặc biệt. So với số tù nhân nam, số nữ tù nhân có

10


phần chiếm tỉ lệ nhỏ. Thực tế này dẫn đến một hệ quả là hầu hết các hệ thống
nhà tù và các chương trình tái hoà nhập có xu hướng được lên kế hoạch và
thiết kế cho những người phạm tội là nam nam giới, để lại những lỗ hổng cho
nhu cầu cụ thể của phụ nữ. Phụ nữ trong tù thường có khả năng tiền sử bị lạm
dụng tình dục và thể chất nhiều hơn so với nam giới. Họ bị bệnh về tâm thần
ở mức cao hơn nam giới và tiền sử lạm dụng thuốc của họ có khuynh hướng

khác với những tù nhân nam giới. Phần lớn phụ nữ ở trong tù do bản chất tội
phạm mà họ đã phạm phải có thể bị giam giữ dưới mức an ninh ít nghiêm
ngặt so với nam giới.
Tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ phạm tội không có nghĩa chỉ là
việc đưa đối tượng từ các cơ sở tập trung trở về nơi cư trú cũ, về với gia đình
họ và cộng đồng dân cư nơi họ sống trước đây mà cần được hiểu ở mức độ và
phạm vi rộng hơn, đây thực chất là quá trình giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện
để những người phụ nữ vi phạm sau một thời gian cách ly trở về với cuộc
sống của cộng đồng, là người công dân lương thiện được thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của công dân cũng như thực hiện thiên chức làm vợ, làm
mẹ của người phụ nữ. Mục đích của nó là giúp người đó tái hòa nhập cộng
đồng thành công sau khi chấp hành bản án.
Đối với các đối tượng này, thông thường có hai loại chương trình
phục vụ công tác tái hoà nhập cộng đồng, tái hòa nhập xã hội: (1) các
chương trình hỗ trợ ngay trong các cơ sở giam giữ, trước khi phóng thích
của người phạm tội, nhằm giúp người phạm tội giải quyết các vấn đề, xử lý
các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi phạm tội của họ, trang bị các kỹ
năng cần thiết để thực hiện tốt các chức năng xã hội của mình và chuẩn bị tái
tham gia vào cộng đồng; và (2) những chương trình dựa trên cộng đồng,
thường được gọi là chương trình "hậu chăm sóc" nhằm tạo thuận lợi cho hòa
nhập cộng đồng của người phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở giam giữ.

11


Rất nhiều các chương trình sau này bao gồm cả một số hình thức giám sát
cũng như hỗ trợ tại cộng đồng [49, tr. 355].
Từ những phân tích trên cho phép rút ra những đặc trưng tái hoà nhập
cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù là phụ nữ là:
Thứ nhất, tái hoà nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án

phạt tù là phụ nữ là một quá trình hai chiều giữa sự “hồi sinh” của cá nhân
người đó hướng về cộng đồng và sự tác động tích cực của xã hội để giúp cá
nhân đó nhanh chóng hoà nhập với cộng đồng.
Thứ hai, Tái hoà nhập cộng đồng là một quá trình tác động đến đối
tượng trong môi trường và thời gian rất khác nhau. Thông thường có thể phân
chia thành hai giai đoạn cơ bản: giai đoạn chuẩn bị cho người chấp hành xong
án phạt tù các điều kiện cần thiết về tâm lí, nghề nghiệp và văn hoá tại các cơ
sở giam giữ và giai đoạn đưa người chấp hành xong hình phạt tù tái hoà nhập
với gia đình và xã hội.
Thứ ba, công tác tái hoà nhập cộng đồng là sự kết hợp tổng thể giữ các
biện pháp: quản lí hành chính – tư pháp, tác động vê tâm lí, tư tưởng; hướng
nghiệp; giáo dục văn hoá pháp luật
Thứ tư, tái hoà nhập cộng đồng đối với chấp hành xong án phạt tù là
phụ nữ là một quá trình cần có sự phối hợp tham gia của nhiều cơ quan, tổ
chức mà vai trò quan trọng nhất thuộc về gia đình, chính quyền cơ sở và trại
giam để giúp người phạm tội nhìn nhận lại bản thân, tạo động lực, niềm tin
cho người phạm tội làm lại cuộc đời.
Thứ năm, tái hoà nhập cộng đồng là hoạt động mang tính xã hội hoá
cao. Bởi lẽ, nếu công việc này chỉ được thực hiện bởi các nhân viên nhà nước
thì tính khả thi sẽ không cao do tính chất của công việc này. Các biện pháp tác
động của xã hội thông qua các tổ chức cá nhân của mình sẽ phù hợp hơn với
trạng thái tâm lí của người phạm tội hơn là các nhân viên, tổ chức công
quyền. Đây cũng là xu hướng của rất nhiều các quốc gia phát triển trên thế

12


giới. Tại Việt Nam, mô hình này đã được áp dụng tuy nhiên chưa rộng rãi và
hiệu quả còn chưa được như mong muốn.
1.2. Yêu cầu tái hoà nhập cộng đồng đối với ngƣời phạm tội là phụ nữ

1.2.1. Yêu cầu chung
Trong việc thiết kế và thực thi những can thiệp nhằm giúp cho việc tái
hòa nhập người phạm tội về với cộng đồng thành công và giúp họ tránh
những liên quan đến tội phạm về sau, có rất nhiều điều cần lưu ý. Những
người sau khi được giải phóng khỏi nhà tù, họ có thể lại phải đối mặt với vô
số những thách thức có thể khiến họ lại tái phạm. Nhiều người phạm tội có
hàng loạt những nhu cầu và vấn đề cần được giải quyết một cách toàn diện,
bao gồm kĩ năng hạn chế, sự lạm dụng thuốc và thiếu vắng sự hỗ trợ từ phía
gia đình và cộng đồng. Chính vì vậy các yêu cầu tái hoà nhập cộng đồng đóng
vai trò quan trọng trong việc đưa người phạm tội trở về với cuộc sống, ngăn
họ không tái phạm và xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp. Những yêu cầu
này đang ngày càng hiệu quả khi các nhà nghiên cứu tập trung vào phân tích
và đánh giá người phạm tội, trong từng giai đoạn cụ thể bao gồm giai đoạn
ngay từ khi còn bị giam giữ và giai đoạn sau khi được phóng thích.
1.2.1.1. Yêu cầu tái hoà nhập khi còn là phạm nhân
Việc tái hòa nhập thành công của người phạm tội phải bắt đầu ngay
trong khi họ đang trong cơ sở giam giữ. Vì mỗi người phạm tội không giống
nhau nên những chương trình và sự can thiệp phải dựa trên kế hoạch riêng
cho từng đối tượng phạm tội. Để có thể mở rộng khả năng này, các cơ quan
nên tìm cách để thiết kế ra những chương trình và sự giúp đỡ đối với những
nhu cầu của các cá nhân phạm tội này. Chương trình đặc biệt cần luôn được
tính đến sự tham gia của các chuyên gia, những người có thể gặp gỡ và làm
việc với người phạm tội và giúp họ đưa ra những kế hoạch cho việc tái hòa
nhập cộng đồng được thành công. Một kế hoạch toàn diện là khi xác định

13


được những nhu cầu của người phạm tội, sự giúp đỡ, giáo dục hoặc những
chương trình việc làm để họ có thể mở rộng cánh cửa cho việc tái hòa nhập

cộng đồng được thành công.
Như chúng ta đã thấy, chương trình đặc biệt được thiết kế ra nhằm
chuẩn bị cho việc tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội có thể bao gồm
giáo dục, chăm sóc sức khỏe tinh thần, cai nghiện, đào tạo nghề, hướng dẫn
và giáo dục. Những chương trình này đã được cung cấp trước khi có sự phóng
thích của các cơ quan có nền tảng xã hội để cung cấp cho người phạm tội sự
hỗ trợ kế tiếp sau khi hết hạn tù và theo đó áp dụng đối với những người
phạm tội được phóng thích khỏi trại giam.
1.2.1.2. Yêu cầu tái hoà nhập sau khi chấp hành xong hình phạt tù
Có một thực tế mà người phạm tội cần đối mặt vào thời điểm họ được
phóng thích là việc tìm kiếm một nơi sinh sống phù hợp với tài sản ít ỏi, hòa
hợp với gia đình, xoay sở cuộc sống khi có ít hoặc thậm chí không có tài sản
tiết kiệm cho đến khi họ kiếm được đồng tiền hợp pháp, là việc cần có những
thiết yếu của cuộc sống hàng ngày, của những dịch vụ và sự những nhu cầu
riêng của họ.
Nhiều quốc gia đã phát triển những chính sách và chương trình để giúp
đỡ người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng sau khi hết hạn tù. Sự can thiệp
này cũng khác nhau do có thuật ngữ khác nhau như: “hỗ trợ sau khi hết hạn
tù”, “hỗ trợ chuyển tiếp”, “sự trở về “ hoặc “ hỗ trợ cho sự trở về”, “tái hòa
nhập” hoặc “tái định cư”. Một vài sự can thiệp dự kiến có thể bắt đầu trong
khi người phạm tội đang bị tù với mục đích là nhằm điều chỉnh một cách
thuận lợi hơn chương trình này.
Chương trình tái hòa nhập cho người phạm tội thường được dựa trên
phương pháp tiếp cận trường hợp quản lý theo ca và bao gồm một loạt các
biện pháp can thiệp. Những biện pháp này được thiết kế để trợ giúp người

14


phạm tội trong việc chuẩn bị được thả khỏi trại giam bằng cách giúp họ có

được những bộ kỹ năng cần thiết để thành công trong cộng đồng, giải quyết
những thách thức cá nhân và các yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội, và
thiết lập các mối liên hệ cần thiết và các mối quan hệ trong cộng đồng. Khá
nhiều trong số các chương trình này bao gồm một số hình thức giám sát.
Các chương trình này thường được phát triển trên cơ sở sự hiểu biết hiện
tại của yếu tố nguy cơ không ngừng thay đổi liên quan đến tái phạm, các nhu
cầu đặc trưng của người phạm tội nói chung và phụ nữ nói riêng, và những
thách thức mà họ gặp phải khi mãn hạn tù. Các chương trình khác nhau tùy
theo các yếu tố nguy cơ tái phạm và các loại thách thức hội nhập xã hội mà
chúng được thiết kế để giải quyết. Nhiều chương trình tập trung vào một hoặc
nhiều thách thức cụ thể mà phụ nữ phạm tội phải đối mặt sau khi mãn hạn tù.
1.2.2. Yêu cầu tái hoà nhập cộng đồng cho người phạm tội là phụ nữ
Những nghiên cứu về các chương trình tái hoà nhập trong đó vấn đề
nhạy cảm giới được chú trọng phần lớn còn thiếu và chưa được chuyên sâu.
Bởi vậy trên thực tế có rất ít các vấn đề pháp lý được đưa ra liên quan tới các
chương trình tái hoà nhập cộng đồng thích hợp dành cho người phạm tội là
phụ nữ hoặc nếu có các vấn đề về nhạy cảm giới vẫn chưa được đề cao. Cần
phải làm nhiều hơn nữa để giải quyết các rủi ro, đáp ứng các nhu cầu và các
yếu tố trách nhiệm liên quan đến sự khác biệt về giới. Ngoài những khác biệt
về mức độ nguy hiểm và trách nhiệm, người phạm tội là phụ nữ thường khác
nam giới ở trạng thái tinh thần, tình cảm và mối quan hệ gia đình. Những mối
quan hệ xung quanh thường có liên quan mật thiết đến việc lựa chọn hành
động phạm tội của phụ nữ. Chính từ nguyên do đó, phụ nữ phạm tội và các nữ
tù nhân có xu hướng dễ dàng được cải tạo hơn bằng cách tạo lập mối liên hệ
của họ với người khác. Sự tự tin cũng như nhận thức về giá trị bản thân của
phụ nữ thường trực tiếp và ngay lập tức bị ảnh hưởng bởi những mối quan hệ

15



mà họ đang duy trì. Trong những năm gần đây, một số cách thức đánh giá nhu
cầu và rủi ro đáp ứng yêu cầu về giới tính đang được xây dựng. Sau quá trình
thử nghiệm, người ta thấy rằng phụ nữ thích ứng tốt hơn với các chương trình
“gói gọn” tiến hành nhiều phương thức tái hoà nhập một lúc. Các mô hình gói
gọi trên được tiến hành kết hợp với nhiều biện pháp can thiệp khác nhau để
giải quyết tất cả những thách thức mà người phạm tội đang đối mặt. Các
chương trình này cần được liên kết, phối hợp với nhau để trở thành một khối
tổng thể chứ không đơn thuần là những can thiệp riêng lẻ. Cần có sự quan tâm
sâu sắc tới vị trí của người phụ nữ trong vai trò người chăm sóc, là con gái, là
một người mẹ, người vợ hoặc bạn gái vì những người phụ nữ không thể được
trợ giúp một cách hiệu quả nếu tách biệt họ hoàn toàn khỏi xã hội và mối
quan hệ mật thiệt của họ.
Rất nhiều nữ tù nhân đã phải chịu hình phạt và để lại con cái của họ với
chồng, bạn trai hoặc người thân. Họ không ngừng lo lắng về hạnh phúc của
của chính mình. Các chương trình giúp phụ nữ vượt qua những lo lắng và
giảm bớt mặc cảm, cô đơn của họ là công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình cải
tạo. Việc tạo thuận lợi để người phụ nữ được giao tiếp với con cái và gia đình
là một cách đơn giản và thiết thực để hiện thực hoá các chương trình này.
Ngoài các yêu cầu chung tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong
hình phạt tù, thì đối với phụ nữ cần có các yêu cầu cụ thể, đặc thù đó là:
1.2.2.1. Tạo mối liên hệ với bên ngoài
Tạo điều kiện để nữ tù nhân giữ mối liên hệ với bên ngoài là một yếu
tố quan trọng của các chiến lược nhằm giảm thiểu các hậu quả tiêu cực của
việc giam giữ và người phạm tội dễ dàng tái hoà nhập cộng đồng. Người
phạm tội cảm nhận được sự tha thứ của gia đình dành cho mình là yếu tố
tiên giúp người phạm tội hoàn lương. Hơn nữa, mối liên hệ mật thiết gia
đình và sự hỗ trợ vợ hoặc chồng đã được chứng mình là yếu tố then chốt

16



trong việc tái hòa nhập thành công. Các tù nhân được gia đình hoặc bạn bè
thường xuyên ghé thăm ít có khả năng tái phạm hơn những người không
nhận được sự thăm hỏi này. Những nữ tù nhân thường có những vị trí đặc
biệt hơn trong việc chăm sóc con cái, gia đình so với tù nhân nam. Đó là lý
do tại sao việc tách họ ra khỏi con cái và gia đình, sự cô lập từ hình phạt tù
có tác động đặc biệt bất lợi đối với phụ nữ. Chính bởi vậy, điều quan trọng
là phụ nữ cần được tạo điều kiện thuận lợi để được gia đình ghé thăm, đặc
biệt là họ được dành thời gian hợp lí, hiệu quả với con cái của mình khi ở
trong tù. Luật thi án hình sự 2010 quy định:
Phạm nhân được thăm gặp một lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp
không quá 01 giờ, trường hợp đặc biệt thì được kéo dài thòi gian
nhưng không quá 03 giờ. Phạm nhân được khen thưởng thì được gặp
thân nhân thêm 01 lần trong tháng. Phạm nhân chấp hành nghiêm
chỉnh nội quy, quy chế trại giam hoặc lập công thì được gặp vợ hoặc
chồng ở phòng riêng không quá 24 giờ [30, Điều 46, Khoản 1].
Tạo điều kiện thuận lợi cho tù nhân được nhận sự thăm hỏi thường
xuyên của gia đình, bạn bè không yêu cầu quá nhiều nguồn lực nhưng
thường đơn giản gặp phải vấn đề về lên lịch thời gian làm việc của cán bộ
trại giam và các hoạt động trong trại giam, thiết lập các biện pháp an ninh
cần thiết, xây dựng cơ sỡ dữ liệu về quá trình quản lí thông tin nhằm nắm
bắt những người tới thăm phạm nhân và thông tin của họ. Phụ nữ cần
thường xuyên được cán bộ trại giam hỏi về nhu cầu muốn được gặp ai hay
từ chối gặp ai bởi có thể trước đây họ là nạn nhân của những vụ bạo hành
gia đình hoặc lạm dụng tình dục.
Tuy nhiên, một số nhà tù hạn chế các cuộc thăm hỏi phạm nhân vì lý
do gây khó khăn cho việc quản lí an ninh cũng như đòi hỏi bổ sung số lượng
cán bộ trại giam. Đối với nữ tù nhân, điều quan trọng cần quan tâm đó là vì

17



số lượng tù nhân nữ giới hạn, các tù nhân nữ thường được giam giữ ở các cơ
sở xa nhà và do đó có thể số lượng người thân và bạn bè ghé thăm cũng ít.
Bởi vậy có thể cân nhắc việc tăng thời gian các cuộc thăm hỏi cho gia đình
và bạn bè khi phải đi một quãng đường dài. Các cuộc gặp gỡ giữa mẹ và con
cái nên cho phép việc tiếp xúc trực tiếp với trẻ em và thực hiện trong một
môi trường thích hợp. Ví dụ, ở một số nhà tù, các phòng đặc biệt giống như
những ngôi nhà đã được thiết kế để đáp ứng cho những lần gặp gỡ của các
gia đình, tạo một bầu không khí riêng tư và sự thân mật hơn. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với những lần ghé thăm của gia đình, đặc biệt là trẻ em.
Trong những hoàn cảnh bình thường không có mối quan ngại về an ninh, các
gia đình có thể ngồi xuống cùng nhau, tiếp xúc trực tiếp mà không có người
giám sát.. Mọi cuộc thăm nom của gia đình nên được diễn ra trong một bầu
không khí ấm cúng và thoải mái, đòi hỏi phải có sự đào tạo chuyên nghiệp
dành cho các cán bộ trại giam. Song song với việc tạo sự tiếp xúc gần gũi
giữa cha mẹ và con cái, trại giam cũng nên thiết lập những khu vui chơi nhỏ
cho trẻ em để chúng không thấy cảm giác xa lạ, sợ sệt khi đến thăm mẹ, tạo
cảm hứng cho các lần ghé thăm tiếp theo. Ngoài ra đây cũng là cách để thu
hút trẻ em, tạo không gian riêng tư cho cha mẹ và người thân. Điều này làm
nên chất lượng cho các cuộc thăm nom nữ phạm nhân, là tiền đề tốt cho
công tác tái hoà nhập sau này.
Ngoài ra cũng áp dụng hình thức gọi điện về gia đình đối với các nữ
phạm nhân để họ được nắm bắt tình hình gia đình, đặc biệt là khi họ sống xa
hoặc không thể đến thăm. Các cán bộ quản lí trại giam, trại tạm giam cũng có
thể hợp tác với các cơ quan và tổ chức xã hội để giúp các tù nhân phụ nữ giữ
liên lạc với gia đình họ. Việc tạo mối liên hệ giới gia đình đã mang lại những
hiệu quả thiết thực. Ví dụ, Nhà tù nữ Thika ở Kenya đã bắt đầu tổ chức các
"Ngày hội nuôi dạy con từ xa" vào năm 2007. Cán bộ phụ trách nhà tù nói


18


rằng việc đưa ra ý tưởng này cho cha mẹ và con nhỏ có mục đích đẩy nhanh
quá trình cải tạo của tù nhân, những người bị chấn động khi không liên lạc với
các gia đình. Họ dự định tổ chức sự kiện này hàng tháng. Ý tưởng này đã
được lấy từ Trung Quốc sau khi các quan chức từ chính quyền nhà tù Kenya
tiến hành một chuyến thăm quan học tập tới đất nước này.
Một trong những cách quan trọng nhất và hữu ích để duy trì liên kết
giữa các tù nhân với thế giới bên ngoài là cho phép cộng đồng tham gia vào
các hoạt động hàng ngày của tù nhân nếu có thể thực hiện được. Theo cách
này, cuộc sống trong tù có thể được gần gũi hơn với cuộc sống bình thường.
Đối với những tù nhân không có gia đình hoặc người thân, hoặc gia đình và
người thân của họ không thể đến thăm, thì liên hệ với các cơ quan cộng đồng
sẽ là phương tiện duy nhất để họ có một số liên lạc cá nhân với thế giới bên
ngoài, đây là một phần thiết yếu của việc tái hoà nhập sau này. Sự tham gia
của cộng đồng vào các hoạt động trại giam cũng là một cách tốt để nâng cao
nhận thức của xã hội bên ngoài về nhà tù và khuyến khích sự ủng hộ của mọi
người đối với những nỗ lực của các cán bộ nhà tù nhằm nâng cao chất lượng
trại giam và các dịch vụ cung cấp cho các tù nhân.
1.2.2.2. Có biện pháp cần thiết kịp thời đối với người phụ nữ có tiền sử
từng là nạn nhân
Mặc dù việc phụ nữ bị lạm dụng tình dục và ngược đãi về tinh thần xảy
ra cả trong và ngoài nhà tù nhưng những can thiệp cần thiết gần như là chưa
có. Ở các nước có nền tư pháp hoàn thiện hơn, phụ nữ có thể được nhận sự
giúp đỡ từ các cố vấn về tình trạng khủng hoảng sau khi bị hiếp dâm, đươc
đánh giá sức khoẻ tâm thần và theo sau là điều trị hoặc tư vấn y tế, bảo vệ
quyền nuôi con hoặc được tập huấn để tự phòng vệ. Tuy nhiên, ở nhiều nước
khác, những biện pháp như vậy là rất hiếm và phụ nữ thường tự bỏ trốn để
tránh phải đối mặt với những tổn thương tinh thần. Trong những trường hợp


19


×