Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN ở trường tiểu học thành phố việt trì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.24 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN ĐỨC THIỆN

QUẢN LÝ SINH HOẠT TỔ CHUYÊN MÔN
THEO MÔ HÌNH VNEN Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN NGÀNH: KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS-TS Nguyễn Đức Sơn
Thái Nguyên – 2015


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Tổ chuyên môn là một đơn vị cơ sở của nhà trường, giữ vị trí rất quan trọng
trong hoạt động nhà trường. Đó là nơi người thầy giáo sinh hoạt chuyên môn, là nơi
diễn ra các hoạt động như soạn giáo án, giúp nhau bồi dưỡng chuyên môn, tổ chức
kiểm tra đánh giá, sinh hoạt tư tưởng và tinh thần. Người Hiệu trưởng phải quản lý
tổ chuyên môn một cách khoa học, qua tổ chuyên môn để quản lý con người và
quản lý công việc. Đặc biệt là từ năm học 2012-2013 Bộ GD&ĐT triển khai dạy
học và đánh giá tình hình học tập của học sinh ở các lớp triển khai mô hình VNEN.
Đây là một nội dung mới đối với các trường thực hiện thí điểm để những năm học


sau triển khai rộng ở các trường tiểu học.
Chỉ thị số 40 - CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục: “…Hoàn thiện cơ chế quản lý theo hướng tăng cường kỷ luật, kỷ cương
trong hoạt động dạy học, nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp
của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục…”
Tại điểm 2 điều 18 Điều lệ trường Tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số
41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định về nhiệm vụ của tổ chuyên môn như sau:
Xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần, tháng, năm học nhằm
thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học và hoạt động giáo dục. Thực hiện bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả giảng dạy,
giáo dục và quản lí sử dụng sách, thiết bị của các thành viên trong tổ theo kế hoạch
của nhà trường. Tham gia đánh giá, xếp loại giáo viên theo quy định Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học và giới thiệu tổ trưởng, tổ phó.
Tất cả các trường tiểu học hiện nay đều thành lập tổ chuyên môn, hoạt động
của tổ chuyên môn diễn ra theo theo quy định của Điều lệ trường tiểu học. Tuy nhiên,
hoạt động của tổ chuyên môn còn tồn tại những vấn đề sau:
Nhận thức của đội ngũ giáo viên và Hiệu trưởng về vai trò, nhiệm vụ của tổ
chuyên môn chưa đúng mức, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm túc. Thực hiện 4 chức
năng quản lý của tổ chuyên môn còn mờ nhạt, đôi khi bị lãng quên. Hiệu quả sinh


hoạt của tổ chuyên môn thấp, còn tồn tại “hình thức chủ nghĩa” trong sinh hoạt của
tổ chuyên môn.
Theo mô hình VNEN, sinh hoạt của tổ chuyên môn cần có những cải tiến
nhất định để đáp ứng các yêu cầu mới và nâng cao chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại thì nghiên cứu về quản lý sinh hoạt tổ
chuyên môn theo mô hình VNEN ở các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Việt
Trì, tỉnh Phú Thọ thì vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu. Vì vậy đề tài nghiên cứu

được lựa chọn là: “ Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN ở
trường tiểu học thành phố Việt Trì.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn theo
mô hình VNEN, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả sinh hoạt tổ chuyên môn,
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
3.1.

Đối tượng nghiên cứu.

Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN ở các trường tiểu học.
3.2.

Khách thể nghiên cứu.

Công tác quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn của Hiệu trưởng trường tiểu học.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
4.1.

Giới hạn về đối tượng nghiên cứu.

Đề tài chỉ nghiên cứu quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN
Giới hạn về địa bàn nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu 20 trường tiểu học trên địa bàn
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
4.2.

Giới hạn về khách thể điều tra.

Đề tài điều tra về công tác quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn của 300 cán bộ quản

lý và giáo viên ở 20 trường tiểu học của thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
5. Giả thuyết khoa học:
Nếu Hiệu trưởng các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh
Phú Thọ quan tâm và thực thi các biện pháp đồng bộ về tổ chức, quản lý, bồi dưỡng
và xây dựng môi trường hoạt động tốt cho các tổ chuyên môn theo mô hình VNEN
thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sinh hoạt của tổ chuyên môn.


6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
6.1.

Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan tới sinh hoạt của tổ chuyên
môn, quản lý sinh hoạt của tổ chuyên môn, các yếu tố ảnh hưởng đến
sinh hoạt của tổ chuyên môn, mô hình VNEN

6.2.

Đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lý để cải thiện chất lượng
sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
Phân tích, tổng hợp, phân loại tài liệu,... Thông qua đọc tài liệu của các tác
giả để xác định những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. Các vấn đề lý
luận này sẽ làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp phù hợp
và khả thi.
7.2. - Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Quan sát, điều tra, phỏng vấn, tổng kết kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia,...
nhóm phương pháp này dùng để khảo sát thực trạng sinh hoạt tổ chuyên môn và thực
trạng sử dụng các biện pháp quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn của các Hiệu trưởng.

7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học.
Dùng để xử lý các kết quả khảo sát thực tiễn, giúp phân tích mối quan hệ giữa
các kết quả khảo sát được trong thực tiễn.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SINH HOẠT TỔ CHUYÊN
MÔN Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.1.1. Ở nước ngoài.
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để

dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học
sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường
học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương
trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy - học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp
học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy- học. Mô hình này được nhiều nước trên thế giới


thực hiện.
1.1.2. Trong nước.
Nền giáo dục cách mạng Việt Nam với nhiều lần cải cách giáo dục. Giáo dục Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn lao, trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng
giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực, cơ sở vật chất các nhà trường được đầu tư
theo hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu
kém, bất cập. Nguyên nhân của những yếu kém, bấp cập của nền giáo dục nước ta thì
có nhiều, nhưng một trong những nguyên nhân không thể không kể đến đó là do:
những yếu tố chủ quan, trình độ quản lý giáo dục chưa thích ứng với sự thay đổi cơ
chế từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh kế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cả về tư

duy và phương thức quản lý; năng lực của cán bộ quản lý chưa được chú trọng nâng
cao, công tác tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ quản lý chưa có hệ thống, chưa đủ
mạnh để đáp ứng những yêu cầu đặt ra đối với hệ thống giáo dục...
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về quản lý giáo dục. Điển hình trong lĩnh vực
nghiên cứu này có các tác giả như: Phạm Minh Hạc, Hà Sĩ Hồ, Nguyễn Ngọc Quang,
Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Gia Quý, Đỗ Văn Chấn, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần Kiểm...
Tuy nhiên, vẫn còn ít các đề tài nghiên cứu về công tác quản lý của Hiệu trưởng đối
với sinh hoạt của tổ chuyên môn trong các trường tiểu học theo mô hình VNEN.
Các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về đội ngũ tổ trưởng chuyên
môn trong các trường phổ thông cũng đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu, chẳng hạn:
Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường
mầm non quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội - Doãn Thị Thanh Phương - 2006.
Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của Hiệu trưởng các trường
tiểu học quận Hồng Bàng - Hải Phòng - Trần Thị Minh Tâm - 2006.
Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với hoạt động tổ chuyên môn các
trường THCS huyện Phổ Yên Thái Nguyên - Nguyễn Thanh Cao - 2007.
Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tổ chuyên môn
ở các trường THPT thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây - Nguyễn Thế Quang - 2007.
Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của Hiệu trưởng các trường
tiểu học huyện Phù Ninh tỉnh Phú Thọ - Nguyễn Thị Ngân - 2007.
Biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của Hiệu trưởng các trường tiểu


học Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương - Phù Thị Thanh Huệ - 2008.
Các luận văn kể trên chỉ nghiên cứu về quản lý tổ chuyên môn ở các trường
mầm non, tiểu học, THCS, THPT. Tính đến thời điểm này (năm 2014) trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về công tác quản lý sinh hoạt tổ
chuyên môn theo mô hình VNEN ở các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Việt
Trì, tỉnh Phú Thọ.
1.2.


Một số khái niệm cơ bản.

1.2.1. Quản lý.
Từ buổi bình minh của lịch sử loài người, con người đã biết tập hợp nhau lại
để sống và lao động nhằm mục tiêu ban đầu mang đậm tính bản năng, đó là chống lại
sự tấn công của thú dữ. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, hoạt động
lao động manh mún mang tính tự phát dần được thay thế bằng các hoạt động lao động
có tổ chức chặt chẽ hơn để phát huy được sức mạnh của cộng đồng. Khi xã hội phát
triển đến một trình độ nhất định thì cần có những người đứng ra tập hợp một số người
trong cộng đồng thành một nhóm để thực hiện những nhiệm vụ lao động chuyên biệt,
lúc ấy manh nha xuất hiện hoạt động phân công lao động cho các thành viên trong
nhóm. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, dưới đây là một số quan niệm
của các tác giả có tên tuổi trong lĩnh vực nghiên cứu về khoa học quản lý giáo dục:
Trong tập bài giảng Quản lý Giáo dục và Đào tạo PGS-TS Nguyễn Thị Tính
cho rằng: “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục
"

tiêu đề ra [ 22; 2]
Khái niệm “quản lý” được PGS-TS Trần Kiểm quan niệm: “Quản lý là những
tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều
chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức một
cách tối ưu nhằm đạt được mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [ 16; 6 ]
Như vậy, ta có thể hiểu: Quản lý là tập hợp các tác động có mục đích, có kế
hoạch, có phương pháp của người quản lý tới người được quản lý để đạt được mục
tiêu quản lý.
1.2.2. Tổ chuyên môn.



Theo từ điển Tiếng Việt: “Chuyên môn là lĩnh vực kiến thức riêng về một
ngành kinh tế - xã hội”.[28; 73]
Tổ chuyên môn là một nhóm người có cùng các hoạt động chuyên môn giống
nhau hoặc gần giống nhau được tổ chức lại nhằm hỗ trợ nhau trong công việc, học
tập và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đồng thời cũng để cho người quản lý dễ
dàng hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý của mình. Mặt khác, tổ chuyên môn
cũng là nơi các thành viên trao đổi về tư tưởng, tình cảm, động viên, chia sẻ buồn vui
với nhau trong cuộc sống.
Trong trường các nhà trường phổ thông nói chung, các giáo viên đều được tổ
chức thành các tổ chuyên môn. Tại điều 18 Điều lệ trường Tiểu học Ban hành kèm
theo Thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định như sau:
1. Tổ chuyên môn bao gồm giáo viên, viên chức làm công tác thư viện, thiết bị
giáo dục. Mỗi tổ có ít nhất 3 thành viên. Tổ chuyên môn có tổ trưởng, nếu có từ 7
thành viên trở lên thì có một tổ phó.
2. Nhiệm vụ của tổ chuyên môn:
a) Xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần, tháng, năm học
nhằm thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học và hoạt động giáo dục;
b) Thực hiện bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất
lượng, hiệu quả giảng dạy, giáo dục và quản lí sử dụng sách, thiết bị của các thành
viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường;
c) Tham gia đánh giá, xếp loại giáo viên theo quy định Chuẩn nghề nghiệp
giáo viên tiểu học và giới thiệu tổ trưởng, tổ phó.
3. Tổ chuyên môn sinh hoạt định kì hai tuần một lần và các sinh hoạt khác khi
có nhu cầu công việc.
Như vậy, có thể nói rằng: tổ chuyên môn là đơn vị cơ sở để thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách, kế hoạch giáo dục của Đảng, Nhà nước, của các cấp
quản lý giáo dục và kế hoạch giáo dục của nhà trường. Sinh hoạt tổ chuyên môn sẽ
quyết định tới chất lượng giáo dục của mỗi nhà trường. Bởi vậy, nếu Hiệu trưởng
quản lý tốt sinh hoạt của tổ chuyên môn thì đó chính là lời giải cho bài toán nâng cao



chất lượng giáo dục.
1.2.3. Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn.
Tại điểm 5 Điều 20 Điều lệ trường Tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số
41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định Hiệu trưởng trường Tiểu học có 8 nhiệm vụ sau đây:
a) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức thực hiện
kế hoạch dạy học, giáo dục; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng
trường và các cấp có thẩm quyền;
b) Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà
trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó;
c) Phân công, quản lí, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng, thuyên
chuyển; khen thưởng, thi hành kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định;
d) Quản lí hành chính; quản lí và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài
sản của nhà trường;
e) Quản lí học sinh và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường; tiếp nhận,
giới thiệu học sinh chuyển trường; quyết định khen thưởng, kỉ luật, phê duyệt kết quả
đánh giá, xếp loại, danh sách học sinh lên lớp, ở lại lớp; tổ chức kiểm tra, xác nhận
việc hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh trong nhà trường và các đối
tượng khác trên địa bàn trường phụ trách;
g) Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lí; tham gia
giảng dạy bình quân 2 tiết trong một tuần; được hưởng chế độ phụ cấp và các chính
sách ưu đãi theo quy định;
h) Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã
hội trong nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục;
i) Thực hiện xã hội hoá giáo dục, phối hợp tổ chức, huy động các lực lượng xã
hội cùng tham gia hoạt động giáo dục, phát huy vai trò của nhà trường đối với cộng
đồng.
Như vậy, trong thực thi nhiệm vụ của mình theo quy định tại Điều lệ trường

Tiểu học, người Hiệu trưởng phải thực hiện rất nhiều công việc. Trong tám nhiệm vụ


ở trên thì hai nhiệm vụ a và b nêu ở trên là hai nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu.
Như vậy, chúng ta thấy rằng quản lý dạy học và giáo dục là hoạt động trung
tâm của Hiệu trưởng mà tổ chuyên môn lại là nơi diễn ra các hoạt động quan trọng
đó.
Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn của Hiệu trưởng là những tác động tới các
mặt hoạt động của tổ chuyên môn như: Lập kế hoạch hoạt động của tổ chuyên môn,
tổ chức thực hiện kế hoạch của tổ chuyên môn, công tác chỉ đạo của tổ trưởng
chuyên môn trong quá trình thực hiện kế hoạch của tổ, công tác kiểm tra đánh giá
của tổ trưởng chuyên môn đối với hoạt động của các thành viên trong tổ. Nhằm góp
phần đạt được mục tiêu chung của nhà trường.
Để thực hiện quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn, Hiệu trưởng phải nắm được kế
hoạch, chương trình và phương pháp giảng dạy các môn ở các khối lớp, tinh thần đổi
mới phương pháp dạy học và giáo dục để có khả năng tư vấn về nghiệp vụ sư phạm
cho giáo viên.
Mặt khác về quản lý, người Hiệu trưởng cần phải tuân thủ hệ thống các
nguyên tắc quản lý giáo dục. Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản của khoa học quản
lý giáo dục”[16; 97], PGS-TS Trần Kiểm đã nêu ra sơ đồ hệ thống các nguyên tắc
quản lý giáo dục như sau:

Hệ thống nguyên tắc
quản lý giáo dục


Các nguyên tắc chính
trị - xã hội

Các nguyên tắc

tổ chức quản lý

Các nguyên tắc
hoạt động quản lý

Tính đảng, tính
giai cấp

Thống nhất trong
hệ thống quản lý

Hiệu quả
quản lý

Kết hợp nhà
nước và nhân
dân

Kết hợp quản lý
theo ngành và
lãnh thổ

Kết hợp
các lợi ích

Tập trung
dân chủ

Kết hợp tập thể,
cá nhân, chế độ

một thủ trưởng

Chuyên môn
hóa

Pháp chế xã hội
chủ nghĩa

Tổ chức quản lý
cán bộ

Phối hợp các
phương pháp
quản lý

Đặc biệt, người Hiệu trưởng phải là người tạo lập và khơi ậy
d bầu không khí học
thuật trong nhà trường, là người đốt nóng bầu không khí đổi mới ương
ph pháp dạy học và
giáo dục. GS-TSKH Thái Duy Tuyên đã viết trong cuốn Phươngpháp dạy học truyề n
thống và đổi mới: “Để giải quyết có hiệu quả vấn đề đổi mới PPDH trong nhà
trường, người Hiệu trưởng giữ vai trò vô cùng quan trọng. Một trong những nguyên
nhân quan trọng nhất làm cho việc đổi mới PPDH trong nhà trường thời gian qua vận
động và phát triển chậm chạp có lẽ là do người Hiệu trưởng chưa thật mặn mà với
công tác quan trọng này”[24; 35]. Cũng trong cuốn sách này, GS -TSKH Thái Duy
Tuyên giới thiệu 6 biện pháp quản lý toàn diện để đổi mới phương pháp dạy học:
-

Tăng cường quản lý hoạt động của tổ chuyên môn.


-

Chấn chỉnh hoạt động của tổ chủ nhiệm và các đoàn thể trong nhà trường.

-

Đổi mới quản lý hoạt động dạy học và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội

ngũ giáo viên.
-

Tăng cường quản lý hoạt động học tập của học sinh.

-

Phối hợp chặt chẽ hoạt động của Hội cha mẹ học sinh và các lực lượng giáo


dục khác.
-

Bảo đảm các điều kiện thiết yếu về cơ sở vật chất, thiết bị đồ dùng và kinh phí

cho đổi mới PPDH.
Như vậy, ta có thể nói rằng Hiệu trưởng có vai trò rất quan trọng trong mọi
mặt sinh hoạt của tổ chuyên môn. Hiệu trưởng được xem như là “linh hồn” của tập
thể sư phạm. Những tư tưởng của người Hiệu trưởng sẽ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến các hoạt động của nhà trường nói chung và sinh hoạt của tổ chuyên môn nói
riêng.
1.3.


Nội dung sinh hoạt của tổ chuyên môn.
1.3.1. Trường Tiểu học và vai trò, vị trí của tổ chuyên môn trong trường Tiểu học.

Tại điều 26 Luật Giáo dục năm 2005 quy định về Giáo dục phổ thông như sau:
Giáo dục phổ thông bao gồm:
a) Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi;
b) Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến
lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là
mười một tuổi;
c) Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp
mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học
cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi.
Điều 30 Luật Giáo dục năm 2005 quy định về cơ sở giáo dục phổ thông như sau:

1. Trường tiểu học;
2. Trường trung học cơ sở;
3. Trường trung học phổ thông;
4. Trường phổ thông có nhiều cấp học;
5. Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
Mục tiêu của Giáo dục tiểu học được quy định tại điều điểm 3, điều 27 Luật
Giáo dục năm 2005: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ


và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Như vậy, Giáo dục Tiểu học và cơ sở Giáo dục tiểu học (Nhà trường Tiểu học)
đứng vị trí thứ nhất trong giáo dục phổ thông, là cấp học nền tảng về các mặt đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản cho cấp Trung học cơ sở. Nếu

chúng ta tiếp cận theo quan điểm của “Quản lý chất lượng tổng thể” (TQM - Total
Quality Management) trong quản lý giáo dục thì cấp tiểu học là bên “cung ứng” các
“sản phẩm”, cấp trung học là “khách hàng” của cấp tiểu học. “Sản phẩm” của trường
tiểu học là “nguyên liệu” đầu vào của các trường THCS.
Các nhà trường tiểu học được xem là nền móng của chất lượng nguồn nhân
lực. Chúng ta không thể xây dựng một tòa nhà cao tầng trên một nền móng không
vững chắc. Bởi vậy, chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia muốn cao thì một điều
kiện tiên quyết đó là chất lượng giáo dục trong trường tiểu học.
Tổ chuyên môn như đã đề cập ở phần 1.2.2 của chương I, với tư cách là một
phần tử của “dây chuyền” trực tiếp tạo ra các “sản phẩm” nguồn nhân lực, thì có thể
nói rằng tổ chuyên môn có một vai trò và vị trí hết sức quan trọng trong “dây chuyền”
tạo ra các “sản phẩm” đó, các hoạt động của tổ chuyên môn quyết định trực tiếp đến
chất lượng giáo dục của nhà trường. Mặt khác, các mối quan hệ, các cách đối nhân xử
thế, môi trường giao tiếp ở tổ chuyên môn góp phần làm nên diện mạo văn hóa của
nhà trường.
1.3.2. Nội dung sinh hoạt của tổ chuyên môn.
Từ 3 nhiệm vụ của tổ chuyên môn, có thể thấy sinh hoạt của tổ chuyên môn có
những nội dung sau:
Lập kế hoạch hoạt động của tổ trên cơ sở kế hoạch hoạt động của nhà trường.
Tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục trên cơ sở kế hoạch đã lập và phân
phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo được nhà trường cụ thể hoá bằng thời
khoá biểu và và kế hoạch dạy học của các tổ chuyên môn.Phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi, phụ đạo học sinh có khó khăn trong học tập.
Thực hiện công tác chủ nhiệm lớp.
Thực hiện công tác bồi dưỡng giáo viên bằng nhiều hình thức khác nhau như:
tổ chức dự giờ đồng nghiệp, phân tích sư phạm các giờ dạy của đồng nghiệp, hội thảo
các chuyên đề về phương pháp dạy học và giáo dục thông qua các buổi sinh hoạt


chuyên môn hoặc tự nghiên cứu tài liệu. Ứng dụng thành tựu của khoa học và công

nghệ vào dạy học và giáo dục. Tổ chức nghiên cứu khoa học giáo dục, tổng kết
chuyên đề sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học. Lập và cập nhật thông tin
vào hệ thống hồ sơ của trường, của tổ và của cá nhân. Kiểm tra, đánh giá các mặt
hoạt động của mọi thành viên trong tổ theo định kỳ hoặc theo yêu cầu đột xuất của
BGH. Quản lý, sử dụng tài liệu giảng dạy và thiết bị dạy học được giao. Tham gia
hoạt động ngoại khoá do nhà trường, các đoàn thể hoặc tổ chuyên môn tự tổ chức.
Đề xuất tham mưu với Hiệu trưởng để khen thưởng những thành viên có thành tích
trong hoạt động giảng dạy và giáo dục. Đồng thời phê bình, nhắc nhở những giáo
viên vi phạm qui chế chuyên môn hoặc chưa nhiệt tình tham gia các hoạt động mà
nhà trường, tổ phân công. Tham gia đánh giá xếp loại giáo viên theo chuẩn nghề
nghiệp. Giới thiệu chức danh Tổ trưởng, Tổ phó để Hiệu trưởng bổ nhiệm.
Nội dung chi tiết là vậy, nhưng có thể khái quát lại nội dung sinh hoạt của tổ
chuyên môn có đầy đủ các khâu: Kế hoạch hóa, tổ chức thực hiện kế hoạch, chỉ đạo
thực hiện kế hoạch và kiểm tra đánh giá thực hiện kế hoạch.
1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của tổ trưởng chuyên môn và yêu cầu của tổ trưởng
chuyên môn trong giai đoạn hiện nay.
Người Hiệu trưởng cho dù có giỏi tổ chức đến mức nào đi chăng nữa, cho dù
Hiệu trưởng có mặt liên tục ở trường để điều hành và giám sát công việc thì cũng
không thể nào kiểm soát một cách trực tiếp được hết tất cả các hoạt động hàng ngày
diễn ra trong nhà trường. Bởi vậy, Hiệu trưởng cần phải dựa vào các cộng sự giúp
việc. Một trong những cộng sự giúp việc đó là tổ trưởng chuyên môn, tổ trưởng
chuyên môn như cánh tay nối dài của Hiệu trưởng. Tổ trưởng chuyên môn là người
chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về kết quả mọi mặt hoạt động của tổ mình phụ
trách. Tổ trưởng chuyên môn bao giờ cũng là người có năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ vững chắc, là người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực QL điều hành tốt, đặc
biệt là người có uy tín cao trong tập thể nhà trường và tập thể tổ. Hiện nay, công việc
của người tổ trưởng chuyên môn thường phải thực hiện là:
Xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ trên cơ sở kế hoạch hoạt động của trường
và sự đóng góp của các tổ viên, đồng thời hướng dẫn tổ viên xây dựng kế hoạch hoạt
động chuyên môn của cá nhân.

Xây dựng tập thể tổ thành một khối đoàn kết nhất trí, giúp nhau cùng tiến bộ.


Xây dựng kế hoạch giảng dạy trong tuần theo thời khóa biểu của nhà trường
cho tổ, xây dựng kế hoạch và nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu
của tổ.
Kiểm soát các khâu: soạn bài, giảng bài, chấm bài, chữa bài và đánh giá xếp
loại học sinh của từng thành viên trong tổ theo đúng các văn bản chỉ đạo của ngành.
Chủ trì các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn theo định kỳ một cách có hiệu quả
nhằm góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học và giáo dục.
Tổ chức cho các tổ viên làm và sử dụng đồ dùng dạy học, chỉ đạo ứng dụng
khoa học và công nghệ vào giảng dạy và giáo dục, tổ chức tổng kết và viết sáng kiến
kinh nghiệm của các thành viên trong tổ.
Tham gia kiểm tra, đánh giá giáo viên theo quyết định của Hiệu trưởng nhà
trường.
Giải đáp những ý kiến, thắc mắc của tổ viên trong phạm vi thẩm quyền của tổ
trưởng và đề đạt những ý kiến của tổ viên trong tổ không thuộc thẩm quyền của tổ
trưởng tới Hiệu trưởng giải quyết.
Từ những nhiệm vụ của tổ chuyên môn và nhiệm vụ của của Tổ trưởng chuyên
môn, trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi tổ trưởng chuyên môn phải đáp ứng được
những yêu cầu sau đây:
Yêu cầu về năng lực nhanh thích ứng với sự thay đổi. Trong một xã hội mà
nền kinh tế, xã hội, nhất là khoa học công nghệ luôn thay đổi và phát triển. Bởi vậy,
các lĩnh vực khác đặc biệt là giáo dục và đào tạo cũng phải thay đổi theo để đáp ứng
được với những yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
Yêu cầu về năng lực tự học. Tri thức của nhân loại tăng lên hàng ngày, trong
khi đó giáo dục nhà trường lại không thể cung cấp đầy đủ tri thức cho người học. Bởi
vậy, để không bị lạc hậu về tri thức nhằm đáp ứng yêu cầu công việc thì bắt buộc mọi
người phải liên tục cập nhật tri thức mới có liên quan đến công việc của mình.
Yêu cầu về năng lực quản lý, điều hành. Thực tế hiện nay, các tổ trưởng

chuyên môn được bổ nhiệm chủ yếu dựa trên tiêu chí năng lực về chuyên môn, năng
lực quản lý và điều hành ít được chú ý tới. Trong khi đó, người tổ trưởng vừa phải
trực tiếp làm công tác giảng dạy và giáo dục vừa phải làm công tác quản lý điều hành.
1.3.4 . Sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN.
Theo mô hình VNEN trong quá trình giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm,


phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần linh hoạt hơn trong tổ chức cho
học sinh học tập. Giáo viên giảm bớt các thao tác mẫu, biểu diễn mà thay vào đó là sự
linh hoạt trong kiểm tra, giám sát, giúp các nhóm làm việc. GV chủ động tra cứu
thông tin, tự học để đáp ứng yêu cầu của bài học, không phụ thuộc vào sách hướng
dẫn.
Trên cơ sở những điểm mới của mô hình VNEN thì sinh hoạt tổ chuyên môn
cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với hình thức giảng dạy và học tập theo mô hình
VNEN.
Tăng cường trao đổi kinh nghiệm trong quá trình thực hiện mô hình VNEN.
Sinh hoạt chuyên môn theo cụm trường là bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn ở các
lĩnh vực : Hoạt động giáo dục và hoạt động dạy học; Đánh giá kết quả giáo dục, kết
quả dạy và học. Về hoạt động giáo dục để hình thành và nâng cao năng lực tổ chức
hoạt động giáo dục cho GV dạy học ở mô hình trường học mới – VNEN
Tóm lại: Tổ trưởng chuyên môn chính là cánh tay nối dài của Hiệu trưởng, giúp
Hiệu trưởng quản lý mọi mặt hoạt động ở tổ chuyên môn. Tổ trưởng chuyên môn vừa
là một giáo viên, vừa là một nhà quản lý, lãnh đạo. Năng lực chuyên môn và năng lực
quản lý của người tổ trưởng sẽ là một trong các yếu tố rất quan trọng trong việc quyết
định đến chất lượng sinh hoạt của tổ chuyên môn.
1.4. Hiệu trưởng với vai trò quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn theo mô hình VNEN.
1.4.1. Quản lý của Hiệu trưởng đối với sinh hoạt của tổ chuyên môn theo mô
hình VNEN.
Quản lý theo chức năng là dựa vào những công việc của người quản lý phải
thực hiện để làm căn cứ tác động nhằm đạt được mục tiêu quản lý.

Có nhiều quan điểm khác nhau về các chức năng của quản lý, PGS.TS Trần
Kiểm cho rằng có 4 chức năng [16; 45.], có tác giả cho rằng có 6 chức năng. Tuy
nhiên, tác giả nào cũng tập trung vào 4 chức năng chính sau: Chức năng kế hoạch,
chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra đánh giá.
1.4.1.1. Công tác lập kế hoạch.
Công tác lập kế hoạch là một hoạt động xác định mục tiêu, xác định những
công việc cần phải làm ở những khoảng thời gian xác định trong tương lai, xác định
những nguồn lực đảm bảo cho những công việc phải làm đó được thực thi. Lập kế


hoạch thực chất là chúng ta đi tìm các câu trả lời cho 4 câu hỏi:
- Những việc cần phải làm là những việc gì?
- Làm những việc đó bằng cách nào?
- Làm những việc đó vào những thời điểm nào?
- Những ai, những bộ phận nào sẽ làm những việc đó?
Chức năng lập kế hoạch là chức năng khởi đầu quan trọng nhất của công tác
quản lý, lập kế hoạch là một thành tố không thể thiếu đối với các nhà quản lý. Thực tế
chứng minh, các nhà quản lý thường làm việc theo thói quen và chỉ thực hiện chức
năng quản lý hàng ngày và mỗi khi có một vấn đề nào đó xuất hiện người quản lý
mới tập trung sức lực giải quyết mà không dành thời gian thích đáng cho việc lập kế
hoạch để cho mọi việc hoặc ít ra là nhiều việc xảy ra theo ý muốn của mình. Việc lập
kế hoạch là một hoạt động quản lý bao gồm phân tích môi trường bên ngoài, bên
trong của tổ chức, rồi xác định xứ mệnh của tổ chức, xác lập các mục tiêu, quyết định
các kế hoạch hành động hoặc các biện pháp cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu đó.
Lập kế hoạch là một quá trình xác định các mục tiêu và lựa chọn các phương
thức hành động để đạt được các mục tiêu đó. Đứng về mặt lý luận người ta nói: nếu
không có các kế hoạch thì các nhà quản lý có thể không biết tổ chức và khai thác con
người cũng như các nguồn lực khác của tổ chức có hiệu quả, thậm chí không có một
ý tưởng rõ ràng về cái mà họ cần tổ chức và khai thác và không có kế hoạch thì các
nhà quản lý và nhân viên của họ có rất ít cơ hội để đạt được mục tiêu của mình,

không biết khi nào và ở đâu phải làm gì. Lúc này việc kiểm tra của các nhà quản lý
cũng trở nên rất khó khăn.
Lập kế hoạch sẽ làm giảm bớt độ bất định và ứng phó với những thay đổi từ
bên ngoài. Vì có nhiều yếu tố bên ngoài nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta nhưng
nó lại ảnh hưởng tới công việc của chúng ta, song nếu chúng ta có lập kế hoạch thì
chúng ta có thể chủ động hơn và giảm thiểu độ bất định trong quá trình thực hiện.
Tập trung sự cố gắng và sự chú ý của mọi người vào mục tiêu. Tạo khả năng thực
hiện công việc một cách kinh tế. Trong khi lập kế hoạch chúng ta đã cân nhắc lợi hại
rồi tính toán sự hao phí các nguồn lực sao cho có lợi nhất ở các phương án hành
động. Làm cho người quản lý dễ dàng kiểm tra việc thực hiện công việc của mọi
người trong tổ chuyên môn. Phối hợp chặt chẽ với các trường bạn để lập kế họach
sinh hoạt tổ chuyên môn theo cụm trường.


1.4.1.2.Công tác tổ chức.
Sau khi một kế hoạch đã được xây dựng một cách khoa học và đảm bảo tính khả
thi, bản kế hoạch đó phải được hiện thực hóa. Hiện thực hóa kế hoạch chính là khâu
tổ chức thực hiện kế hoạch.
Tổ chức là sắp đặt một cách khoa học những yếu tố con người, những hoạt động
tập thể người lao động thành một hệ toàn vẹn nhằm bảo đảm cho chúng tương tác với
nhau một cách tối ưu nhằm đạt tới mục tiêu của kế hoạch.
Tổ chức là phối hợp các tác động bộ phận lại với nhau làm cho chúng tạo nên
một tác động tích hợp, mà hiệu quả của tác động tích hợp này lớn hơn tổng hiệu quả
của tác động bộ phận. Cũng có thể nói, tổ chức là tạo nên sự cộng hưởng của các tác
động bộ phận.
Như vậy, tổ chức là nhân tố sinh thành ra hệ thống toàn vẹn, biến một tập thể
các thành tố rời rạc thành một hệ toàn vẹn, tạo ra cái gọi là hiệu ứng tổ chức, như
Lênin đã khẳng định: “Liệu một trăm có mạnh hơn một ngàn không? Có chứ! Khi mà
một trăm được tổ chức lại. Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần”.
Trong quản lý, chủ thể phải tổ chức khách thể quản lý một cách khoa học để đạt

tới mục tiêu dự kiến. Chủ thể quản lý cũng phải tự tổ chức mình, luôn cải tiến tổ chức
của chính mình, bằng cách đó mà nhân sức mạnh quản lý của bản thân.
Tổ chức trải qua 5 bước cụ thể sau:
Bước tiếp nhận các nguồn lực: bước này bao gồm tiếp nhận nguồn lực về con
người như: giáo viên, học sinh; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học bổ sung; kinh phí.
Bước đưa nội dung kế hoạch đến những người thực hiện: trong bước này, người
tổ chức cần phải trình bày, giải thích, thuyết phục, phân tích và động viên, kích thích
người thực hiện. Nêu lên viễn cảnh của việc hoàn thành kế hoạch. Làm cho mọi
người tự giác chấp hành kế hoạch.
Bước thiết lập cấu trúc tổ chức bộ máy: bước này, cần phải bố trí, sắp xếp các
bộ phận và cá nhân, quy định chức năng, quyền hạn và biên chế nhân lực, phân công,
phân nhiệm đến từng người về từng mặt hoạt động của tổ chức.
Bước xác lập cơ chế phối hợp, cộng tác, giám sát: xác lập các mối quan hệ quản
lý ngang, dọc; quy định quyền hạn cân đối với trách nhiệm trong sự phối hợp và công
tác; chuyên môn hóa các chức năng riêng của từng bộ phận; thiết lập các cơ chế
thông tin liên hệ ngược, giám sát, trọng tài, can thiệp.


Bước nâng cao trình độ nghiệp vụ, cải thiện đời sống của cán bộ, giáo viên: Đây
là việc làm thường xuyên từ đầu đến cuối chu trình quản lý. Đối với nhà trường, làm
giàu nhân cách của giáo viên có nghĩa là làm cho tổ chức mạnh lên, làm cho hiệu quả
thực hiện kế hoạch được tăng lên. Theo mô hình VNEN tổ chức và cách thức tiến
hành sinh hoạt chuyên môn định kì của các trường (cụm trường) được thực hiện như
sau:
Xác định đối tượng, thời gian, địa điểm. Tất cả các giáo viên dạy trong cùng
một trường (cụm trường) : Khoảng 10 đến 20 GV (bao gồm cả các GV dạy và không
dạy theo mô hình VNEN). Định kì 2 tuần/lần. Cố định tại một trường có điều kiện
thuận lợi để hỗ trợ, đảm bảo cho chất lượng sinh hoạt chuyên môn và hoạt động hậu
cần cho các giáo viên ; hoặc thay đổi luân phiên giữa các trường trong cùng một cụm.
1.4.1.3.


Công tác chỉ đạo.

Chức năng chỉ đạo có ý nghĩa sau:
Chỉ đạo là huy động lực lượng vào việc thực hiện kế hoạch, là điều hành mọi
việc nhằm đảm bảo cho hệ quản lý vận hành thuận lợi. Chỉ đạo là biến mục tiêu dự
kiến thành kết quả, biến kế hoạch thành hiện thực. Chỉ đạo là tổ chức một cách khoa
học lao động của cả tập thể người cũng như từng người.
Nội dung của việc chỉ đạo:
Nắm quyền chỉ huy, điều hành công việc làm cho các bộ phận thành phần
cũng như toàn bộ hệ quản lý phối hợp nhịp nhàng và vận hành thuận lợi.
Động viên, khuyến khích kịp thời và thường xuyên.
Giám sát tiến hành công việc, đánh giá thực trạng của hệ ngay trong khi hệ
đang hoạt động, công việc chưa kết thúc, đánh giá hoạt động của hệ xem có đúng với
quy định hay không; giám sát để trả lời các câu hỏi:
Công việc đến đâu rồi?
Có gì trục trặc không?
Cần thay đổi, thêm, bớt, can thiệp gì?
Điều chỉnh, uốn nắn, sửa đổi, thêm bớt mà không làm thay đổi hướng vận
hành của hệ; can thiệp vào sự vận hành của hệ loại trừ trục trặc, sửa chữa lệch lạc,
thay đổi thủ thuật mà vẫn giữ được tinh thần của kế hoạch, chiến lược chung của
chương trình hành động.
Phân công trách nhiệm cho các thành viên tham gia cuộc họp sinh hoạt


chuyên môn. Cụm (tổ) trưởng : Là Hiệu trưởng/phó HT trong các trường TH thuộc
cụm sinh hoạt chuyên môn, chịu trách nhiệm chung mọi hoạt động có liên quan.
Trong trường hợp sinh hoạt liên trường, các trường bầu một Hiệu trưởng/ phó Hiệu
trưởng phụ trách chung (thường cố định trong một thời gian nhất định).
Các thành viên sinh hoạt chuyên môn của cụm : Tất cả các giáo viên dạy trong

cùng một trường (cụm trường). Tất cả các giáo viên này sẽ tự nghiên cứu những vấn
đề liên quan tới nội dung sinh hoạt chuyên môn định kỳ (theo kế hoạch của cụm,
trường) đã xây dựng. Đồng thời thảo luận những vấn đề mới, khó trong chương trình,
tài liệu ở mô hình trường học mới – VNEN cùng những vấn đề có thể nảy sinh trong
quá trình thực hiện chương trình. Tìm những giải pháp, biện pháp khả thi, phù hợp
với khả năng của GV trong tổ chuyên môn. Mặt khác, việc tổ chức tham dự những
tiết dạy thử nghiệm những nội dung đã thống nhất hoặc dự giờ để trao đổi, rút kinh
nghiệm là hết sức cần thiết và hữu ích.
Chia tổ, khối chuyên môn : Chia theo khối lớp 2, khối lớp 3, khối lớp 4, khối
lớp 5. Mỗi khối có một khối trưởng. Khối trưởng được bầu trong số khối trưởng
chuyên môn của các trường trong cụm sinh hoạt chuyên môn. Các thành viên sinh
hoạt trong tổ, khối chuyên môn : Tất cả các giáo viên cùng dạy trong khối lớp đó.
1.4.1.4. Công tác kiểm tra.
Đây là giai đoạn cuối cùng của chu trình quản lý. Giai đoạn này có những
nhiệm vụ cơ bản sau:
Đánh giá thực trạng kết thúc của hệ (theo kỳ hay năm học), xác định xem
mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch đã đạt ở mức độ nào.
Phát hiện lệch lạc, sai sót, những gì trong kế hoạch còn chưa đạt được,
những khó khăn, yếu kém, trở ngại, thậm chí những thất bại, tìm hiểu nguyên nhân
của những lệch lạc, thiếu sót đã phát hiện.
Điều chỉnh kế hoạch, tìm biện pháp uốn nắn lệch lạc, loại trừ chúng nếu có


thể được.
Kiểm tra sẽ giúp cho việc chuẩn bị tích cực cho kế hoạch tiếp theo. Kiểm tra
tốt, đánh giá được sâu sắc và chuẩn bị trạng thái cuối cùng của hệ thì đến kỳ kế hoạch
tiếp theo, việc chuẩn bị và soạn thảo kế hoạch mới sẽ thuận lợi, kế thừa được mặt
mạnh để phát huy, phát hiện được lệch lạc để uốn nắn, loại trừ.
Kiểm tra còn giúp cho việc thu nhận mối liên hệ ngược trong quá trình quản



lý, giúp chủ thể quản lý điều khiển một cách tối ưu hệ quản lý. Có thể nói rằng,
không có kiểm tra thì không có quản lý.
Bốn chức năng của quản lý có mối quan hệ chặt chẽ, tương tác lẫn nhau.
Việc phân chia thành bốn giai đoạn quản lý này giúp cho chủ thể có định hướng
chính xác, đúng đắn vào công việc trọng tâm của từng giai đoạn và tính toán đầu tư
hợp lý kinh phí, nhân lực cho những giai đoạn cần thiết.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá có thể xuất hiện trong tất cả các giai đoạn chứ
không chỉ ở giai đoạn cuối của chu kỳ. Chu kỳ quản lý nói chung, chu kỳ quản lý
giáo dục nói riêng có mối quan hệ giữa các giai đoạn như sau:

Kế hoạch
hóa


Kiểm tra,
đánh giá

Thông tin,
giao tiếp

Tổ chức

Chỉ đạo

Sơ đồ mối quan hệ giữa các giai đoạn trong chu kỳ quản lý.
Ngoài cách tiếp cận dựa trên các chức năng quản lý đã đề cập ở trên, ta còn
hai cách tiếp cận khác để xem xét các hoạt động quản lý của một Hiệu trưởng. Dưới
đây là hai cách tiếp cận khác:
1.4.2


Quản lý qua phương tiện.

Để quản lý có hiệu quả, người Hiệu trưởng cần phải sử dụng các phương tiện
quản lý. Các phương tiện quản lý chủ yếu của Hiệu trưởng thường là:


-

Các văn bản pháp quy.

-

Bộ máy nhân sự.

-

Các phương tiện thông tin.

-

Các nguồn lực.

Những quyết định của người quản lý được thể hiện qua các văn bản quản lý
như: văn bản pháp quy của các cấp quản lý, văn bản bổ sung của nhà trường. Những
văn bản này được ban hành buộc đối tượng quản lý phải thực hiện nhằm hiện thực
hóa các kế hoạch. Đối với người Hiệu trưởng, việc có trong tay các văn bản pháp quy
của các cấp quản lý là hết sức quan trọng. Hệ thống văn bản pháp quy sẽ giúp cho
Hiệu trưởng thực hiện việc quản lý nhà trường đúng quy định của cấp trên. Tuy nhiên
trên thực tế, mỗi một trường đều có những đặc điểm khác nhau. Bởi vậy, Hiệu trưởng

mỗi trường đều phải xây dựng cho trường mình những quy định riêng phù hợp.
Những quy định riêng này được xây dựng dựa trên cơ sở các văn bản pháp quy do
các cơ quan quản lý cấp trên ban hành. Những quy định riêng này phải tuân thủ các
yêu cầu sau đây:
+ Không trái với các văn bản pháp quy của cấp trên.
+ Phù hợp với thực tiễn của nhà trường.
+ Được cấp trên phê duyệt.
+ Được toàn thể cán bộ, giáo viên đồng tình.
Tổ chức nhân sự: Trong nhà trường, thường phải tổ chức rất nhiều công việc.
Mặc nhiên, những công việc đó một mình Hiệu trưởng không thể gánh vác hết được.
Bởi vậy, những công việc đó phải được phân chia cho các cán bộ, giáo viên, nhân
viên trong nhà trường. Việc phân chia công việc cho các thành viên trong nhà trường
chính là công tác tổ chức nhân sự. Cổ ngữ có câu “Dụng nhân như dụng mộc” với
hàm ý nhắc nhở các nhà quản lý rằng việc phân công ai vào việc gì phải hết sức cân
nhắc. Hiệu trưởng phải căn cứ vào trình độ, năng lực của từng người để phân công
công việc, tránh giao việc vượt quá năng lực của họ, nếu giao việc quá sức của họ thì
họ sẽ phải đối mặt với kết quả là không hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại, cũng tránh
giao việc cho họ mà việc đó không sử dụng hết năng lực của người được giao việc,
điều này sẽ không tận dụng được năng lực của người được giao việc. Công tác tổ
chức bộ máy cũng phải được thực hiện một cách công khai, dân chủ và công bằng.
Nếu Hiệu trưởng có sự thiên vị trong công tác tổ chức bộ máy thì rất dễ dẫn đến


những bất ổn về tư tưởng của đội ngũ. Khi mà tư tưởng của đội ngũ không thông thì
việc không đảm bảo chất lượng công tác là điều khó tránh khỏi.
Phương tiện thông tin như: công tác tuyên truyền, công tác tổ chức hội nghị,
hội thảo trong công tác quản lý là hết sức quan trọng. Phương tiện thông tin là công
cụ để chuyển tải thông tin từ nhà quản lý tới đối tượng quản lý và ngược lại. Qua
phương tiện thông tin, nhà quản lý nắm bắt được tình hình đội ngũ như: tâm tư,
nguyện vọng, quan điểm, thái độ, lập trường về những hoạt động của đơn vị từ đó để

nhà quản lý kịp thời điều chỉnh các biện pháp thực thi kế hoạch cho phù hợp với diễn
biến của thực tiễn. Cũng qua phương tiện thông tin, đối tượng quản lý nắm bắt được
chủ trương, kế hoạch, biện pháp thực hiện và những kỳ vọng của nhà quản lý. Mặt
khác, phương tiện thông tin cũng là công cụ để nhà quản lý tổ chức bồi dưỡng nâng
cao chất lượng đội ngũ. Bước sang thế kỷ XXI, loài người đã bước sang nền văn
minh tin học. Máy tính và mạng máy tính toàn cầu đã trở thành một công cụ phổ biến
thông tin cực kỳ nhanh chóng và hiệu quả. Người Hiệu trưởng phải biết tận dụng ưu
thế này của CNTT để thực hiện các công việc bồi dưỡng đội ngũ như: tạo các diễn
đàn trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ; tổ chức cho giáo viên tìm kiếm thông tin để
thực hiện công tác tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ trên mạng máy tính toàn cầu.
Thực hiện bất kỳ một công việc nào cũng đều phải cần đến những điều kiện về
cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và một nguồn kinh phí nhất định. Các nguồn lực
như: cơ sở vật chất, nguồn kinh phí được phân bổ để cho tổ chuyên môn tổ chức các
hoạt động theo kế hoạch. Các nguồn lực này phải được Hiệu trưởng phân bổ một
cách công khai dựa trên khối lượng công việc thực tiễn mà Hiệu trưởng đã giao cho
các tổ. Ngoài ra, căn cứ vào việc sử dụng các nguồn lực này, Hiệu trưởng sẽ nắm bắt
được việc tổ chức thực hiện kế hoạch ở tổ chuyên môn diễn ra như thế nào. Trên cơ
sở đó có những đánh giá sơ bộ về hiệu quả hoạt động và có những tác động để điều
chỉnh những sai phạm nếu có.
1.4.3 Quản lý theo quá trình.
- Mục tiêu dạy học là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh cần đạt
được trong một tương lai gần và là cột mốc mong muốn vươn tới của quá trình dạy
học. Mục tiêu dạy học là phương tiện để đạt được mục đích dạy học, làm cơ sở để xác
lập nội dung dạy học và kế hoạch hoạt động dạy học. Mục tiêu cũng quyết định hiệu
quả hoạt động dạy học. Quản lý mục tiêu đào tạo là nhà quản lý lấy mục tiêu đào tạo


×