Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận xã hội học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.84 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Số trang
2
4

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Định nghĩa thiết chế giáo dục.
2. Vai trò của thiết chế giáo dục.
2.1. Hoàn thiện con người
2.2. Thúc đẩy phát triển đất nước
2.3. Hình thành nên hệ thống giáo dục
3. Thực trạng của thiết chế giáo dục trong xã hội Việt

4
4
4
5
7
9
9

Nam hiện nay.
3.1. Trong quản lí.
3.2. Khuynh hướng của giáo dục hiện nay.
3.3. Chính sách.
3.4. Bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử.
3.5. Dạy thêm, học thêm
3.6. Trường Công, trường Tư
3.7. Một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý trong thời


kì mới
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo

10
10
11
13
13
16
17
18

MỞ ĐẦU
Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng
xã hội hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào
cuộc sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì
trật tự xã hội”. Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò
quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển


2
tri thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan
trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không
phải là ngoại lệ. Trải qua bao thập kỷ, Đảng và Nhà nước ta luôn xem giáo dục
là quốc sách hàng đầu. Điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục và chính sách
giáo dục của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan có
thẩm quyền và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước đều phải coi
trọng như vậy và phải làm đúng như vậy. Đổi mới giáo dục, hay coi giáo dục là

quốc sách hàng đầu luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Sau Hội nghị Trung
ương 8, Khóa XI vào tháng 10/2013, vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo được coi như là một trong những nội dung vừa chiến lược, vừa cấp
thiết. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, Việt Nam đang
cần một quyết sách toàn diện, căn bản, xứng tầm với lĩnh vực quan trọng hàng
đầu này. Đây là sứ mệnh thiêng liêng, đồng thời cũng vô cùng nặng nề để Việt
Nam bước vào hàng ngũ các nước phát triển. Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan
trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không
chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều
coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan
trọng đến chiến lược phát triển đất nước như vây? Chúng ta đều biết bởi vì: Giáo
dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế; Giáo dục đào tạo
góp phần ổn định chính trị xã hội và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao
chỉ số phát triển con người. Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò quan trọng, thiết
chế giáo dục hiện nay cũng gặp vô vàn những vấn đề. Chủ đề giáo dục luôn là
chủ đề nóng nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua việc tiếp
thu kiến thức môn Xã hội học Giáo dục tôi xin chọn đề tài tiểu luận “Thiết chế
giáo dục trong xã hội Việt Nam hiện nay” để làm rõ hơn về nội dung này.


3

NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Định nghĩa thiết chế giáo dục.
• Thiết chế: là hệ thống các quan hệ ổn định, tạo nên một loạt các khuôn
mẫu xã hội biểu hiện sự thống nhất được xã hội công khai thừa nhận nhằm mục
đích thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội.



4
• Thiết chế giáo dục: là hệ thống các cách thức, các quy tắc, các chuẩn mực
chính thức và phi chính thức quy định và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các
cá nhân và tổ chức trong quá trình lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội.
• Dưới góc độ tiếp cận của chuyên ngành xã hội học thì Thiết chế giáo dục:
Là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực, cách thức tổ chức các hành vi, hoạt động
nhắm đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội.
2. Vai trò của thiết chế giáo dục.
2.1. Hoàn thiện con người.
2.1.1. Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát
triển nhân cách của cá nhân. Thiết chế giáo dục là phương pháp tối ưu nhất để
hình thành nên một con người phát triển toàn diện.Thiết chế giáo dục khuyến
khích tư duy sáng tạo, đột phá, sáng suốt, độc lập, và có khả năng kết nối. Mọi
nhà khoa học đều khẳng định mọi bộ não đều độc nhất vì vậy thiết chế phát triển
mỗi con người theo hướng riêng biệt sao cho phù hợp với đặc điểm, nhu cầu, tài
năng, và ước mơ khác nhau.
2.1.2. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi
cho quá trình phát triển nhân cách.
2.1.2.1 Mặt di truyền - Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm
mống của con người có trong chương trình gène được phát triển. Chẳng hạn,
biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ… - Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy
sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể. - Giáo dục phát hiện những
tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát huy năng khiếu thành năng lực cụ
thể. Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những
khó khăn của người.
2.1.2.2. Đối với môi trường - Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên
qua việc trang bị kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường của con người. - Giáo
dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế - xã



5
hội, chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa của giáo dục. Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà
trường và các nhóm bạn bè, khu phố…, để các môi trường nhỏ tạo nên những
tác động lành mạnh. tích cực đến sự phát triển nhân cách con người.
2.1.2.3.Đối với hoạt động cá nhân - Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt
động giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực
cá nhân (sân chơi ở các clb, đoàn hội…); xây dựng những động cơ đúng đắn của
cá nhân khi tham gia hoạt động, giao tiếp, đồng thời hướng dẫn cá nhân lựa
chọn các hoạt động và giao tiếp phù hợp với khả năng của bản thân. - Giáo dục
tạo tiền đề cho tự giáo dục của cá nhân. Tự giáo dục thể hiện tính chủ thể của cá
nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của
giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng
tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức độ thấp
hoặc thậm chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân
phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ
sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác
động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người
biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục.”
2.2. Thúc đẩy phát triển đất nước:
- Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc, góp phần
nâng cao chỉ số phát triển con người. Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng
là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đào tạo ra
nguồn lực tri thức và bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho đất nước. Để làm được
việc đó thiết chế giáo dục của Việt Nam đã được quy định thông qua Hội Học
các văn bản pháp luật như: Luật giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật bình
đẳng giáo dục...hay thông qua các quy tắc bất thành văn: "tôn sư trọng đạo",
"tiên học lễ hậu học văn"... Nhằm tạo ra sự bình đẳng giữa nam và nữ trong việc
tiếp cận cơ hội giáo dục, khuyến khích cá nhân không ngừng học tập, rèn luyện,



6
trau dồi đạo đức để góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Trong xã hội phong kiến, hệ thống đào tạo và chế độ thi cử rất khắt khe.
Cá nhân phải trải qua quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức lâu dài, lấy nội dung
tư tưởng Nho giáo làm trọng tâm: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", muốn
làm quan thì phải đỗ các kì thi hương, thi hội, thi đình...Nhưng ở xã hội Việt
Nam hiện nay, tất cả những trẻ em đều có quyền được học tập, xã hội đào tạo và
giúp cá nhân hoàn thiện những giá trị: "chân, thiện, mỹ", lấy mục tiêu giáo dục
là hoàn thiện "đức, trí, thể, mỹ" cho mỗi cá nhân. Về bản chất là không khác
nhau trong bối cảnh lịch sử nhưng những thiết chế giáo dục này đã dần biến đổi
cho phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại. Không dừng lại ở đó giáo dục
nước ta còn không ngừng đổi mới để đáp ứng nhu cầu đào tạo ra nguồn nhân lực
phục vụ cho thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa. Hiện nay, hệ thống giáo dục
Việt Nam đang được đổi mới, cải cách mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu giáo dục,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, điều này
cũng đặt ra nhiều thách thức lớn trong vai trò của thiết chế giáo dục đối với đời
sống xã hội và cá nhân. Tất cả vì sự nghiệp thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan
trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức.
- Giáo dục có tác động vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng
chính trị xã hội chủ nghĩa, lòng yêu nước trong mỗi con người, tinh thần cống
hiến cho đất nước.
2.3. Hình thành nên hệ thống giáo dục.
- Điều 36, Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1992: (Điều 61
trong Hiến Pháp 2013) "Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc
dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo
viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. Nhà nước phát triển cân đối hệ thống
giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo



7
dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát
triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.
- Bên cạnh đó thiết chế giáo dục còn có vai trò hình thành nên 1 hệ thống
giáo dục chặt chẽ có quy củ và hiệu quả giáo dục cao bao gồm trường học cơ sở
giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng.
- Hiện nay cách tổ chức và giáo dục ở nước ta thể hiện rõ sự quy mô và
phức tạp minh chứng ở các hoạt động tuyển sinh đại học cao đẳng, thi chuyển
cấp, v.v… Chính vì vậy nên các năm gần đây hình thức thi tốt nghiệp đại học
nhiều lần được thay đổi để thử nghiệm và tìm ra được chính sách đúng đắn nhất,
tốt nhất cho nước ta. Thực tế có thể thấy trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở là
một trong những thiết chế giáo dục hữu hiệu, góp phần đào tạo, bồi dưỡng lao
động phổ thông có kỹ thuật ngày càng cao; bồi dưỡng vốn sống và kỹ năng sống
cho toàn dân, cho người lao động, từng bước cân đối với đội ngũ cán bộ khoa
học, kỹ thuật có trình độ đại học, cao đẳng... , thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa quê hương, đất nước.Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhất là
chỉ thị số 11 của Bộ Chính trị về khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập, Quyết định số 112 và Quyết định số 89 của Chính phủ phê duyệt đề án xây
dựng xã hội học tập từ năm 2005 đến 2010 và từ năm 2012 đến 2020, trong
nhiều năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp ở tỉnh ta đã có những chủ trương,
giải pháp phù hợp để xây dựng xã hội học tập, xây dựng các Trung tâm học tập
cộng đồng ở cơ sở, thể hiện ở Chỉ thị số 23-TU và Quyết định số 438/TU của
Tỉnh ủy về xây dựng xã hội học tập, xây dựng Trung tâm học tập cộng đồng, các
Quyết định số 1328 và số 1972 của UBND tỉnh phê duyệt đề án xây dựng xã hội
học tập và quy chế hoạt động của các Trung tâm học tập cộng đồng cơ sở.Cùng
với việc phát động phong trào toàn dân học tập, xã hội học tập, nhiều địa
phương như: Kỳ Anh, Can Lộc, Đức Thọ, Thach Hà, Nghi Xuân… rất quan tâm
xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng. Các mô hình ở Kỳ Phương, Tùng



8
Lộc, Thạch Thắng, Tùng Ảnh, Xuân Đan, Xuân Viên… hoạt động hiệu quả, nội
dung học tập gắn kết với việc định hướng cho người dân khai thác tiềm năng, lợi
thế của địa phương để phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo.
- Thực tế về thiết chế giáo dục ở nước ta thông qua Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ
hội và điều kiện cho mỗi công dân đều được học tâp suốt đời”. Để thực hiện
quyết định số 89/QĐ – TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 – 2020, vấn đề đặt ra là
phải xây dựng kế hoạch và lộ trình triển khai đề án bài bản, phải tổ chức khảo
sát, đánh giá thực chất hoạt động của các Trung tâm HTCĐ để có giải pháp hợp
lý. Từ đó để kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp từ tỉnh đến cơ sở, bố trí bộ máy các
Trung tâm,vận dụng thực hiện các chế độ, chính sách trong xây dựng xã hội học
tập và hoạt động của các Trung tâm HTCĐ phù hợp với khả năng tài chính của
địa phương. Xây dựng chương trình, nội dung, hình thức học tập cần đa dạng,
thiết thực, huy động được mọi nguồn lực và sức mạnh của cả cộng đồng, cả hệ
thống chính trị xây dựng xã hội học tập.Điều quyết định tính hiệu quả của xây
dựng xã hội học tập và hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng là phát động
phong trào toàn dân học tập gắn với các phong trào, các cuộc vận động “xây
dựng đời sống văn hóa”, “xây dựng nông thôn mới”, “xây dựng gia đình, dòng
họ hiếu học, cộng đồng khuyến học”, đưa vào tiêu chí để xem xét, đánh giá,công
nhận danh hiệu “đơn vị học tập”. Thông qua các kênh thông tin, kể cả hệ thống
truyền thông đề tuyên truyền, giải thích cho mọi người nhận thức được tại sao
phải học, ai học, học cái gì, học ở đâu, học khi nào, học cách nào, điều kiện để
học. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền nhân rộng các mô hình trong phong trào xây
dựng xã hội học tập và phong trào thi đua học tập ở mọi người, mọi giới, mọi độ
tuổi; học cho bản thân, học vì hạnh phúc gia đình, học vì sự tiến bộ của xã hội
và phồn vinh của quê hương đất nước. Nếu chúng ta có những chủ trương, giải
pháp đồng bộ và kịp thời, hiệu quả thực hiện đề án “xây dựng xã hội học tập”



9
của Chính phủ sẽ góp phần không nhỏ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống của nhân dân.
3. Thực trạng của thiết chế giáo dục trong xã hội Việt Nam hiện nay.
3.1. Trong quản lí.
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi
mới.
a. Nguyên nhân :
- Bộ máy giáo dục không liên kết chặc chẽ với xã hội. - Bộ máy giáo dục
không liên kết chặct chẽ với các đơn vị tuyển dụng nhân lực. - Một số hiện
tượng tiêu cực kéo dài trong giáo dục, chậm được khắc phục và có việc còn trầm
trọng hơn, gây bức xúc cho xã hội...
- Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành
cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu
những quyết sách đồng bộ, một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý
chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
b. Biện pháp khắc phục:
- Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục. - Đổi mới căn bản
chính sách sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng năng lực thực tế.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo dục.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.
- Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo
dục. Thành lập và tăng cường vai trò các tổ chức kiểm định độc lập.
3.2. Khuynh hướng của giáo dục hiện nay.



10
- Đa dạng hoá các loại hình và phương thức giáo dục -đào tạo, phát triển
đào tạo từ xa, qua mạng; sự thay đổi chức năng và mô hình của các cơ sở giáo
dục đào tạo.
- Du học, đào tạo chất lượng cao, đào tạo liên kết nước ngoài.
Nguyên nhân. Một là, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn. Hai là, hạn chế về khả năng nghiên cứu và công bố
các kết quả nghiên cứu. Ba là, giáo trình trong nước nặng về lí thuyết. Bốn là,
các chương trình đại học chính qui bằng tiếng Anh (chất lượng cao) có phương
pháp giảng dạy hiện đại, lấy người học làm trung tâm và tích cực áp dụng mô
hình thực tiễn vào học tập; thảo luận nhóm; thuyết trình; thực hiện các bài tập
hình huống, tham quan thực địa tại các doanh nghiệp.
3.3. Chính sách.
- Chính sách hỗ trợ, đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hợp lí.
- Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn, toàn diện về công tác xã hội hóa giáo
dục; định hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng
túng, chưa xác định rõ phương châm.
- Phổ cập giáo dục, xóa mù chữ còn khó khăn.
a. Nguyên nhân - Nứơc ta là nước đang phát triển ngân sách còn phải chi
tiêu nhiều thứ ngoài ngân sách dành cho giáo dục
- Vượt quá khả năng cân đối của ngân sách địa phương, thiếu quy hoạch sử
dụng đất đai cho mục đích xã hội hóa.
- Nhận thức về xã hội hóa giáo dục và đào tạo chưa thực sự thống nhất,
đồng thuận trong các cấp quản lý và các tầng lớp nhân dân.
- Vẫn còn tư duy bao cấp và tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào ngân sách nhà
nước nên rụt rè, lưỡng lự trong hành động kêu gọi đầu tư; chưa quyết liệt triển


11
khai công tác xúc tiến đầu tư, hoặc thiếu sự chuẩn bị một cách kỹ lưỡng danh

mục kêu gọi đầu tư.
- Thủ tục đầu tư còn phức tạp, bất cập gây khó khăn cho quá trình vận động
đầu tư, giới thiệu dự án và đàm phán cụ thể.
b. Biện pháp
- Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế,
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào việc thực
hiện phổ cập giáo dục, xóa mù chữ ở Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ cho các đối tượng được miễn,
giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập khi tham gia các chương trình phổ cập
giáo dục, xóa mù chữ theo quy định.
- Ban hành các cơ chế tạo sự bình đẳng giữa hệ thống giáo dục và đào tạo
công lập và ngoài công lập trong tham gia đào tạo nguồn nhân lực xã hội và
hưởng các hỗ trợ của ngân sách nhà nước.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước
đóng góp, viện trợ và hỗ trợ giáo dục, đào tạo dưới các hình thức khác nhau, như
trao học bổng, nhận sinh viên đến thực tập, hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, hiến,
tặng sách vở, tài liệu trực tiếp cho học sinh, sinh viên, hoặc cho cơ sở giáo dục,
đào tạo.
3.4. Bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử.
a. Nguyên nhân và hậu quả của bệnh thành tích:
*Nguyên nhân:
- Học sinh học kém nhưng vẫn mong có tiếng là" học giỏi" - Thầy cô muốn
có tiếng tăm là "thầy giỏi"
- Nhà trường, các phòng ban muốn có thành tích nhưng không có thực lực.
=> căn bệnh " thành tích" xuất hiên nhằm đáp ứng nhu cầu đó


12
Hậu quả của căn bệnh thành tích:
- Đây là hiện tượng xấu để lại hậu quả nghiêm trọng cho ngành Giáo dục:

+ Đối với học sinh: tạo tâm lí học sinh ỷ laị, không phát huy được năng lực học
tập, không có động lực học, không tiếp thu đựơc tri thức, ảnh hưởng đến chất
lượng dạy- học
+ Đối với giáo viên: đánh mất lương tâm nghề nghiệp; không có động lực
để dạy, không có sáng kiến đổi mới phương pháp dạy học.
+ Đối với ngành giáo dục: nền giáo dục trì trệ, chậm phát triển
*Giải pháp chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục:
- Tất cả cần nhận thức đây là việc cần thiết làm mang lại lợi ích cho ngành
giáo dục, tạo kỉ cương trong môi trường sư phạm. - Đối với học sinh: phát huy
năng lực học tập, bỏ đi tính ỷ lại, học sinh không còn tình “chọi nhau” trong các
kì thi tập trung
- Đối với giáo viên: sẽ không còn những việc làm không đúng với lương
tâm, cố gắng tìm tòi phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học, thực hiện
kiểm tra, đánh giá đúng năng lực của học sinh.
- Phê phán những hành vi tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục.
* Bài học: Rút ra bài học cho bản thân và kêu gọi mọi người nói không
với bệnh "thành tích". Tương lai do mình quyết định, hãy sống như thế nào để
không hổ thẹn với mình với những thành quả mình đạt được trong học tập. Bằng
cấp giả "Biến chứng" của bệnh thành tích.
3.5. Dạy thêm, học thêm.
a. Nguyên nhân
- Ngay như một tác giả viết Sách giáo khoa đã từng nói, Sách giáo khoa
chỉ đáp ứng sáu mươi phần trăm kiến thức.


13
- Có những giáo viên vì thành tích, vì nhu cầu cuộc sống đã "ăn bớt" kiến
thức ở trên lớp để về nhà dạy thêm. Thậm chí, nhiều trường học còn phát đơn về
cho phụ huynh ký nhận cho tự nguyện đi học thêm.

- Có một thực tế là, xã hội chúng ta luôn coi trọng thành tích, coi trọng
bằng cấp và tư tưởng không muốn thua kém người khác.
- Về phía các phụ huynh, với điều kiện kinh tế gia đình được nâng lên thì
ai cũng hướng tới một tương lai tốt đẹp, muốn đầu tư cho con cho dù tốn kém,
vất vả mức nào.
b. Biện pháp khắc phục.
- Sách giáo khoa cũng gần với yêu cầu về trình độ nói chung đặt ra trong
những kỳ thi quan trọng.
- Chất lượng giáo viên quyết định chất lượng giáo dục, "không có thầy
giỏi thì không có trò giỏi" vì thế, về mặt chuyên môn, cần thiết có những
chương trình bồi dưỡng cho các giáo viên, đặc biệt là các giáo viên giảng dạy
các môn khoa học tự nhiên.
- Các trường học cần có biện pháp động viên tinh thần, định hướng tư
tưởng cho các giáo viên trước những sức ép của kinh tế thị trường. Cần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về dạy thêm, học thêm theo hướng siết chặt hơn
về mặt quản lý Nhà nước. Đặc biệt, cần có những quy định về chế tài xử phạt
theo hướng răn đe về các vi phạm trong hoạt động này.
3.6. Trường Công, trường Tư.
Đại học công lập là trường đại học do nhà nước (trung ương hoặc địa
phương) đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ
yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi vụ
lợi, khác với đại học dân lập hoạt động bằng kinh phí đóng góp của học sinh,
khách hàng và các khoản hiến tặng. Đại học dân lập hay đại học tư thục là một
cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, về tuyển sinh, đào tạo


14
thì tuân theo quy chế của Bộ GD&ĐT, văn bằng có giá trị tương đương như văn
bằng công lập. Là trường tư do cá nhân hoặc tổ chức trong một nước xin phép
thành lập và tự đầu tư. Hiểu sâu xa hơn, sự khác nhau giữa hai khái niệm được

thể hiện ở các khía cạnh sau.
a. Cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất trường Đại học dân lập thường khang
trang và hiện đại hơn so với công lập. Một phần vì vốn do dân nên lãnh đạo
trường Dân lập hoàn toàn có quyền quyết định đối với việc thay mới, sửa chữa,
nâng cấp hoặc xây dựng bổ sung các tòa nhà mới phục vụ học tập. Vì các trường
Đại học công lập phụ thuộc vốn của nhà nước nên việc xin cấp vốn phải thông
qua nhiều bước và khá phức tạp. Đây là một sự khác nhau cơ bản giữa trường
đại học công lập và đại học dân lập.
b. Học phí: Không giống những trường đại học công lập, đại học dân lập
không nhận được sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước, nguồn tài chính để hoạt động
của họ là từ học phí của sinh viên học tại trường, khách hàng và các khoản hiến
tặng. Học phí tại các trường này có xu hướng lớn hơn nhiều so với trường đại
học công lập.
c. Chương trình học: Nhằm mục đích thu hút được nhiều sinh viên, có thể
tăng sức cạnh tranh với các trường Công lập, các trường Đại học dân lập ngoài
trang thiết bị hiện đại, còn nỗ lực để thay đổi chương trình học theo hướng thực
tế hơn. Nhiều trường dân lập còn tạo hệ đào tạo liên kết với các trường đại học,
cao đẳng nước ngoài, để giúp sinh viên có được tấm bằng quốc tế ngay khi ra
trường. Không những thế các bạn còn được tiếp xúc với môi trường học quốc tế
ngay những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Vì thế các bạn sẽ có cái nhìn cởi
mở hơn đối với các vấn đề được học.
d. Cơ hội việc làm: Một điểm khác nhau nữa giữa trường Đại học công
lập và dân lập chính là cơ hội việc làm. Trong trường hợp các ứng viên không có
sự khác biệt nhiều trong quá trình phỏng vấn, thông thường các doanh nghiệp
trong nước sẽ ưu tiên các ứng viên đến từ các trường công lập Top đầu. Tuy


15
nhiên các công ty nước ngoài thì lại không quan trọng vấn đề trường đại học
công lập hay Đại học dân lập, mà quan trọng vẫn là thực lực của ứng cử viên. Vì

vậy các bạn đã và đang học trường dân lập không nên quá lo lắng về vấn đề này.
e. Tiêu chuẩn nhập học: Trường công lập thi tuyển rất gắt gao thông qua kỳ thi
quốc gia. Trường dân lập thì có thể thông qua xét tuyển học bạ, và điểm thi
THPT để tiếp nhận thí sinh đầu vào. Đây cũng là điểm khác nhau cơ bản giữa
trường công và trường tư. Nhiều phụ huynh cũng như nhiều bạn sinh viên đều
nhất trí cho rằng, các trường dân lập chủ yếu có nguồn sinh viên chất lượng kém
hơn, lười học và ham chơi hơn, khả năng tư duy không nhanh nhạy so với các
bạn trường công lập. Tuy nhiên, trên thực tế, có rất nhiều bạn sinh viên học các
trường đại học dân lập lại thành đạt hơn so với các bạn trường đại học công lập.
Đa phần nguyên nhân vì các bạn ấy không chỉ biết có việc học, mà còn biết rất
nhiều kiến thức thực tế, do trải nghiệm sống, do đi làm thêm từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường. Điều mà nhiều bạn sinh viên công lập chỉ biết chăm chăm đèn
sách không thể có được. Đội ngũ giáo viên không hẳn giáo viên ở các trường
công là kiến thức chuyên môn và phương pháp sư phạm vững chắc. Nhiều người
trong số các giáo viên ở các trường tư nhân không chỉ giỏi về chuyên môn mà
còn có sự nhiệt tình và yêu nghề cho học sinh. 3.6.1. Nguyên nhân của hai mô
hình đào tạo này. Hiện nay, quy mô giáo dục phổ thông tăng nhanh đang tạo sức
ép lớn đối với giáo dục ĐH. Mùa tuyển sinh năm nay, có khoảng 1 triệu thí sinh
dự thi ĐH, CĐ trong khi chỉ tiêu tuyển sinh chỉ gần 200.000. Do vậy, việc mở
rộng các loại hình đào tạo ngoài công lập nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của
người dân là vấn đề bức thiết. 3.6.2. Một số hạn chế - Chất lượng đào tạo ĐH
ngoài công lập đang thấp hơn nhiều so với các trường công lập. (Một trong
những nguyên nhân chính là nhà nước chưa có một quy chế hợp lý. Theo các
chuyên gia giáo dục, học phí của các trường ngoài công lập hiện cao hơn các
trường công lập. Nhưng nếu so với khoản kinh phí nhà nước cấp cho các trường
công lập trong đó có đất đai, cơ sở vật chất thì kinh phí hoạt động của các
trường dân lập lại quá nhỏ nhoi. Sinh viên các trường ngoài công lập thường tự


16

ti vì điều kiện trường lớp, phương tiện nghiên cứu quá tồi.) Còn sự mặc cảm
giữa trường công và trường tư. (Biện pháp là các trường phải khẳng định thương
hiệu và chất lượng giảng dạy của trường.)
3.7. Một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý trong thời kì mới
a. Nguyên nhân
- Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học công nghệ, tuy nhiên nhiều thầy cô
giáo chưa sử dụng được internet, ngoại ngữ.
- Lối dạy cổ điển của các giáo viên, phương pháp quản lí ỷ lại bao cấp
của các cán bộ quản lí.
- Nhiều giáo viên khó bỏ thói quen giảng giải cho học sinh nghe (đã là
thói quen thì rất khó bỏ, nó là “tiện dụng” thì càng khó bỏ)
b. Biện pháp khắc phục.
- Thứ nhất là về đức độ, người giáo viên cần có phẩm chất tốt, dũng cảm
đấu tranh chống tiêu cực, gian lận trong thi cử,bệnh thành tích, có lòng nhân ái,
tận tâm yêu nghề và thân thiện với học sinh.
- Thứ hai là, mỗi giáo viên phải tự trang bị cho mình kiến thức vững vàng,
không ngừng nâng cao trình độ học vấn để học trò “ trọng” thầy và tấm lòng đức
độ khoan dung để học trò “ kính” thầy.
- Thứ ba là, mỗi giáo viên cần phải trao dồi và nâng cao khả năng sư
phạm, rèn luyện và không ngừng tích lũy kinh nghiệm, kết hợp bài giảng với
thực tiễn cuộc sống để làm phong phú cho tiết học, tạo niền hứng khởi, kích
thích sự sáng tạo cho học sinh.
KẾT LUẬN
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia
khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.


17
Với Việt Nam chúng ta, giáo dục có một vai trò rất quan trọng đối với vận

mệnh của đất nước, chính vì vậy các nhà lãnh đạo cần điều chỉnh thiết chế giáo
dục đặt con người vào trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và
động lực của phát triển kinh tế - xã hội tạo cơ sở để thực hiện quan điểm phát
triển nội sinh, tức là phát triển kinh tế - xã hội do con người và vì con người, kết
hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội và quay lại phục vụ
văn hóa phát triển, lấy văn hóa dân tộc làm bệ phóng cho công nghệ tiên tiến,
lấy nguồn lực con người là điều kiện cơ bản đi vào công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, để từ đó nền giáo dục Việt Nam hoạt động mới có hiệu quả./.

Tài liệu tham khảo
1. Nội dung bài giảng của PGS. TS Hoàng Thanh Xuân
2. />

18
3. />7. />hkhna/hkhvbpq
9. />10. />11. />12. />78026480

13. />
tap-va-lam-viec-hieu-qua-

1251913221.htm

13. 15. 26.Tạ Minh (2007). Xã hội học đại
cương. Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM
17. />18. />


×