Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

HỢP ĐỒNG bảo HIỂM NHÂN THỌ NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.68 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN VŨ HẢI

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Ngọc Cường

HÀ NỘI - 2005


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Bùi Ngọc
Cường, người thầy hướng dẫn khoa học rất tận tình để tác giả hoàn thành bản
luận văn này. Tác giả cũng xin được cảm ơn các thầy cô giáo, đồng nghiệp và
gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài


DANH MỤC THUẬT NGỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

HĐBHNT


Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

LKDBH

Luật kinh doanh bảo hiểm


MC LC

Phần mở đầu

1

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

4

1.2. Điều khoản mẫu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

18

1.3. Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở một số quốc gia trên thế giới

26


Chương 2: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ ở Việt Nam
2.1. Thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở Việt
Nam

31

2.2. Một số nhận xét về các điều khoản mẫu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

49

hiện đang được áp dụng ở Việt Nam
Chương 3: Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở Việt
Nam và phương hướng hoàn thiện
3.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hiện hành

55

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ ở Việt Nam và cơ chế đảm bảo thực hiện.

63

Kết luận

74

Danh mục tài liệu tham khảo

76



1

PHN M U
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
giữ một vai trò quan trọng. Bảo hiểm nhân thọ mang lại nhiều lợi ích cho con người và
nền kinh tế vì bên cạnh yếu tố bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ còn có tính tiết kiệm, giúp
bên mua bảo hiểm có thể thực hiện được mục đích của mình khi được doanh nghiệp
bảo hiểm trả số tiền bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay được hình thành từ năm
1996, khi Bộ Tài chính cho phép triển khai thí điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ theo Quyết định 281/BTC-TCNH ngày 20/3/1996. Tuy nhiên, sau gần mười
năm hoạt động, thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển vượt bậc với rất nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm tham gia, trong đó có những doanh nghiệp bảo hiểm của các tập đoàn
bảo hiểm lớn trên thế giới.
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm là bên mua bảo hiểm là mối quan hệ
hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được các bên thoả thuận, vừa là một công cụ thực
hiện pháp luật, vừa là một sản phẩm của thị trường bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh rất nhiều
mặt tích cực, trong thời gian qua, rất nhiều các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã
xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm
nhân thọ nói riêng, làm giảm niềm tin của người dân đối với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ.
Từ cơ sở pháp lý đầu tiên là Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 đến Luật kinh
doanh bảo hiểm được Quốc hội ban hành ngày 09/12/2000, pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ đã có sự phát triển nhất định. Tuy nhiên, do mới được ban hành để điều
chỉnh những quan hệ rất mới, nên pháp luật không thể tránh khỏi thiếu sót, bất cập,
dẫn đến những vướng mắc pháp sinh trong quá trình áp dụng. Chính vì vậy, việc xem
xét thấu đáo dưới cả hai giác độ lý luận và thực tiễn để có một nhận thức toàn diện về hợp

đồng bảo hiểm nhân thọ là rất cần thiết. Thông qua việc nghiên cứu, có thể xác định được
nguyên nhân của những mặt còn hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật nhằm tìm ra
các biện pháp tháo gỡ, giải quyết có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp bách để xây dựng
một thị trường bảo hiểm nhân thọ lành mạnh và phát triển ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã có lịch sử hàng trăm năm phát triển, nên
những quy định pháp luật và công trình nghiên cứu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng


2

rất phong phú. Tuy nhiên ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ dưới giác độ khoa học pháp lý không nhiều.
chương trình đào tạo bậc đại học chuyên ngành luật, những vấn đề cơ bản về
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được đề cập đến trong chương trình giảng dạy chuyên
ngành pháp luật kinh tế. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, cũng có một số khoá
luận tốt nghiệp đại học nghiên cứu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhưng nội dung chỉ
đề cập đến một vài khía cạnh hoặc còn đơn giản về mặt khoa học pháp lý.
chương trình đào tạo sau đại học chuyên ngành luật, ngoài một số đề tài
nghiên cứu về kinh doanh bảo hiểm nói chung từ trước khi có LKDBH, những luận
văn nghiên cứu chuyên biệt về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất ít. Đáng chú ý nhất chỉ
có luận văn của tác giả Nguyễn Hương Thu với đề tài "Pháp luật và các điều khoản
mẫu áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ" (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
nội, năm 2003).
Trên thực tế, công trình nghiên cứu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dưới hình
thức sách tham khảo và chuyên khảo hầu như không có, ngoại trừ cuốn "Một số điều
cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm" của tác giả GS.TS.Trương Mộc Lâm và
Lưu Nguyên Khánh do nhà xuất bản Thống kê ấn hành năm 2001. Ngoài ra trên các báo
và tạp chí, nhìn chung các bài viết chỉ đề cập về những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cụ
thể dưới giác độ thông tin. Tuy nhiên, trên các tạp chí chuyên ngành, có một số bài viết

đáng chú ý đề cập đến một vài khía cạnh của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như bài "Cần
hoàn thiện quy định pháp lý về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm" của tác giả Hiền Pha và
bài "Những yêu cầu pháp lý trong giao kết hợp đồng bảo hiểm" của tác giả Đinh Minh
Tuấn, đăng trên Tạp chí bảo hiểm số tháng 6/2003 và số tháng 10/2004.
Từ những khảo cứu trên, có thể khẳng định rằng, mặc dù đã có một số công
trình nghiên cứu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhưng trong khoa học pháp lý nước ta
hiện nay hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện dưới giác độ lý luận và
thực tiễn về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trên phương diện pháp lý. Phạm vi nghiên cứu của luận
văn được xác định theo các giới hạn sau đây:
- Thứ nhất, đối với vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, luận văn chỉ
nghiên cứu những đặc trưng cơ bản nhất của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ từ đó làm rõ
bản chất của loại hợp đồng này.
- Thứ hai, về nội dung pháp luật hiện hành về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, các


3

quy phạm pháp luật chủ yếu được xem xét là những quy phạm được quy định trong
Luật kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật dân sự.
- Thứ ba, về thực tiễn áp dụng pháp luật trong ký kết và thực hiện hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ, các nội dung khảo cứu là một số vấn đề thật sự phát sinh từ thực tiễn
trong thời gian vừa qua, từ khi bảo hiểm nhân thọ đựoc chính thức triển khai từ năm
1996 đến hết năm 2004.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ bản chất pháp lý của H hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ, từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và cơ chế đảm bảo thực hiện.

Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Phân tích và nêu bật được các đặc điểm cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ về mặt lý luận.
- Khảo sát và phát hiện những vấn đề thực tiễn nổi bật đã nảy sinh trong quá
trình áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trên thực tế, từ đó rút ra được
những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Phân tích về thực trạng pháp luật hiện hành, làm rõ những quy định còn bất
cập hoặc còn thiếu để đề nghị phương hướng hoàn thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên cứu, ngoài
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin làm cơ sở, luận văn còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích và phương pháp quy nạp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp thống kê.
6. Cơ cấu của luận văn
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn được kết cấu thành 3 chương với
nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Chương 2: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Chương 3: Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam và phương
hướng hoàn thiện.


4

CHNG I
NHNG VN Lí LUN C BN V HP NG BO HIM
NHN TH

1.1. Nhng vn lý lun c bn v hp ng bo him nhõn th
1.1.1. Khái niệm và phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người bảo hiểm
sống hoặc chết trong một thời gian nhất định theo thoả thuận giữa bên bảo hiểm và bên
mua bảo hiểm. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ được hiểu tương đối thống nhất trong các
tài liệu khoa học và trong hệ thống pháp luật ở các quốc gia trên thế giới.
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm xuất hiện muộn hơn so với loại hình bảo
hiểm phi nhân thọ, đồng thời gắn với sự ra đời và phát triển của ngành khoa học xác
suất và thống kê. Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được thành lập vào năm
1762 tại London nước Anh đánh dấu sự ra đời chính thức của bảo hiểm nhân thọ. Cho
đến ngày nay, sau hai thế kỷ rưỡi phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã trở nên rất quen
thuộc với người dân nhiều nước trên thế giới. ở các quốc gia phát triển, thị trường bảo
hiểm nhân thọ cũng phát triển khá sôi động với một hệ thống pháp luật tương đối hoàn
thiện.
ở nước ta, bảo hiểm nhân thọ cũng đã từng xuất hiện trong thời kỳ Pháp thuộc và ở
miền Nam trước năm 1975 [2, tr.199]. Tuy nhiên, sau ngày thống nhất đất nước, thị
trường bảo hiểm nhân thọ chính thức được tái lập cách đây không lâu. Về mặt pháp lý,
bảo hiểm nhân thọ bắt đầu được quy định tại Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của
Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, nhưng trên thực tế, hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ chỉ thực sự được triển khai khi Quyết định 281/BTC-TCNH của Bộ trưởng Bộ
Tài chính ngày 20/3/1996 cho phép Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam là doanh nghiệp
được thí điểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm 5 năm và 10
năm và bảo hiểm trẻ em.
Nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ được thực hiện thông qua cơ chế hợp
đồng giữa DNBH và khách hàng. Về lý thuyết, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một loại
hợp đồng bảo hiểm. Do vậy, để làm rõ khái niệm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, thiết nghĩ
nên bắt đầu từ khái niệm hợp đồng bảo hiểm.
Trong pháp luật thực định Việt Nam, Điều 12 khoản 1 Luật kinh doanh bảo hiểm

(LKDBH) quy định: "Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và


5

DNBH, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, DNBH phải trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm".
Trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định các quốc gia, hợp
đồng bảo hiểm cũng được định nghĩa tương tự.[6] Ví dụ, điều 1 Luật hợp đồng bảo hiểm
năm 1981 của Israel quy định: "Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng giữa người bảo hiểm

và cá nhân người được bảo hiểm, theo đó người bảo hiểm có nghĩa vụ, tương ứng với việc
nhận phí bảo hiểm, là trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
đối với người được bảo hiểm" [27].
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) cũng là một loại hợp đồng bảo hiểm nên
hoàn toàn phù hợp với khái niệm trên. HĐBHNT cũng mang các đặc điểm chung của hợp
đồng bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm con người.
Tuy nhiên, HĐBHNT có các đặc trưng riêng biệt sau đây:

Thứ nhất, HĐBHNT có đối tượng là tuổi thọ của con người. Trong các hợp đồng
bảo hiểm phi nhân thọ, đối tượng của hợp đồng rộng hơn bao gồm tài sản, trách nhiệm
dân sự hoặc sức khoẻ, tính mạng của con người. Chính vì vậy, trong HĐBHNT, nghĩa vụ
khai báo đúng tuổi của người được bảo hiểm là rất quan trọng. Căn cứ vào độ tuổi của
người được bảo hiểm, DNBH sẽ xác định xem người đó có thuộc nhóm tuổi tham gia bảo
hiểm hay không cũng như tính toán mức phí bảo hiểm. Về lý thuyết, mức độ rủi ro sẽ
khác nhau nếu người được bảo hiểm có độ tuổi khác nhau. Ngoài ra, tuổi thọ của con
người còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như sức khoẻ, bệnh tật, nếp sinh hoạt, gien di
truyền..., do vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên, HĐBHNT thường rất
phức tạp, mà nguyên nhân chủ yếu là do tính phức tạp của đối tượng bảo hiểm tạo ra.


Thứ hai, trong HĐBHNT, sự kiện bảo hiểm không hoàn toàn gắn liền với rủi ro
được bảo hiểm. Trong các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ, trách nhiệm bồi thường hoặc
trả tiền bảo hiểm của DNBH chỉ phát sinh khi đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại. Trong khi
đó, trong HĐBHNT (trừ nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ thuần tuý), ngoài trường hợp khi người
được bảo hiểm gặp rủi ro được bảo hiểm, trách nhiệm trả tiền của DNBH còn phát sinh
khi người được bảo hiểm sống hết thời gian thoả thuận trong HĐBHNT.

Thứ ba, HĐBHNT thường có quy định kèm thêm các sản phẩm bổ trợ là sản phẩm
bảo hiểm phi nhân thọ. Thực tế lịch sử phát triển của bảo hiểm nhân thọ cho thấy, các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ đơn thuần thường ít hấp dẫn được nhiều khách hàng, ngay cả đối
với HĐBHNT hỗn hợp (loại sản phẩm bảo hiểm chủ yếu trên thị trường) do tỷ suất sinh
lời thường thấp hơn lãi suất tiết kiệm ngân hàng tương ứng, trong khi mức độ bảo hiểm
chủ yếu phụ thuộc vào năng lực tài chính của bên mua bảo hiểm. Chính vì vậy mà DNBH


6

thường cung cấp các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ nhằm gia tăng yếu tố bảo hiểm như
nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ và nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn con người.

Thứ tư, HĐBHNT là loại hợp đồng dài hạn. Thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm
phi nhân thọ có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tuỳ theo sự thoả thuận của các
bên và tuỳ thuộc đối tượng hợp đồng. Trên thực tế, thời hạn ngắn nhất của HĐBHNT là 5
năm. Tính dài hạn của HĐBHNT nhằm đảm bảo quyền lợi cho DNBH trong hoạt động
đầu tư đồng thời đáp ứng được mục đích tiết kiệm của bên mua bảo hiểm. Mặt khác, thời
hạn hợp đồng dài sẽ giúp bên mua bảo hiểm có khả năng nộp phí bảo hiểm.

Thứ năm, HĐBHNT có tính tiết kiệm đối với bên mua bảo hiểm. Tính tiết kiệm của
HĐBHNT thể hiện ở chỗ, việc tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng giống như việc gửi tiết

kiệm, bên mua bảo hiểm dùng từng khoản tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm, khi sự kiện bảo
hiểm xảy ra, người thụ hưởng có thể có được khoản tiền lớn hơn [3]. Tính tiết kiệm của
HĐBHNT còn được đánh giá cao không những do gắn liền với yếu tố bảo hiểm, mà còn ở
chỗ, đây là "tiết kiệm bắt buộc". Việc nộp phí bảo hiểm là bắt buộc theo thoả thuận, đồng
thời không thể tuỳ tiện lấy lại các khoản phí đã nộp (khác với việc gửi tiền tại ngân hàng),
chính vì vậy tiết kiệm cho bên mua bảo hiểm những khoản chi tiêu không thật sự cần thiết.
Chính vì HĐBHNT có tính dài hạn và tính tiết kiệm, nên để đảm bảo quyền lợi cho
các bên, HĐBHNT có nhiều điều khoản đặc trưng như việc cho vay của DNBH, các quyền
lợi của bên mua bảo hiểm để duy trì hợp đồng, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm...

Thứ sáu, nội dung của HĐBHNT bao gồm các điều khoản mẫu. Đây là những điều
khoản được DNBH soạn thảo sẵn, bên mua bảo hiểm nếu chấp nhận giao kết hợp đồng thì
phải chấp nhận toàn bộ nội dung điều khoản mẫu. Đặc điểm này của HĐBHNT sẽ được
phân tích kỹ hơn ở phần 1.2 chương này.
Từ những đặc trưng riêng có có HĐBHNT, cùng với bản chất của một loại hợp
đồng bảo hiểm, có thể đưa ra khái niệm về HĐBHNT như sau: Hợp đồng bảo hiểm nhân

thọ là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm về việc doanh
nghiệp bảo hiểm cam kết bảo hiểm cho tuổi thọ của người được bảo hiểm, với điều kiện
bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm
cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưở nếu người được bảo hiểm sống hoặc chết
trong thời gian thoả thuận.
1.1.1.2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Phân loại HĐBHNT có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định cơ chế điều chỉnh pháp
luật đối với HĐBHNT. HĐBHNT được phân loại theo nhiều cách khác nhau và mỗi cách
phân loại có những ý nghĩa nhất định trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên


7


trong HĐBHNT.
HĐBHNT có thể được phân loại theo tính chất của sự kiện bảo hiểm. Theo tiêu chí
này, HĐBHNT bao gồm: bảo hiểm tử kỳ, hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ và hợp đồng bảo
hiểm hỗn hợp.

Hợp đồng bảo hiểm tử kỳ là loại HĐBHNT mà theo đó, nếu người được bảo
hiểm chết trong thời hạn thoả thuận, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng.

Hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ là loại HĐBHNT mà theo đó, nếu người được bảo
hiểm sống đến hết thời hạn thoả thuận, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng.

Hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp là HĐBHNT kết hợp cả bảo hiểm sinh kỳ và bảo
hiểm tử kỳ. Đây là loại sản phẩm chủ yếu trên thị trường bảo hiểm nhân thọ hiện nay vì
nó kết hợp được nhiều lợi ích dành cho bên mua bảo hiểm.
HĐBHNT có thể được phân loại theo thời hạn hợp đồng, theo đó, HĐBHNT
có hai loại là HĐBHNT có thời hạn và HĐBHNT không xác định thời hạn.

HĐBHNT có thời hạn là loại HĐBHNT mà các bên thoả thuận trước thời hạn của
hợp đồng. Trong thời hạn đó hoặc khi kết thúc thời hạn, DNBH phải có nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm.

HĐBHNT không xác định thời hạn là loại HĐBHNT mà trách nhiệm bảo hiểm
của DNBH chỉ kết thúc khi người bảo hiểm chết hoặc người thụ hưởng đã nhận hết quyền
lợi bảo hiểm. Các nghiệp vụ bảo hiểm áp dụng hợp đồng dạng này là bảo hiểm trọn đời và
bảo hiểm trả tiền định kỳ.

Hợp đồng bảo hiểm trọn đời là HĐBHNT mà DNBH có trách nhiệm trả tiền cho
người thụ hưởng nếu người được bảo hiểm chết vào bất cứ thời điểm nào.


Hợp đồng bảo hiểm trả tiền định kỳ (niên kim nhân thọ) là loại HĐBHNT mà
DNBH có trách nhiệm trả tiền định kỳ cho người thụ hưởng nếu người được bảo
hiểm sống hết thời gian đã thoả thuận. Việc trả tiền định kỳ này chỉ kết thúc khi
người được bảo hiểm chết hoặc người thụ hưởng đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm.
Đây là nghiệp vụ bảo hiểm có một số nội dung tương tự như chế độ hưu trí trong bảo
hiểm xã hội.
1.1.2. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Chủ thể của HĐBHNT bao gồm hai bên là bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm.
Ngoài ra, trong HĐBHNT có thể có các chủ thể liên quan như người được bảo hiểm và
người thụ hưởng.


8

1.1.2.1. Bên bảo hiểm
Bên bảo hiểm là DNBH kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Theo pháp
luật Việt Nam, DNBH kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không được đồng thời kinh doanh
các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, ngoài trừ các sản phẩm bổ trợ cho hoạt động kinh
doanh chính. Quy định này nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm.
DNBH khi ký kết HĐBHNT phải thoả mãn các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, DNBH phải được thành lập và hoạt động hợp pháp ở Việt Nam. Điều
kiện này xác định tư cách chủ thể của DNBH. Doanh nghiệp phải được Bộ Tài chính cấp
giấy phép thành lập, hoạt động và giấy phép đó hiện còn có hiệu lực tại thời điểm giao
kết hợp đồng.

Thứ hai, người đại diện của DNBH phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có
thẩm quyền đại diện cho DNBH. Người đại diện ở đây gồm người đại diện giao dịch và

người đại diện ký kết. Người đại diện giao dịch là người cùng với bên mua bảo hiểm hoàn
tất các thủ tục để ký kết hợp đồng. Chủ thể này có thể là nhân viên của DNBH hoặc đại lý
bảo hiểm. Về nguyên tắc, người đại diện giao dịch phải được đào tạo về chuyên môn và có
sự uỷ quyền từ doanh nghiệp bảo hiểm. Người đại diện ký kết là người có thẩm quyền ký
vào văn bản hợp đồng để xác nhận tính ràng buộc của hợp đồng đối với DNBH. Chính vì
vậy người đại diện ký kết thường là người đại diện đương nhiên của DNBH (giám đốc hoặc
tổng giám đốc) hoặc người được sự uỷ quyền của người đại diện đương nhiên.

1.1.2.2. Bên mua bảo hiểm
Bên mua bảo hiểm (hay bên tham gia bảo hiểm) là chủ thể đứng tên trong
HĐBHNT và là người có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm thường là cá
nhân nhưng cũng không ngoại lệ bên mua bảo hiểm là tổ chức, miễn là thoả mãn các
điều kiện đối với bên mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này
bao gồm:

Thứ nhất, bên mua bảo hiểm phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Điều kiện này đảm bảo cho bên mua bảo hiểm là người thực sự có thể kiểm soát
được hành vi giao kết và thực hiện hợp đồng. Được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ khi bên mua bảo hiểm đủ 18 tuổi, không mắc các bệnh làm mất hoặc hạn chế khả
năng nhận thức. Tuy nhiên, pháp luật một số quốc gia cho phép người chưa thành niên ở
độ tuổi nhất định được mua bảo hiểm nhưng phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người
giám hộ hợp pháp, nếu như người này chứng minh được mình có khả năng tài chính để
thực hiện việc này.[6]


9

Thứ hai, bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm (hay bên mua
bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm).
Điều kiện bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm là đặc biệt quan

trọng đối với hợp đồng bảo hiểm nói chung và HĐBHNT nói riêng. Mục đích của bảo
hiểm chỉ đạt được nếu bên mua bảo hiểm có lợi ích bảo hiểm, tránh tình trạng trục lợi bảo
hiểm. Điều kiện này trở thành một nguyên tắc trong hoạt động bảo hiểm trên thế giới
cũng như ở Việt Nam.
Nguyên tắc bên mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm được hình thành từ thế kỷ
18 ở nước Anh. Thời kỳ đó, một người thứ ba có thể mua bảo hiểm cho một người khác
mà giữa họ không có mối quan hệ gì. Nếu người này gặp rủi ro, thì bên mua bảo hiểm sẽ
được bồi thường. Đây có thể coi như một cách đánh bạc và đồng thời có thể xảy ra nhiều
tội phạm nhằm trục lợi bảo hiểm. Chính vì vậy, vào năm 1774, nghị viện Anh đã ban
hành đạo luật về tác hại của đánh bạc trong đó quy định, hợp đồng bảo hiểm sẽ vô hiệu
nếu bên mua bảo hiểm không có lợi ích bảo hiểm, vì hành vi này coi như là đánh bạc.[25,
tr.129]
Quyền lợi có thể được bảo hiểm được hiểu là những lợi ích của bên mua bảo hiểm
về vật chất hoặc tinh thần đối với đối tượng được bảo hiểm. Nếu đối tượng bảo hiểm bị
thiệt hại, thì đó được coi là tổn thất thật sự của bên mua bảo hiểm. Quyền lợi có thể được
bảo hiểm phải thoả mãn các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, quyền lợi có thể được bảo hiểm phải thực sự tồn tại tại thời điểm giao kết
hợp đồng. Những quyền lợi đã chấm dứt không được coi là quyền lợi có thể được bảo
hiểm vì khi đó, bên mua bảo hiểm không thể có thiệt hại gì. Ví dụ: chồng cũ không thể
mua bảo hiểm nhân thọ cho vợ đã ly hôn. Những quyền lợi chưa phát sinh cũng không thể
là quyền lợi có thể được bảo hiểm do nó chưa chắc chắn xảy ra trong tương lai.
Thứ hai, quyền lợi có thể được bảo hiểm phải hợp pháp. Quyền lợi không hợp pháp
được hiểu là những lợi ích hình thành từ những quan hệ hoặc hành vi không được pháp
luật thừa nhận. Những quyền lợi không hợp pháp không thể được bảo hiểm do vi phạm
pháp luật và nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội.[3, tr.96]
Trong hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ, quyền lợi có thể được bảo hiểm được hiểu
là lợi ích kinh tế của bên mua bảo hiểm. Còn trong HĐBHNT, quyền lợi có thể được bảo
hiểm được hiểu là lợi ích kinh tế hoặc lợi ích tinh thần của bên mua bảo hiểm. Chính vì
vậy, mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm có tính chất quyết định
đến việc xác định xem bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm hay không.

Nếu giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm là quan hệ thân thuộc gần
gũi, thì mặc nhiên được pháp luật thừa nhận là có lợi ích bảo hiểm. Nếu không, chỉ được


10

coi là có lợi ích bảo hiểm nếu như bên mua bảo hiểm phải chịu tổn thất tài chính thật sự
nếu rủi ro xảy ra.
Pháp luật Việt Nam chỉ rõ những người mà bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể
được bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 31 LKDBH, bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua
bảo hiểm cho những người sau đây:
- Bản thân bên mua bảo hiểm
- Vợ, chồng, con, cha, mẹ hợp pháp của bên mua bảo hiểm
- Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng;
- Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Trường hợp "người khác, nếu bên mua bảo hiểm có thể có quyền lợi được bảo
hiểm" được hiểu là những người mà bên mua bảo hiểm có tổn thất thật sự khi rủi ro xảy
ra. Ví dụ như: cháu trực hệ của bên mua bảo hiểm; người được giám hộ mà bên mua bảo
hiểm là người giám hộ; người lao động khi bên mua bảo hiểm là người sử dụng lao động;
người đi vay khi bên mua bảo hiểm là người cho vay... Pháp luật một số quốc gia còn quy
định, bên mua bảo hiểm cũng có quyền lợi có thể được bảo hiểm nếu là cha, mẹ đỡ đầu
hoặc cuộc sống người được bảo hiểm phụ thuộc một phần hoặc hoàn toàn vào bên mua
bảo hiểm.[6]

Bên mua bảo hiểm phải được sự chấp thuận của người được bảo hiểm trong trường
hợp bảo hiểm chết.
Đối với bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm hỗn hợp, nếu người được bảo hiểm không
đồng thời là bên mua bảo hiểm thì HĐBHNT chỉ được giao kết nếu có sự đồng ý của
người được bảo hiểm. Điều kiện này được đặt ra nhằm loại bỏ tình trạng người thụ hưởng
muốn trục lợi bất chính, có thể gây ra các rủi ro đạo đức. Bên cạnh đó, quyền sống của

con người là quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm mà không có sự đồng ý của
họ, trừ trường hợp họ gánh chịu sự trừng phạt của pháp luật. Chính vì vậy, tại khoản 1
điều 38 LKDBH quy định: "Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con

người cho trường hợp chết của người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản,
trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng".
Vì sự chấp thuận của người được bảo hiểm là sự thể hiện ý chí của người đó, do vậy
pháp luật thường cấm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người trong trường hợp chết mà
người được bảo hiểm là những người không có năng lực hành vi dân sự. Còn đối với những
người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý của cha
mẹ hoặc là người giám hộ hợp pháp. Sự đồng ý này cũng có nội dung tương tự như của
người được bảo hiểm và phải được thể hiện bằng văn bản.


11

Điều kiện bên mua bảo hiểm phải có sự chấp thuận của người được bảo hiểm
trong trường hợp bảo hiểm chết được quy định phổ biến trong pháp luật các nước. Ví
dụ, tại điều 412 Luật thương mại Bungaria quy định: "HĐBHNT hoặc bảo hiểm tai

nạn đối với bên thứ ba chỉ có hiệu lực khi có sự đồng ý rõ ràng của bên thứ ba bằng
văn bản (viết tay). Điều kiện này không áp dụng đối với vợ chồng, hoặc những người
họ hàng trực hệ. Bên thứ ba có thể phản đối bất kỳ lúc nào bằng văn bản (viết tay) với
DNBH, và DNBH phải chấm dứt hợp đồng"[28]. Tương tự, tại Điều 42 Luật hợp đồng
bảo hiểm Israel năm 1981 cũng quy định: "Trong trường hợp bảo hiểm cho tử vong
của người thứ ba không phải bên mua bảo hiểm, hợp đồng phải có sự chấp thuận
bằng văn bản của người đó, hoặc của người giám hộ hợp pháp nếu người đó là trẻ
em hoặc là người thiếu năng lực hành vi". [27]
1.1.2.3. Những chủ thể liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Những chủ thể liên quan đến HĐBHNT là người được bảo hiểm và người thụ

hưởng. Những chủ thể này có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ HĐBHNT giữa
bên mua bảo hiểm và DNBH. Những chủ thể này được coi là chủ thể liên quan của hợp
đồng vì: thứ nhất, những chủ thể này không phải là những chủ thể ký kết hợp đồng, tức
là những chủ thể có hành vi làm phát sinh quan hệ hợp đồng; thứ hai, những chủ thể này
được chỉ định cụ thể và có những quyền và nghĩa vụ nhất định, nhưng những quyền và
nghĩa vụ ấy phát sinh từ những thoả thuận của các bên ký kết hợp đồng.

Người được bảo hiểm là cá nhân có tuổi thọ là đối tượng bảo hiểm. Người được
bảo hiểm có thể đồng thời là bên mua bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm không phải là
bên mua bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với
người được bảo hiểm.
Trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, độ tuổi của người được bảo hiểm là
một yếu tố quan trọng để DNBH chấp nhận bảo hiểm. Độ rủi ro sẽ khác nhau tuỳ theo độ
tuổi của người được bảo hiểm. Thông thường, DNBH không chấp nhận bảo hiểm cho
người được bảo hiểm có một độ tuổi quá giới hạn nào đó. Bên cạnh đó, một số sản phẩm
bảo hiểm cũng chỉ áp dụng cho những độ tuổi nhất định. Ví dụ như bảo hiểm giáo dục chỉ
áp dụng cho người dưới 18 tuổi và thời gian tối thiểu tham gia bảo hiểm là 5 năm.

Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền
bảo hiểm. Khái niệm người thụ hưởng chỉ có trong bảo hiểm con người vì trong nhiều
trường hợp, đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro đồng nghĩa với người được bảo hiểm chết nên
người được bảo hiểm không thể nhận tiền bảo hiểm. Người thụ hưởng có thể đồng thời là
người được bảo hiểm hoặc không phải là người được bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể
chỉ định nhiều người thụ hưởng theo một trật tự ưu tiên hoặc không theo một trật tự ưu tiên


12

nào. Khác với người được bảo hiểm, HĐBHNT không nhất thiết phải chỉ định rõ người thụ
hưởng. Nếu trong hợp đồng không thoả thuận về người thụ hưởng, thì số tiền bảo hiểm

được trả là tài sản của người được bảo hiểm.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm có thể thay đổi người thụ
hưởng mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của người này. Việc thay đổi người thụ
hưởng thường phải có sự đồng ý của người được bảo hiểm vì người thụ hưởng thường có
mối quan hệ gắn bó với người được bảo hiểm, đồng thời đối tượng bảo hiểm thuộc về
người được bảo hiểm nên họ phải có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận thay đổi
người thụ hưởng.
Tuy nhiên, những chủ thể được chỉ định là người được bảo hiểm hoặc người thụ
hưởng có quyền từ chối tư cách này nếu họ không muốn. Có thể nói, đó là những
quyền năng dân sự không thể phủ nhận. Nếu người được bảo hiểm từ chối sau khi hợp
đồng đã ký, thì HĐBHNT mất đi đối tượng hợp đồng, do vậy nó sẽ chấm dứt. Tuy
nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho DNBH, đối với người được bảo hiểm, quyền từ chối
chỉ nên được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận hoặc
pháp luật có quy định và phải thể hiện dưới hình thức văn bản gửi trực tiếp cho DNBH.
Trong trường hợp những người này đã đồng ý, họ sẽ phải tuân thủ những nghĩa
vụ nhất định để hợp đồng được đảm bảo thực hiện. Ví dụ: đối với người được bảo hiểm
là nghĩa vụ chấp nhận xét nghiệm y khoa, nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực về
bản thân theo yêu cầu của DNBH, khi mắc bệnh phải có nghĩa vụ chấp hành chỉ dẫn
của bác sỹ trong điều trị... Đối với người thụ hưởng phải có nghĩa vụ thông báo về sự
kiện bảo hiểm cho DNBH, nghĩa vụ hợp tác với DNBH trong khi tiến hành xác minh,
nghĩa vụ cung cấp tài liệu để DNBH xác minh sự kiện bảo hiểm...
1.1.3. Nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

1.1.3.1. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm là những điều khoản bắt buộc
phải có trong hợp đồng bảo hiểm, nếu không thì hợp đồng được coi là chưa giao kết.
Vì HĐBHNT là một loại hợp đồng bảo hiểm, nên phải có những điều khoản chủ yếu
của hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 13 LKDBH, nội dung HĐBHNT bao
gồm:
- Tên, địa chỉ của DNBH; bên mua bảo hiểm; người được bảo hiểm và người thụ


hưởng
Nội dung này nhằm xác định tư cách pháp lý của các bên trong hợp đồng. Đối với
DNBH, phải ghi rõ tên giao dịch, địa chỉ trụ sở, tên và chức vụ người đại diện ký kết. Đối
với bên tham gia bảo hiểm phải ghi rõ tên và địa chỉ. Ngoài ra, tên và địa chỉ về chủ thể


13

liên quan khác trong hợp đồng như người được bảo hiểm (nếu không đồng thời là bên
mua bảo hiểm) và người thụ hưởng (nếu có) cũng phải được ghi nhận vào hợp đồng.
- Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ của người được bảo hiểm. Nếu DNBH và bên
mua bảo hiểm thoả thuận về việc bên mua bảo hiểm tham gia các sản phẩm bảo hiểm
bổ trợ thì sức khoẻ và tai nạn của người được bảo hiểm cũng trở thành đối tượng bảo
hiểm.
- Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền mà DNBH sẽ trả khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trong
bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, số tiền bảo hiểm do các
bên tự thoả thuận không phụ thuộc vào đối tượng bảo hiểm, vì tuổi thọ của con người luôn
được coi là quý giá không thể xác định được giá trị. Chính vì vậy, DNBH và bên mua bảo
hiểm phải xác định trước số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong HĐBHNT thường do
bên mua bảo hiểm quyết định dựa trên khả năng tài chính của mình.
- Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm
Đây là các điều khoản xác định phạm vi bảo hiểm của DNBH (như phạm vi các
loại rủi ro chẳng hạn), các điều kiện đối với đối tượng bảo hiểm và các điều khoản liên
quan khác.
- Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
Đây là điều khoản quan trọng nhằm loại trừ trách nhiệm trả tiền bảo hiểm của
DNBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Điều khoản này nhằm bảo vệ DNBH trước những

nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc là quá lớn, hoặc là sự kiện bảo hiểm xảy ra không hẳn là
do nguyên nhân rủi ro. Vì thoả thuận này ảnh hưởng đến quyền lợi của bên mua bảo hiểm
hoặc người thụ hưởng nên pháp luật thường có những quy định nhằm giới hạn phạm vi
loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Thông thường, DNBH sẽ không trả tiền bảo hiểm nếu
những rủi ro do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng nhằm mục đích trục
lợi bảo hiểm; người được bảo hiểm có hành vi phạm tội; người được bảo hiểm mắc bệnh
AIDS hoặc người thụ hưởng chậm thông báo về sự kiện bảo hiểm cho DNBH. Ngoài ra,
một số trường hợp loại trừ khác cũng có thể được DNBH thoả thuận trong hợp đồng như
những rủi ro có tính thảm hoạ (động đất, núi lửa, chiến tranh...) hoặc người được bảo
hiểm tham gia các hoạt động nguy hiểm (nhảy dù, leo núi, thể thao mạo hiểm...).
Trong HĐBHNT, người được bảo hiểm chết do tự tử sẽ không được coi là trường
hợp loại trừ nếu HĐBHNT đã duy trì được một thời gian nhất định, thường là hai năm.
DNBH chỉ loại trừ trách nhiệm bảo hiểm nếu người được bảo hiểm tự tử trong thời hạn


14

hai năm kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Quy định này của pháp luật nhiều quốc gia xuất
phát từ sự giải thích: qua khảo sát, thường không ai có thể giữ ý định tự tử lâu đến thế để
trục lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, có quốc gia không chấp nhận người được bảo hiểm tự tử là
sự kiện bảo hiểm, trừ trường hợp người được bảo hiểm mắc bệnh tâm thần. [6, tr.377]
- Thời hạn bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm là khoảng thời gian DNBH thực hiện trách nhiệm bảo hiểm.
Trách nhiệm bảo hiểm của DNBH bắt đầu kể từ khi HĐBHNT có hiệu lực và bên mua
bảo hiểm đã nộp phí bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm do các bên thoả thuận. Trên thực tế,
thời hạn bảo hiểm trong HĐBHNT ít nhất là 05 năm.
- Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm phải nộp cho DNBH theo thoả
thuận. Mức phí bảo hiểm phụ thuộc chặt chẽ vào số tiền bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm.
Các bên cũng phải thoả thuận về phương thức nộp phí bảo hiểm. Thông thường có các

phương thức nộp phí sau: nộp phí bảo hiểm hàng tháng; nộp phí bảo hiểm hàng 03 tháng,
nộp phí bảo hiểm hàng 06 tháng; nộp phí bảo hiểm hàng năm; nộp phí bảo hiểm một lần.
- Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm.
Thời hạn trả tiền bảo hiểm là khoảng thời gian DNBH thực hiện trách nhiệm trả
tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng. Phương thức trả tiền bảo hiểm là cách thức DNBH trả
tiền bảo hiểm như: trả một lần khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; trả định kỳ trong thời hạn bảo
hiểm hoặc sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, trả trọn đời cho người được bảo hiểm khi hết
thời hạn bảo hiểm.
- Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
Đây là căn cứ nhằm xác định hiệu lực của hợp đồng. Ngày, tháng, năm giao kết
phải xác định theo ngày dương lịch.

1.1.3.2. Một số điều khoản đặc thù của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
- Điều khoản về thời gian cân nhắc.
Đây là thoả thuận trong HĐBHNT mà theo đó, sau khi hợp đồng có hiệu lực, bên
mua bảo hiểm có một khoảng thời gian để xem xét, cân nhắc về quyết định mua bảo hiểm
của mình. Khoảng thời gian này theo thông lệ thường được các DNBH quy định từ 14 đến
21 ngày kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Sở dĩ có thoả thuận này bởi vì HĐBHNT rất
phức tạp và thời hạn thực hiện lâu dài, bên mua bảo hiểm sau khi có được hợp đồng mới
có điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng, và do đó có thể thấy rằng việc tham gia bảo hiểm là
không thích hợp. Nếu bên mua bảo hiểm quyết định lại là không tham gia hợp đồng thì
hợp đồng chấm dứt, DNBH sẽ hoàn lại số phí đã nộp, sau khi trừ đi các chi phí hợp lý có


15

liên quan.
- Điều khoản miễn truy xét.
Đây là thoả thuận trong HĐBHNT mà theo đó, sau một khoảng thời gian nhất định
kể từ khi HĐBHNT có hiệu lực hoặc phục hồi hiệu lực, DNBH sẽ không truy xét trách

nhiệm của bên mua bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm vô ý kê khai không chính xác khi
giao kết HĐBHNT. Thời hiệu miễn truy xét này thường được các DNBH quy định là hai
năm. Điều khoản này nhằm bảo đảm quyền lợi cho bên mua bảo hiểm và người thụ
hưởng do nội dung kê khai mà DNBH yêu cầu rất nhiều và phức tạp.
- Điều khoản gia hạn nộp phí
Điều khoản gia hạn nộp phí là thoả thuận về thời gian gia hạn của DNBH cho bên
mua bảo hiểm để thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm. Theo pháp luật quy định, thời gian
gia hạn nộp phí là 60 ngày, kể từ ngày đến hạn. Nếu hết thời gian gia hạn, bên mua bảo
hiểm vẫn không nộp phí và không có thoả thuận khác, hợp đồng sẽ bị đình chỉ. DNBH
thường mặc nhiên gia hạn cho bên mua bảo hiểm mà không cần phải có sự đề nghị của
bên mua bảo hiểm khi thực hiện hợp đồng. Thoả thuận gia hạn nộp phí tạo điều kiện cho
bên mua bảo hiểm có thể tiếp tục duy trì hợp đồng, rất có ý nghĩa đối với các bên vì
HĐBHNT có thời gian rất dài.
- Điều khoản tự động nộp phí
Đây là thoả thuận thường có trong HĐBHNT. Trong quá trình thực hiện hợp đồng,
có thể những khó khăn tài chính làm cho bên mua bảo hiểm chưa thể nộp phí bảo hiểm
đúng hạn và trong thời gian gia hạn. Theo thoả thuận này, nếu hợp đồng đã có giá trị hoàn
lại, khi bên mua bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn theo thoả
thuận và không có đề nghị chấm dứt hợp đồng, DNBH sẽ tự động cho bên mua bảo hiểm
vay tiền trong phạm vi giá trị hoàn lại để nộp phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể
hoàn trả số tiền này bất kỳ lúc nào. Nếu bên mua bảo hiểm không trả, số tiền vay và lãi
trong thời gian vay sẽ được khấu trừ vào giá trị hoàn lại của HĐBHNT.
- Điều khoản từ bỏ thu phí
Đây là thoả thuận của các bên mà theo đó, bên mua bảo hiểm sẽ không phải tiếp
tục nộp phí bảo hiểm trong những trường hợp nhất định như khi bên mua bảo hiểm chết
hoặc thương tật toàn bộ và vĩnh viễn; người được bảo hiểm mắc bệnh hiểm nghèo... Điều
khoản từ bỏ thu phí có thể được cung cấp trong sản phẩm bảo hiểm chính hoặc sản phẩm
bảo hiểm bổ trợ. Có thể nói đây là điều khoản rất nhân văn, có tính bảo hiểm rất lớn. Mặc
dù bên mua bảo hiểm không phải tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng hợp đồng bảo hiểm



16

vẫn duy trì với số tiền bảo hiểm đã thoả thuận.
- Điều khoản về giá trị hoàn lại
Điều khoản giá trị hoàn lại quy định về số tiền mà DNBH sẽ trả cho bên
mua bảo hiểm khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực mà không thuộc trường hợp trả tiền
bảo hiểm, trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm hoặc khi hợp đồng đến hạn.
Do tính tiết kiệm của HĐBHNT, nên khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại, thì số
tiền đó phải được trả cho bên mua bảo hiểm. Để DNBH có thể bù đắp được chi
phí khai thác và duy trì hợp đồng, pháp luật thường quy định bên mua bảo hiểm
chỉ có quyền yêu cầu chấm dứt hợp đồng và nhận giá trị hoàn lại sau một thời
gian nhất định theo thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Ví dụ: LKDBH hiện hành không trực tiếp quy định về giá trị hoàn lại,
nhưng thông qua các quy định, có thể nhận thấy HĐBHNT có giá trị hoàn lại sau
hai năm kể từ khi thực hiện việc đóng phí. Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan
quy định, bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu chấm dứt hợp đồng và nhận giá trị
hoàn lại nếu hợp đồng thực hiện được 3 năm. [6]
Do DNBH thường áp dụng nguyên tắc đóng phí bằng nhau trong từng kỳ
nộp phí, nên giai đoạn đầu thực hiện hợp đồng, giá trị hoàn lại sẽ ít hơn tổng số
phí đã nộp. Nhưng càng về cuối thời hạn hợp đồng, giá trị hoàn lại có thể nhiều
hơn tổng số phí đã nộp và tối đa bằng số tiền bảo hiểm khi hợp đồng đáo hạn (khi
hợp đồng đáo hạn, việc trả số tiền bảo hiểm cũng là trả giá trị hoàn lại). DNBH sẽ
công bố giá trị hoàn lại cho khách hàng theo từng năm ngay trong HĐBHNT hoặc
mỗi năm một lần dưới hình thức phụ lục hợp đồng.

- Điều khoản cho vay
Đây là thoả thuận mà theo đó, DNBH sẽ cho khách hàng vay một số tiền
nhất định kể từ khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại. Việc cho vay giúp cho bên
mua bảo hiểm đảm bảo cuộc sống nhưng vẫn duy trì được hợp đồng. Số tiền vay

thường không quá một tỷ lệ nhất định trên giá trị hoàn lại (trên thực tế ở Việt
Nam các DNBH thường xác định tỷ lệ này là 80% ). Bên mua bảo hiểm có thể
hoàn trả bất kỳ lúc nào. Nếu bên mua không hoàn trả, số tiền vay và lãi vay sẽ
khấu trừ vào giá trị hoàn lại hoặc số tiền bảo hiểm khi chấm dứt hợp đồng. Khi
tổng số tiền vay và lãi vay bằng giá trị hoàn lại, HĐBHNT sẽ chấm dứt hiệu lực.
- Điều khoản về bảo tức tích luỹ
Đây là thoả thuận mà theo đó, DNBH sẽ trả lãi theo số tiền bảo hiểm của
khách hàng. Điều khoản này chỉ có trong những HĐBHNT mà khách hàng có
tham gia vào việc chia lãi. Thời hạn HĐBHNT càng dài thì bảo tức tích luỹ càng


17

cao. Bảo tức tích luỹ có hai loại là bảo tức đảm bảo và bảo tức không đảm bảo.
Bảo tức đảm bảo là loại bảo tức được DNBH cam kết trả theo hợp đồng. Bảo tức
đảm bảo có hai loại. Loại thứ nhất là chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm và tổng số
phí bảo hiểm. Loại thứ hai là được xác định theo tỷ lệ % trên số tiền bảo hiểm và
được gộp vào số tiền bảo hiểm theo từng khoảng thời gian nhất định (áp dụng cho
HĐBHNT có số tiền bảo hiểm gia tăng). Bảo tức không có đảm bảo là khoản lãi
trên số tiền bảo hiểm cũng được xác định trên số tiền bảo hiểm và gộp vào số tiền
bảo hiểm theo từng năm hợp đồng nhưng không được DNBH đảm bảo chi trả. Tỷ
lệ phần trăm loại bảo tức này do DNBH xác định theo từng năm hoặc một số năm
và thay đổi phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của DNBH.
- Điều khoản chuyển nhượng hợp đồng
Đây là thoả thuận mà theo đó, bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp
đồng cho người khác nếu được DNBH chấp thuận. Việc chuyển nhượng tạo điều
kiện cho bên mua bảo hiểm rút lui khỏi hợp đồng nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi
cho DNBH và người thụ hưởng. Về nguyên tắc, người nhận chuyển nhượng là bên
mua bảo hiểm kể từ thời điểm chuyển nhượng, do đó người này phải hội đủ các
điều kiện của bên mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Pháp luật một số

quốc gia quy định, việc chuyển nhượng hợp đồng phải có sự đồng ý của người
được bảo hiểm, nếu người đó không phải là bên mua bảo hiểm hoặc người nhận
chuyển nhượng, bởi vì đối tượng của hợp đồng thuộc về người được bảo hiểm.

- Điều khoản khôi phục hiệu lực hợp đồng
Khôi phục hiệu lực của HĐBHNT là trường hợp các bên thoả thuận tiếp tục
thực hiện hợp đồng sau khi hợp đồng đã bị DNBH đơn phương đình chỉ do bên
mua bảo hiểm không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm trong thời gian
thoả thuận hoặc thời gian gia hạn đóng phí.
Vì bảo hiểm nhân thọ vừa có yếu tố bảo hiểm, vừa có yếu tố tiết kiệm nên
các bên có thể thoả thuận khôi phục hiệu lực của hợp đồng. Việc khôi phục chỉ
được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định để đảm bảo những nội dung
hợp đồng vẫn còn phù hợp với các bên. Chính vì vậy, LKDBH cho phép các bên
khôi phục hiệu lực hợp đồng trong thời hạn hai năm kể từ ngày hợp đồng bị đình
chỉ. Sau khi khôi phục hiệu lực thì hợp đồng được coi là luôn có hiệu lực kể từ khi
ký kết. Đổi lại, bên mua bảo hiểm phải đóng đủ phí bảo hiểm và các nghĩa vụ tài
chính khác phát sinh trong thời gian đình chỉ hợp đồng. Trên thực tế, nếu bên mua
bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ này, vẫn có thể được DNBH chấp nhận khôi
phục hiệu lực hợp đồng nhưng ngày có hiệu lực được dời lại một khoảng thời gian


18

tương ứng với khoảng thời gian không đóng phí và nghĩa vụ tài chính khác.

1.2. iu khon mu hp ng bo him nhõn th
1.2.1. Khái niệm điều khoản mẫu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Đã trở thành thông lệ trên thế giới, trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, HĐBHNT
thường do DNBH soạn thảo. Các điều khoản được DNBH ban hành được gọi là các điều
khoản mẫu.

Điều khoản mẫu là điều khoản hợp đồng do một bên tham gia hợp đồng đưa ra,
bên kia chỉ có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận mà không được sửa đổi. Khái niệm
điều khoản mẫu không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm hợp đồng theo mẫu. Tại Điều
406 Bộ luật dân sự quy định: "Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do

một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề
nghị trả lời chấp nhận, thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên
đề nghị đưa ra". Như vậy, nếu một bên ban hành ra toàn bộ các điều khoản trong hợp
đồng thì hợp đồng đó gọi là hợp đồng theo mẫu. Hợp đồng theo mẫu loại trừ hoàn toàn sự
tham gia soạn thảo nội dung hợp đồng của bên không ban hành hợp đồng. Bên không ban
hành hợp đồng thường chỉ có quyền đưa ra các thông tin liên quan đến bản thân khi giao
kết hợp đồng.
Trong HĐBHNT, DNBH không hoàn toàn ban hành tất cả các nội dung hợp đồng.
Một số nội dung vẫn có sự tham gia của bên mua bảo hiểm như số tiền bảo hiểm, thời hạn
bảo hiểm, người thụ hưởng, các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ...
Như vậy, điều khoản mẫu HĐBHNT là điều khoản do DNBH đưa ra theo mẫu khi

giao kết hợp đồng; nếu bên mua bảo hiểm chấp nhận giao kết, thì được coi là chấp nhận
tất cả những điều khoản mẫu đó.
Điều khoản mẫu có thể chia thành hai loại là điều khoản mẫu theo luật và điều
khoản mẫu theo ý muốn của người ban hành.
Điều khoản mẫu theo luật là điều khoản mẫu ghi nhận những thoả thuận giống
như quy định của pháp luật. Nếu DNBH không đưa ra điều khoản mẫu này, thì quyền
và nghĩa vụ của các bên vẫn thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều khoản mẫu theo ý muốn của người ban hành ghi nhận những thoả thuận mà
những thoả thuận đó do chính ý muốn người ban hành đưa ra mà pháp luật không cấm.
Nếu DNBH không đưa ra điều khoản này, thì không thể làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ. Loại điều khoản mẫu thứ hai mới có ý nghĩa thật sự quan trọng đối với bên mua bảo
hiểm.
Do tính chất phức tạp của quan hệ HĐBHNT mà HĐBHNT gồm nhiều bộ phận



19

hợp thành gồm hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, tập điều khoản bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo
hiểm. Ngoài giấy chứng nhận bảo hiểm với tư cách là bằng chứng giao kết hợp đồng, các
bộ phận còn lại của HĐBHNT đều chứa đựng các điều khoản mẫu.

- Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm là văn bản do DNBH cấp cho
khách hàng để khách hàng kê khai những nội dung theo yêu cầu của DNBH. Về bản chất,
khi tiến hành kê khai và gửi cho DNBH, hồ sơ yêu cầu bảo hiểm là đề nghị giao kết hợp
đồng của khách hàng. Sau khi được DNBH chấp nhận bảo hiểm, hồ sơ yêu cầu bảo hiểm
là một phần của HĐBHNT.
Những điều khoản mẫu trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm là những câu hỏi và sự trả lời
của khách hàng trả lời nhằm có được những thông tin về bên mua bảo hiểm và người
được bảo hiểm. Mặc dù có sự tham gia của khách hàng vào việc hoàn chỉnh nội dung các
điều khoản này, nhưng đây vẫn được coi là điều khoản mẫu vì những lý do sau đây: (i)thứ
nhất, những nội dung mà khách hàng phải kê khai hoàn toàn do DNBH đưa ra. Nếu khách
hàng muốn được giao kết hợp đồng thì phải trả lời đầy đủ những câu hỏi đó. (ii)thứ hai,
nội dung mà DNBH yêu cầu là những thông tin khách quan, do vậy không mang ý chí
của bên mua bảo hiểm.

- Tập điều khoản bảo hiểm chính: Tập điều khoản bảo hiểm chính là văn bản ghi
nhận chi tiết các quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐBHNT. Những điều khoản
mẫu trong tập điều khoản hoàn toàn loại trừ sự tham gia của bên mua bảo hiểm. Trong
tập điều khoản bảo hiểm chính, những quyền và nghĩa vụ của các bên được liệt kê một
cách chi tiết, làm cơ sở cho việc thực hiện hợp đồng. Tập điều khoản chính phải có đầy
đủ những nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

- Tập điều khoản bảo hiểm riêng: Tập điều khoản bảo hiểm riêng chỉ có trong

HĐBHNT nếu bên mua bảo hiểm mua thêm sản phẩm bảo hiểm phụ để gia tăng yếu tố
bảo hiểm. Điều khoản mẫu trong tập điều khoản bảo hiểm riêng cũng tương tự như
trong tập điều khoản bảo hiểm chính. Mặc dù được ghi nhận trong hai văn bản riêng,
nhưng các điều khoản mẫu trong hai bộ phận này có mối liên hệ chặt chẽ tạo nên sự
thống nhất về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Hợp đồng theo mẫu hoặc hợp đồng có điều khoản mẫu không làm mất đi bản chất
của hợp đồng. Hợp đồng là sự thoả thuận của các bên tham gia nhằm xác lập, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Về bản chất, sự thoả thuận là việc thống nhất về ý chí
giữa các bên tham gia hợp đồng. Sự thoả thuận được tiến hành trên cơ sở thương lượng,
đó là quá trình các bên đưa ra các đề nghị của mình để tiến tới sự thống nhất. Quá trình
thương lượng có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng đều giống nhau về cách thức:
một bên đưa ra đề nghị, bên kia xem xét chấp nhận hoặc sửa đổi đề nghị ấy theo ý chí của


20

mình. Nếu sửa đổi, thì coi đó là đề nghị mới đối với bên kia. Quá trình này diễn ra cho
đến khi một hoặc cả hai bên từ bỏ quá trình thương lượng hoặc hai bên thống nhất ý chí
với nhau. Nếu thống nhất, hợp đồng sẽ được giao kết theo nội dung đã thương lượng.
Như vậy trong hợp đồng theo mẫu hoặc hợp đồng có điều khoản mẫu, quá trình
thương lượng diễn ra ngắn và đơn giản hơn: DNBH đưa ra đề nghị với các điều khoản
mẫu, bên mua bảo hiểm chấp nhận hoặc không chấp nhận những điều khoản mẫu đó.
Nếu chấp nhận, hợp đồng sẽ được ký kết với nội dung các điều khoản mẫu mà DNBH đưa
ra.
1.2.2. Sự cần thiết của điều khoản mẫu trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Việc DNBH ban hành điều khoản mẫu HĐBHNT là một thông lệ trên thế giới và
được pháp luật chấp nhận. Điều đó xuất phát từ chính những đòi hỏi của quan hệ
HĐBHNT, không đơn giản là ý muốn chủ quan của DNBH. Những nguyên nhân sau đây
được coi là chủ yếu để DNBH ban hành các điều khoản mẫu HĐBHNT:


Thứ nhất, điều khoản mẫu được ban hành là do sự phức tạp của quan hệ
HĐBHNT.
Tính phức tạp của quan hệ HĐBHNT xuất phát từ tính phức tạp của đối tượng bảo
hiểm. Đối tượng của HĐBHNT là tuổi thọ của người được bảo hiểm. Có thể nói, tuổi thọ
của con người rất khó xác định và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng sức khoẻ,
bệnh lý, các khuyết tật, thói quen sinh hoạt, công việc chuyên môn, gien di truyền...
Chính vì vậy, để xác định chính xác mức độ rủi ro của đối tượng bảo hiểm, DNBH phải
yêu cầu bên tham gia bảo hiểm kê khai thật chi tiết, cụ thể tình trạng của người được bảo
hiểm. Tuy nhiên, bên mua bảo hiểm và bên mua bảo hiểm rất khó có thể kê khai đầy đủ
tình trạng của mình nếu không có sự gợi ý, hướng dẫn của DNBH thông qua các điều
khoản mẫu.
Bên cạnh đó, với kinh nghiệm và sự khảo sát của mình cùng với lịch sử phát triển
lâu dài của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ trên thế giới, DNBH có ưu thế trong việc đưa ra
các yêu cầu để có thể xác minh chính xác nhất về đối tượng bảo hiểm, góp phần nâng cao
chất lượng hợp đồng, đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên tham gia hợp đồng.

Thứ hai, điều khoản mẫu được ban hành làm giảm lợi thế do tính chuyên nghiệp
của DNBH.
Có thể thấy rằng, so với bên mua bảo hiểm thì DNBH có lợi thế hơn nếu hai bên
tiến hành thương lượng hợp đồng. Lợi thế của DNBH xuất phát từ tính chuyên nghiệp của
doanh nghiệp trong hoạt động bảo hiểm nhân thọ (ví dụ: kiến thức nghiệp vụ, năng lực
đàm phán...). Tính chuyên nghiệp này cùng với kinh nghiệm sẽ góp phần tạo ưu thế trong
đàm phán thương lượng với khách hàng và có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của khách


21

hàng do khách hàng không thật sự có kiến thức về bảo hiểm và hiểu biết được hết các
quyền lợi của mình. Chính vì vậy, khi ban hành điều khoản mẫu, DNBH đã công khai các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐBHNT, góp phần giúp khách hàng thuận lợi hơn

trong việc quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận giao kết hợp đồng.

Thứ ba, điều khoản mẫu giúp DNBH đáp ứng được số lượng khách hàng lớn và
đảm bảo chất lượng dịch vụ ổn định.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn được đánh giá là một hoạt động
kinh doanh có tính xã hội sâu sắc. Chính vì vậy, rất nhiều các cá nhân, tổ chức trong xã
hội có nhu cầu giao kết HĐBHNT. ở các nước có nền kinh tế phát triển, việc tham gia
HĐBHNT rất phổ biến, một người có thể có nhiều HĐBHNT khác nhau. Trong khi đó,
kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng là lĩnh vực kinh doanh có
điều kiện, không phải chủ thể kinh doanh nào cũng có thể tiến hành kinh doanh nên số
lượng các DNBH thường hạn chế hơn so với các lĩnh vực kinh doanh khác.
Chính vì vậy, để đáp ứng số lượng khách hàng lớn, DNBH không thể có điều
kiện tiến hành trực tiếp thương lượng với từng khách hàng. Việc sử dụng các điều
khoản mẫu sẽ giúp DNBH có thể giao kết HĐBHNT đồng thời với nhiều khách hàng
một lúc. Khách hàng chỉ việc nghiên cứu các điều khoản mẫu, coi đó là lời đề nghị
giao kết của DNBH, từ đó quyết định có ký kết hợp đồng hay không.

Thứ tư, điều khoản mẫu giúp DNBH công khai sản phẩm bảo hiểm, tăng cường
năng lực cạnh tranh.
Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là một loại hình dịch vụ tài chính mà DNBH cung
cấp ra thị trường. Trong thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm nhân thọ
nói riêng, có nhiều doanh nghiệp cùng tiến hành kinh doanh, nên việc cạnh tranh là tất
yếu. Thông qua việc ban hành các điều khoản mẫu, DNBH đã công khai sản phẩm của
mình, giúp khách hàng có sự so sánh, từ đó lựa chọn DNBH, sản phẩm bảo hiểm để giao
kết hợp đồng. Qua điều khoản mẫu, doanh nghiệp nào cung cấp cho khách hàng nhiều
quyền lợi hơn, yêu cầu từ khách hàng ít nghĩa vụ hơn sẽ có lợi thế cạnh tranh. [4, tr.28]

Thứ năm, điều khoản mẫu giúp DNBH hạn chế rủi ro từ đại lý bảo hiểm.
Cũng do tính xã hội sâu sắc của bảo hiểm nhân thọ mà hoạt động giao kết
HĐBHNT có nhiều điểm khác biệt so với các loại hợp đồng khác. Trong hoạt động giao

kết HĐBHNT, chủ thể trực tiếp tiếp xúc với khách hàng chủ yếu là đại lý bảo hiểm. Về
nguyên tắc, đại lý bảo hiểm tiến hành hoạt động nhân danh DNBH và hưởng hoa hồng
bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng đại lý. Với một mạng lưới đại lý chuyên nghiệp
và không chuyên nghiệp đông đảo, DNBH sẽ không thể kiểm soát thật sự hiệu quả hoạt
động của đại lý nếu không có điều khoản mẫu. Điều khoản mẫu sẽ giúp DNBH tránh


×