Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH của tòa án THEO bộ LUẬT tố TỤNG dân sự NHỮNG điểm mới và các vấn đề đặt RA CHO THỰC TIỄN THI HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.5 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI NGUYỄN PHƢƠNG LÊ

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH CỦA TÒA ÁN THEO BỘ LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ - NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ CÁC
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO THỰC TIỄN THI HÀNH

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:

60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHAN CHÍ HIẾU

Hà Nội - 2005


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Tiến sĩ Phan Chí Hiếu,
các Thầy, Cô giáo, gia đình và các đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành bản luận văn này.
Tác giả



Bùi Nguyễn Phƣơng Lê


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu đƣợc trích dẫn theo những nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả

Bùi Nguyễn Phƣơng Lê


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐKT

Hợp đồng kinh tế

NCS

Nghiên cứu sinh

PGS.

Phó giáo sƣ


TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TS.

Tiến sỹ

TTGQCVAKT

Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH CỦA TÒA ÁN................................ 5
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh và thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh của Tòa án ........................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm và các đặc trƣng pháp lý của tranh chấp kinh doanh ...... 5
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án ...... 12
1.2. Cơ sở phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh
của Tòa án ..................................................................................................... 15
1.2.1. Căn cứ vào đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về hoạt
động tƣ pháp .............................................................................................. 15

1.2.2. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và các nguyên
tắc hiến định trong hoạt động của Tòa án ................................................. 18
1.2.3. Những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đối với việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh ............................................................................... 20
1.2.4. Căn cứ vào tính chất xét xử ............................................................. 21
1.2.5. Năng lực giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án .................. 22
1.3. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh doanh của Tòa án .................................................................................. 25
1.3.1. Phân định thẩm quyền theo vụ việc (thẩm quyền chung) ............... 25
1.3.2. Phân định thẩm quyền theo cấp xét xử ........................................... 27
1.3.3. Phân định thẩm quyền theo lãnh thổ ............................................... 27
1.3.4. Phân định thẩm quyền theo tính chất xét xử (sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) ................................................................. 29


CHƢƠNG 2 NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH
DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO THỰC TIỄN THI HÀNH ....... 30
2.1. Những quy định về thẩm quyền theo vụ việc (thẩm quyền chung) .......... 30
2.1.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thƣơng mại ..... 30
2.1.2. Tranh chấp trong nội bộ công ty ..................................................... 37
2.1.3. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ .......... 40
2.1.4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thƣơng mại ............................ 43
2.2. Những quy định về thẩm quyền theo cấp Tòa án .................................. 45
2.2.1. Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện ................................................. 45
2.2.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh .................................................... 49
2.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của
nguyên đơn.................................................................................................... 51
2.3.1. Thẩm quyền theo lãnh thổ ............................................................... 51
2.3.2. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn ............................... 54

CHƢƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THI HÀNH HIỆU QUẢ
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH CỦA
TÒA ÁN ........................................................................................................... 58
3.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thi hành các quy định của
BLTTDS về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án ...... 58
3.2. Các điều kiện bảo đảm về tổ chức và con ngƣời ................................... 71
3.2.1. Các điều kiện bảo đảm về tổ chức .................................................. 71
3.2.2. Các điều kiện bảo đảm về con ngƣời .............................................. 75
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 81


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta với các mặt tích cực của nó đã thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển nền sản xuất hàng hoá và theo đó là sự gia tăng
đáng kể số lƣợng các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh. Các tranh chấp
phát sinh đòi hỏi phải đƣợc giải quyết một cách thoả đáng bằng một cơ chế
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp và trật tự công
cộng.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, khi các thiết chế công quyền vẫn
đƣợc ngƣời dân coi trọng và tin tƣởng áp dụng để giải quyết các tranh chấp
trong xã hội thì hình thức giải quyết các tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án
vẫn tiếp tục khẳng định đƣợc vị trí quan trọng của mình trong hệ thống các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Tuy nhiên, chất lƣợng
hoạt động giải quyết các vụ án kinh tế của Tòa án còn yếu; các bản án, quyết
định của Tòa án còn bị cải sửa, bị huỷ nhiều. Thực tế này xuất phát từ nhiều

nguyên nhân, trong đó phải kể đến những khó khăn, vƣớng mắc trong việc
xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án.
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà
XHCN Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004 chứa đựng nhiều quy định mới,
tiến bộ về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án. Thực
tế đó đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu để chỉ rõ các điểm mới của BLTTDS về
thẩm quyền so với các văn bản pháp luật trƣớc đó; đánh giá sự tác động của
các quy định này đến hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án;
dự báo các khó khăn, vƣớng mắc có thể gặp phải trong thực tiễn áp dụng các
quy định đó để tìm hƣớng khắc phục. Chính vì lý do nhƣ vậy mà em chọn đề
tài: "Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án theo BLTTDS


2

- những điểm mới và các vấn đề đặt ra cho thực tiễn thi hành" làm luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh doanh, trong đó có
nội dung về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án đã đƣợc
đề cập với những mức độ khác nhau trong một số công trình nghiên cứu độc
lập hoặc đƣợc đăng tải dƣới hình thức các bài viết trên các tạp chí pháp lý
nhƣ: Luận án tiến sỹ (TS) của Đào Văn Hội với đề tài Giải quyết tranh chấp
kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam; Luận án tiến sỹ của
Trần Văn Trung với đề tài Tài phán kinh tế ở Việt Nam; Luận án tiến sỹ của
Nguyễn Thị Kim Vinh với đề tài Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế
bằng con đường Tòa án ở Việt Nam; Tác giả Lê Thị Thu Thuỷ với chuyên đề
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh
chấp kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2004; TS. Phan Chí Hiếu với
chuyên đề Phương pháp xác định thẩm quyền theo vụ việc của Toà án, Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2004... Nhƣng việc nghiên cứu một cách
chuyên biệt về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án,
tiếp cận từ các quy định mới của BLTTDS để đề xuất các kiến nghị nhằm
thực thi hiệu quả các quy định mới đó thì đây là công trình nghiên cứu đầu
tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTDS về thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp kinh doanh trong quan hệ so sánh với các quy định
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (TTGQCVAKT) để làm nổi
bật các điểm mới, tiến bộ trong các quy định của BLTTDS. Đề tài không
nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về kinh doanh, thƣơng mại


3

của Tòa án, ví dụ, các yêu cầu liên quan đến các biện pháp hỗ trợ tƣ pháp đối
với hoạt động của trọng tài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng phối hợp
nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp lịch
sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phƣơng pháp xã hội học nhƣ
lấy số liệu, sử dụng các kết quả thống kê, phƣơng pháp khảo sát, thăm dò lấy
ý kiến trong phạm vi những ngƣời làm công tác thực tiễn... cũng đƣợc sử
dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các quy định mới của BLTTDS
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án; đánh giá tác
động của các quy định mới đó đối với hoạt động giải quyết tranh chấp kinh
doanh của Tòa án; dự báo các khó khăn vƣớng mắc sẽ gặp phải khi thi hành các
quy định này từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả BLTTDS.

Để đạt đƣợc mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
nhƣ sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh doanh của Tòa án;
- Phân tích để chỉ ra các quy định mới của BLTTDS về thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án; đánh giá sự tác động của các quy
định mới đó tới hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án;
- Dự báo những khó khăn, vƣớng mắc có thể gặp phải trong thực tiễn
thi hành các quy định của BLTTDS về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh của Tòa án;
- Đƣa ra một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực thi các quy định mới của
BLTTDS về vấn đề thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án.


4

6. Những điểm mới của luận văn
- Lần đầu tiên vấn đề thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh
của Tòa án đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện dƣới góc độ
những quy định mới của BLTTDS.
- Trong quá trình phân tích, so sánh những quy định mới của BLTTDS
về vấn đề thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án, luận
văn đã đƣa ra đƣợc những đánh giá về mức độ hợp lý của quy định từ đó đƣa
ra những kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện (nếu quy định đó là chƣa hợp lý).
- Luận văn đề xuất một số kiến nghị để tháo gỡ các vƣớng mắc đã và có
khả năng gặp phải trong thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Toà án.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội
dung gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp

kinh doanh của Tòa án
- Chƣơng 2: Những điểm mới của BLTTDS về thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp kinh doanh và một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành
- Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm thi hành hiệu quả các quy định của
BLTTDS về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án.


5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh và thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh của Tòa án
1.1.1. Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của tranh chấp kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh
Chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, quan hệ kinh tế trở nên sống động,
đa dạng và phức tạp. Mục đích đạt đƣợc lợi nhuận tối đa trở thành động lực
trực tiếp của các bên tham gia quan hệ kinh tế. Trong điều kiện nhƣ vậy, tranh
chấp kinh doanh không những khó tránh khỏi, mà còn là một vấn đề lớn đòi
hỏi phải có sự quan tâm giải quyết một cách thoả đáng. Đó vừa là một yêu
cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc pháp chế, vừa là một đòi hỏi bức xúc của
thực tiễn kinh doanh trong nền kinh tế thị trƣờng.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp
kinh doanh chƣa đƣợc các nhà luật học quan tâm một cách thoả đáng. Do vậy,
trong các văn bản pháp luật, trong các tài liệu khoa học pháp lý, cũng nhƣ
trong thực tiễn, chúng ta thƣờng gặp nhiều tên gọi khác nhau để chỉ các tranh
chấp loại này nhƣ tranh chấp kinh tế, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp
thƣơng mại, tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại...
Về thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh” hay “tranh chấp kinh tế”, đa số

các nhà luật học khi bàn tới đều nhất trí cho rằng thuật ngữ “tranh chấp kinh
tế” có nội hàm rộng hơn thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh”.
Chứng minh cho quan điểm này, Giáo trình Luật kinh tế của Khoa Luật
Đại học Tổng hợp Hà Nội viết:
Các tranh chấp kinh tế trong kinh doanh trong phạm vi nhất định có sự
khác biệt với tranh chấp kinh tế. Khái niệm kinh tế cũng nhƣ “quan hệ


6

kinh tế” thông thƣờng đƣợc hiểu rộng hơn khái niệm “kinh doanh” với
“quan hệ kinh doanh”. Trong kinh tế có sự bao hàm cả yếu tố quản lý và
yếu tố chính trị - xã hội khác liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong khi đó, kinh doanh chỉ là một hoạt động mang tính nghề
nghiệp nhƣ sản xuất, buôn bán, dịch vụ... gắn với mục đích lợi nhuận. Do
tính chất của quan hệ kinh doanh nhƣ vậy, việc giải quyết trong kinh
doanh cũng mang những tính đặc thù nhất định so với giải quyết tranh
chấp kinh tế nói chung [10, tr.307-364].

Đồng quan điểm trên, NCS. Nguyễn Thị Kim Vinh trong luận án tiến
sỹ “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đƣờng Tòa án ở Việt
Nam” đã viết: “Có thể nói, trong các loại hình tranh chấp kinh tế, tranh chấp
trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó, trong một số
trƣờng hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp
kinh tế đƣợc sử dụng với ý nghĩa tƣơng đƣơng với nhau” [39, tr.33].
Cuốn “Tìm hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh”
cũng cho rằng: “Tranh chấp trong kinh doanh là một dạng của tranh chấp kinh
tế, biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà
đầu tƣ, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trƣờng
nhằm mục đích sinh lời” [16, tr.10].

Bên cạnh đó, cũng có nhà luật học đồng nhất trong cách sử dụng thuật
ngữ “tranh chấp kinh tế” và “tranh chấp kinh doanh”. Cuốn “Tìm hiểu luật kinh
tế” sử dụng hai thuật ngữ này hầu nhƣ không có sự phân biệt [24, tr.187-194].
Về thuật ngữ “tranh chấp kinh tế”, “tranh chấp kinh doanh” và “tranh
chấp hợp đồng kinh tế (HĐKT)”, xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định, đã có các quan điểm nhấn mạnh mối liên quan mật thiết của các thuật
ngữ này. PGS.TS. Trần Đình Hảo trong chuyên đề “Hoà giải, thƣơng lƣợng
trong việc giải quyết tranh chấp HĐKT” đã viết: “Tranh chấp trong kinh


7

doanh khá đa dạng nhƣng loại tranh chấp chủ yếu vẫn thƣờng là các tranh
chấp về hợp đồng” [32, tr.99].
Ngoài ra, khi có sự ra đời của Luật thƣơng mại, bên cạnh các thuật ngữ
“tranh chấp kinh doanh”, “tranh chấp kinh tế” còn xuất hiện thêm thuật ngữ
“tranh chấp thƣơng mại”. Theo Điều 238 Luật Thƣơng mại thì “tranh chấp
thƣơng mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại” [13], tức là sự thoả thuận
giữa thƣơng nhân với thƣơng nhân, thƣơng nhân với các bên có liên quan
nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong
hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thƣơng mại và xúc tiến
thƣơng mại. Chính vì vậy mà có quan điểm đã cho rằng “tranh chấp thƣơng
mại” là một dạng của “tranh chấp kinh doanh” bởi chúng đều phát sinh từ
hoạt động kinh doanh và có quan hệ mật thiết với hoạt động này.
Nhƣ vậy, tùy theo thói quen sử dụng thuật ngữ hoặc tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu mà các nhà luật học sử dụng thuật ngữ
“tranh chấp kinh tế”, “tranh chấp kinh doanh”, “tranh chấp thƣơng mại”, hay
“tranh chấp HĐKT”. Trong phạm vi đề tài đã đƣợc xác định, chúng tôi thống
nhất sử dụng thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh” vì hai lý do sau:

Thứ nhất, thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” là một thuật ngữ có nội hàm
rộng, bao hàm cả yếu tố quản lý và yếu tố chính trị - xã hội liên quan đến hoạt
động kinh doanh. Trong khi đó, đề tài của chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên
cứu thẩm quyền của Tòa án (cụ thể là Tòa kinh tế) trong việc giải quyết các
tranh chấp của các chủ thể kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh của họ.
Thứ hai, thực tế từ khi khái niệm kinh doanh đƣợc nêu ra trong Luật
Công ty (ban hành ngày 21/12/1990) đến nay, trong các văn bản pháp luật sau
đó, cũng nhƣ trong các tài liệu khoa học pháp lý vẫn sử dụng khái niệm này
nhƣ là một khái niệm chính thống về kinh doanh. Mặc dù cũng có nhà khoa


8

học pháp lý phê phán khái niệm “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm mục đích sinh lợi” (khoản
2 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999) [12] là một khái niệm mang tính duy
lợi nhƣng lại không đƣa ra đƣợc khái niệm có tính thuyết phục hơn. Với cách
nhìn nhận về khái niệm kinh doanh là một quy trình khép kín nhƣ vậy, chúng
tôi cho rằng, hoạt động thƣơng mại cũng là một phần trong quy trình đó. Và
suy luận theo tƣ duy lôgic, tranh chấp thƣơng mại cũng là một dạng của tranh
chấp kinh doanh.
Dù còn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về cách sử dụng thuật
ngữ, các nhà luật học cũng đều cho rằng tranh chấp kinh doanh (hay tranh
chấp kinh tế) là sự mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền, nghĩa vụ phát
sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh doanh và thông
thƣờng gắn liền với các yếu tố, lợi ích về mặt tài sản.
Tiếp cận khái niệm tranh chấp kinh doanh dƣới góc độ của pháp luật tố
tụng, chúng tôi thấy rằng, tranh chấp kinh doanh (tranh chấp kinh tế) đƣợc
hiểu theo một nghĩa hẹp hơn nhƣng cụ thể hơn bằng cách chỉ ra những tranh

chấp nào đƣợc coi là tranh chấp kinh doanh và thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án.
Điều 12 Pháp lệnh TTGQCVAKT sử dụng thuật ngữ “tranh chấp kinh
tế” và liệt kê ra các tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhƣ sau:
1. Tranh chấp về HĐKT giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân
với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
2. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể công ty;


9

3. Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
4. Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật [21].

Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại sử dụng thuật ngữ “tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thƣơng mại” [20]. Luật Thƣơng mại 1997 cũng sử dụng thuật
ngữ này (Điều 238) [13].
Điều 29 BLTTDS sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thƣơng
mại” và cũng tiếp tục liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhƣng với nhiều loại tranh chấp hơn [1].
Nghiên cứu pháp luật và tập quán thƣơng mại của các quốc gia trên thế
giới, chúng tôi thấy rằng có sự khác nhau rất lớn giữa các quốc gia khi tiếp
cận khái niệm tranh chấp kinh doanh. Không phải quốc gia nào cũng có sự
phân biệt giữa tranh chấp kinh doanh với tranh chấp dân sự.
Các nƣớc theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ không phân biệt lĩnh vực
kinh doanh (với mục đích tìm kiếm lợi nhuận) và lĩnh vực dân sự (mục đích
tiêu dùng), mọi tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay hoạt động

dân sự đều đƣợc giải quyết bằng những phƣơng thức giống nhau. Tuy vậy, ở
các quốc gia này vẫn tồn tại những thiết chế riêng để giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ hoạt động thƣơng mại nhƣ việc giao các tranh chấp này cho các
thẩm phán có nhiều kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm trong việc giải
quyết các tranh chấp loại này.
Các nƣớc theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa có sự phân biệt
giữa hoạt động kinh doanh với hoạt động dân sự và thừa nhận sự tồn tại của
pháp luật thƣơng mại bên cạnh pháp luật dân sự. Theo NCS. Đào Văn Hội
trong luận án tiến sỹ “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng ở Việt Nam” thì trong khoa học pháp lý của các nƣớc theo truyền
thống pháp luật Châu Âu lục địa “không có khái niệm tranh chấp thƣơng mại.
Ngƣời ta chỉ căn cứ vào thẩm quyền tài phán của các thiết chế giải quyết tranh


10

chấp thƣơng mại mà nhận diện một số tranh chấp đƣợc coi là tranh chấp
thƣơng mại mà thôi” [7, tr.10].
Liên bang Nga sử dụng khái niệm tranh chấp kinh tế và đƣa ra các tiêu
chí cụ thể để phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của Tòa án,
trọng tài với thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của hệ thống Tòa án
thẩm quyền chung.
Việt Nam là một nƣớc theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa và
cũng thừa nhận sự tồn tại song song của tranh chấp kinh doanh (thƣơng mại)
và tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của tranh chấp kinh
doanh, từ đó, đƣa ra đƣợc những biện pháp hữu hiệu để giải quyết nó một
cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật, các nhà khoa học pháp lý của
Việt Nam đã cố gắng xây dựng khái niệm tranh chấp kinh doanh (tranh chấp
kinh tế).
NCS. Nguyễn Thị Kim Vinh cho rằng: “Tranh chấp kinh tế (tranh chấp

kinh doanh) là sự bất đồng chính kiến về một sự kiện pháp lý, là sự mâu thuẫn
hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào
các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau” [39, tr.33].
NCS. Đào Văn Hội đƣa ra khái niệm: “Tranh chấp kinh tế là những
mâu thuẫn hay bất đồng liên quan đến quyền và lợi ích kinh tế của các tổ
chức, cá nhân khi tham gia các quan hệ kinh tế” [7, tr.23].
PGS.TS. Trần Đình Hảo đƣa ra khái niệm về tranh chấp kinh doanh
nhƣ sau: “Tranh chấp trong kinh doanh đƣợc hiểu là sự bất đồng về một hiện
tƣợng pháp lý (quyền và nghĩa vụ) phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các
chủ thể tham gia kinh doanh và thông thƣờng gắn liền với các yếu tố, lợi ích
về mặt tài sản. Tranh chấp trong kinh doanh biểu hiện mâu thuẫn, xung đột
quyền lợi giữa các chủ thể” [33, tr.98].


11

Theo chúng tôi, tranh chấp kinh doanh được hiểu là những mâu thuẫn,
bất đồng ý kiến giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với các bên có
liên quan khi họ tham gia quan hệ kinh doanh, phát sinh do một bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ pháp lý của mình.
1.1.1.2. Đặc trưng pháp lý của tranh chấp kinh doanh
Từ khái niệm tranh chấp kinh doanh nêu trên, chúng ta thấy tranh chấp
kinh doanh có những đặc trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất, các bên trong tranh chấp kinh doanh thƣờng là các chủ thể
kinh doanh có vị trí ngang bằng, tham gia quan hệ trên cơ sở tự nguyện.
Thông thƣờng, các bên trong tranh chấp kinh doanh là các tổ chức, cá nhân
đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận quyền kinh doanh. Bằng việc cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, Nhà nƣớc công nhận các tổ chức, cá nhân này đã hội đủ
các điều kiện kinh tế và pháp lý để tiến hành một loại hoạt động khá phức tạp
trong xã hội là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Khác với chủ thể trong

các tranh chấp dân sự thông thƣờng khác, chủ thể trong tranh chấp kinh doanh
thƣờng là những ngƣời kinh doanh chuyên nghiệp. Những ngƣời này rất
thông thạo những kiến thức, những ngón nghề, thủ đoạn... trong kinh doanh,
đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh mà họ hoạt động. Điều này phản ánh tính
phức tạp của tranh chấp, đòi hỏi ngƣời Thẩm phán phải am tƣờng cả về hoạt
động kinh doanh lẫn pháp luật kinh doanh thì mới đƣa ra đƣợc những phán
quyết khiến những chủ thể kinh doanh “tâm phục, khẩu phục”.
Thứ hai, tranh chấp kinh doanh phát sinh trực tiếp từ quan hệ kinh
doanh, là loại quan hệ đƣợc phân biệt với các quan hệ dân sự thông thƣờng
khác bởi mục đích lợi nhuận. Đặc điểm này lại quy định mục tiêu mà các chủ
thể kinh doanh hƣớng tới khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh
là phải “bảo toàn” đƣợc mục đích lợi nhuận đã đƣợc đặt ra. Có nghĩa là, vừa
giải quyết đƣợc tranh chấp, lại vừa giữ vững đƣợc uy tín của doanh nghiệp,


12

nhất là giữ đƣợc bí quyết kinh doanh. Điều này đòi hỏi việc giải quyết phải
nhanh chóng, bí mật (càng ít công khai càng tốt).
Thứ ba, hoạt động kinh doanh là một quá trình liên tục với nhiều công
đoạn khác nhau liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau và nhiều chủ thể khác
nhau. Vì vậy, các tranh chấp trong kinh doanh thông thƣờng rất phức tạp, liên
quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều hoạt động, nhiều ngành nghề, nhiều chủ thể,
thậm chí còn ảnh hƣởng đến cả một khu vực, một thị trƣờng hoặc cả quốc
gia... chứ không chỉ đơn thuần là tranh chấp giữa hai hoặc một số chủ thể đơn
lẻ nhƣ trong tranh chấp dân sự. Tranh chấp kinh doanh có thể phát sinh trong
một công đoạn nào đó của chu trình kinh doanh, thƣờng có mối quan hệ hữu
cơ với công đoạn khác. Môi trƣờng phát sinh tranh chấp kinh doanh là môi
trƣờng của các hoạt động kinh doanh với tính chất vô cùng phong phú và đa
dạng phụ thuộc lẫn nhau. Quan hệ kinh doanh này có thể vừa là kết quả, vừa

là tiền đề của một quan hệ kinh doanh khác. Do đó, các tranh chấp kinh doanh
nếu không đƣợc giải quyết triệt để, kịp thời dễ gây ra hậu quả có tính chất dây
chuyền, có thể làm đình đốn các hoạt động kinh doanh khác và tác động xấu
tới lợi ích của nhiều đối tƣợng.
Đặc thù này của tranh chấp kinh doanh dẫn đến đòi hỏi tất yếu là phải
giải quyết tranh chấp kinh doanh một cách triệt để, chính xác và hiệu quả để các
bên liên quan có thể nhanh chóng khắc phục hậu quả phát sinh từ tranh chấp.
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án
Thẩm quyền của Tòa án là chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng
nói chung và tố tụng dân sự nói riêng. Thẩm quyền của Tòa án là một khái
niệm bao hàm nhiều mặt, nhiều khía cạnh, mang tính lịch sử cụ thể, quy định
quyền xét xử, phạm vi xem xét và ra quyết định của Tòa án. Nội dung của nó
do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và các điều kiện khác quyết định.
Việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp kinh


13

doanh sẽ giúp cho các Tòa án chủ động trong xét xử, tránh đƣợc các hiện
tƣợng đùn đẩy việc cho nhau. Mặt khác, nó đảm bảo cho xét xử đƣợc chính
xác, khách quan, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, quyền và lợi ích
hợp pháp của những ngƣời tham gia tố tụng.
Việc nghiên cứu và đƣa ra một khái niệm khoa học, đúng đắn về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định quyền hạn cụ thể của Tòa án khi thụ lý, xét xử các tranh
chấp kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Khi nói đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh tức là nói đến
một loại quyền hạn cụ thể của Tòa án. Vì vậy, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh vừa có những đặc điểm chung về thẩm quyền của Tòa án,
vừa có những nét đặc thù riêng. Trong một số sách, báo, tài liệu, các công

trình nghiên cứu khoa học pháp lý cũng đã đề cập đến khái niệm thẩm quyền
của Tòa án nhƣng dƣới góc độ của tố tụng hình sự hoặc tố tụng hành chính.
Còn đối với khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế thì hầu nhƣ
các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học hoặc là sử dụng một cách mặc
nhiên, hoặc là đƣa ra luôn khái niệm mà không có lý giải về sự ra đời hay tồn
tại của nó.
Trƣớc hết, chúng tôi tiếp cận khái niệm từ thuật ngữ “thẩm quyền”.
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì “Thẩm quyền là quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [38, tr. 992]. Theo Từ điển
Luật học thì “thẩm quyền” đƣợc hiểu là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà
nƣớc do pháp luật quy định” [37, tr.459]. Nhƣ vậy, khái niệm thẩm quyền
gồm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định. Quyền hành
động là quyền đƣợc làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là
quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép.


14

Từ thuật ngữ gốc này, kết hợp với quy định của pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của hệ thống Tòa án, các nhà khoa học pháp lý đã đƣa ra các khái
niệm khác nhau về thẩm quyền của Tòa án. TS. Nguyễn Đức Mai cho rằng:
Thẩm quyền của Tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên
quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về
nội dung. Thẩm quyền về hình thức thể hiện ở quyền hạn xem xét và
phạm vi xem xét của Tòa án (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn
thẩm quyền về nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết định của
Tòa án đối với những vấn đề đã đƣợc xem xét [15, tr.2].

Thạc sỹ Nguyễn Văn Tiến quan niệm: “phạm vi, giới hạn của hoạt

động của Tòa án và quyền năng pháp lý của Tòa án có mối liên quan chặt chẽ
với nhau tạo thành thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền của Tòa án bao gồm:
thẩm quyền xét xử, phạm vi - giới hạn xét xử và quyền hạn quyết định của
Tòa án [23, tr.8].
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học định nghĩa: “Thẩm quyền kinh tế
là tổng thể các quyền và nghĩa vụ về kinh tế của các chủ thể đƣợc pháp luật
xác nhận, tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các hành vi nhằm tạo cho
mình những quyền và nghĩa vụ cụ thể” [35, tr.103].
Trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã đề cập đến
khái niệm thẩm quyền của Tòa án. Tuy cách hiểu có khác nhau nhƣng điểm
chung về thẩm quyền của Tòa án đều đƣợc thừa nhận là quyền xét xử và quyền
quyết định của Tòa án. Ở Pháp, thẩm quyền đƣợc hiểu là quyền của một cơ
quan nhà nƣớc, một quan chức nhà nƣớc hay tƣ pháp đƣợc làm những việc và
có quyền quyết định những vấn đề trong phạm vi đƣợc pháp luật cho phép.
Theo Lemeunier, tác giả cuốn từ điển pháp luật thì thẩm quyền của Tòa
án đƣợc hiểu là “khả năng của một Tòa án xem xét một vụ việc trong
phạm vi pháp luật cho phép”.


15

Theo TS. Wolf Ruecliger Schenke, Giáo sƣ Trƣờng Đại học Tổng hợp
Mannheim - Cộng hoà Liên bang Đức sau khi nghiên cứu thẩm quyền
của Tòa án đã đặt ra vấn đề là: “Đối với thẩm quyền của Tòa án thì cần
phân biệt sự khác nhau giữa thẩm quyền vụ việc, địa điểm và thẩm quyền
phẩm cấp” [9, tr.13].

Đặt khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh trong mối
liên hệ với các khái niệm gốc đƣợc nêu ra ở trên, cũng nhƣ trong mối liên hệ
với cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của Tòa án đƣợc nêu trong Luật tổ chức Tòa

án năm 2002, chúng tôi cho rằng, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh nên được hiểu là quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa án trong việc giải
quyết các tranh chấp kinh doanh.
1.2. Cơ sở phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
doanh của Tòa án
Muốn quy định thẩm quyền đƣợc chính xác phải dựa vào những cơ sở
(căn cứ) có tính khoa học đƣợc đúc rút từ thực tiễn. Việc xác định các căn cứ
này có ý nghĩa quan trọng khi phân định thẩm quyền. Dựa vào những căn cứ
để quy định thẩm quyền của Tòa án, các nhà làm luật tính toán cân nhắc đến
mọi khả năng, dự liệu các tình huống để quy định thẩm quyền cho mỗi cấp
Tòa án. Các căn cứ này càng cụ thể, chi tiết thì quy định thẩm quyền càng
chính xác. Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, để quy định và phân định
thẩm quyền của Tòa án, cần dựa vào các cơ sở sau:
1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt
động tư pháp
Pháp luật là một trong những hình thức thể hiện của chính trị. Giáo
trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Đại học Luật Hà nội khi
phân tích bản chất của pháp luật đã viết:
Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nƣớc, giai cấp thống trị đã thông qua
nhà nƣớc để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống


16

nhất và hợp pháp hoá thành ý chí của nhà nƣớc, ý chí đó đƣợc cụ thể hoá
trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban
hành [34, tr.62].

Ở nƣớc ta, vai trò lãnh đạo của Đảng đã đƣợc khẳng định trong suốt
chiều dài lịch sử gần một thế kỷ qua. Đƣờng lối, chính sách của Đảng thể hiện

nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trên thực tế, pháp luật luôn thể chế hóa
đƣờng lối, chính sách của Đảng thành những quy định chung, thống nhất
trong toàn xã hội.
Trong lĩnh vực pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh, các đƣờng
lối, chính sách thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng luôn là những căn cứ
để các nhà làm luật xây dựng các văn bản pháp luật tƣơng ứng. Năm 1972,
Hội nghị lần thứ 20 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng quyết nghị: “Xoá bỏ lối
quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý kinh doanh theo phƣơng thức
XHCN, khắc phục cách quản lý thủ công, phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây
dựng cách tổ chức của nền công nghiệp lớn”. Và tiếp đó, cuối năm 1973,
Nghị quyết 22 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đề ra nhiệm vụ “phải
tăng cƣờng pháp chế XHCN”. Thực hiện các Nghị quyết đó của Ban chấp
hành Trung ƣơng Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54-CP ngày
10/3/1975 về chế độ HĐKT. Và ngày 14/4/1975, Chính phủ ban hành Nghị
định số 75/CP về điều lệ tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế. Theo
Nghị định này, Trọng tài kinh tế đƣợc thành lập nhƣ một cơ quan nhà nƣớc có
chức năng quản lý công tác HĐKT với nội dung: giữ vững tính kỷ luật nhà
nƣớc về HĐKT, giải quyết các tranh chấp HĐKT và xử lý các vi phạm HĐKT.
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đƣờng lối đổi
mới với quyết tâm: Triệt để xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp,
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có
sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Với đƣờng lối đó,


17

Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ phải hoàn thiện bộ máy bảo vệ pháp luật bằng
công cuộc cải cách tƣ pháp, nhằm xây dựng một bộ máy gọn nhẹ, hoạt động
có hiệu quả với sự phân định rõ ràng về quyền hạn, nhiệm vụ cho từng mắt
xích, từng tổ chức, từng cơ quan. Trƣớc yêu cầu đó, ngày 28/12/1993, Quốc

hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), quyết định
thành lập các Toà kinh tế thuộc hệ thống TAND để giải quyết các tranh chấp
kinh tế. Cùng với công việc này, ngày 16/3/1994, Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh TTGQCVAKT. Điều 12, Pháp lệnh TTGQCVAKT đã quy định về
thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Tòa án với phạm vi rộng hơn rất
nhiều so với quy định trong các văn bản pháp luật trƣớc đó.
Ngày nay, với những thay đổi lớn lao của tình hình kinh tế - xã hội và
thực tiễn xét xử thì những quy định về thẩm quyền của Tòa án các cấp đƣợc
quy định trong Pháp lệnh TTGQCVAKT đã không còn phù hợp nữa. Trƣớc
thực trạng đó, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết về công tác tƣ pháp trong đó
nhấn mạnh yêu cầu phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp. Cụ thể
là Nghị quyết hội nghị lần 8 Ban Chấp hành trung ƣơng Đảng khóa VII, Nghị
quyết hội nghị lần thứ 3, hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành trung ƣơng Đảng
khóa VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các Nghị quyết
của Đảng đã định hƣớng việc phân định thẩm quyền của Tòa án các cấp là
thực hiện hai cấp xét xử, tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp quận, huyện
theo hƣớng việc xét xử sơ thẩm đƣợc thực hiện chủ yếu ở tòa án cấp này, Tòa
án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc
thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hƣớng dẫn các Tòa án địa phƣơng thực
hiện xét xử thống nhất pháp luật. Mới đây, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp
trong thời gian tới lại khẳng định cần khẩn trƣơng chuẩn bị tốt điều kiện để


18

thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện, đổi mới tổ chức
của TANDTC để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực
tiễn xét xử, hƣớng dẫn các Tòa án áp dụng pháp luật thống nhất. Những định

hƣớng chiến lƣợc nêu trên là kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn của Đảng ta. Việc tuân theo đƣờng lối, chính sách của Đảng là
một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng, sửa đổi các
quy định về thẩm quyền của Tòa án các cấp.
1.2.2. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và các nguyên
tắc hiến định trong hoạt động của Tòa án
Khác với hệ thống Tòa án của nhiều nƣớc trên thế giới, Tòa án Việt
Nam có những đặc thù về mặt tổ chức, những đặc thù này tác động không nhỏ
đến việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án.
Cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, hệ thống Tòa án của Việt Nam đƣợc tổ chức theo địa giới
hành chính. Theo cách tổ chức này thì tỉnh nào, huyện nào cũng có TAND.
Hiện nay, Việt Nam có 64 tỉnh và 673 huyện, tƣơng ứng với nó, chúng ta có
64 TAND cấp tỉnh và 673 TAND cấp huyện. Cách tổ chức nhƣ vậy dẫn đến
nhu cầu phải phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, hoặc theo sự lựa chọn của
nguyên đơn, nghĩa là, phải xác định TAND của địa phƣơng nào sẽ có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, hệ thống TAND đƣợc tổ chức ở 3 cấp là TAND cấp huyện,
TAND cấp tỉnh và TAND tối cao. Điều 2 Luật Tổ chức TAND 2002 quy định:
Ở nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng;
- Các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh...[14].


19

Quy định này đặt ra cho pháp luật tố tụng một nhiệm vụ là phải quy
định những vụ án nào thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp
huyện, những vụ án nào thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh.

Thứ ba, trong TAND cấp tỉnh và TANDTC lại có các Toà chuyên
trách. Điều 18 Luật Tổ chức TAND năm 2002 quy định: “Cơ cấu tổ chức của
TANDTC gồm có:
- Hội đồng Thẩm phán TANDTC;
- Tòa án quân sự Trung ƣơng, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế,
Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm TANDTC;
- Bộ máy giúp việc” [14].
Điều 27 Luật Tổ chức TAND năm 2002 quy định:
“Các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng gọi chung là
TAND cấp tỉnh gồm có:
- Uỷ ban Thẩm phán;
- Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính;
- Bộ máy giúp việc” [14].
Với cách tổ chức nhƣ vậy đòi hỏi phải có sự phân định thẩm quyền
giữa các Toà chuyên trách trong cùng một cấp Tòa án. Điều này dẫn tới hệ
quả là pháp luật tố tụng phải quy định những vụ án nào thuộc thẩm quyền của
Toà dân sự, những vụ án nào thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế, những vụ án
nào thuộc thẩm quyền của Toà lao động...
Ngoài ra, nguyên tắc hai cấp xét xử cũng là một cơ sở quan trọng để
phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh. Nội dung của
nguyên tắc hai cấp xét xử là bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Bản án, quyết
định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do luật định thì
có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng


×