Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Nguồn gốc, bản chất,chức năng của tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Đề tài: Nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ
& ý nghĩa phương pháp luận

Giảng viên: Đoàn Đức Hiếu
Sinh viên: Trần Quang Huy 16145153

TPHCM, 12/2016


MỤC LỤC
Lời mở đầu
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………….1
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………..1
3. Nội dung nghiên cứu……………………………………………..1
Chương I: Nguồn gốc của tiền tệ
1. Khái niệm…………………………………………………………2
2. Nguồn gốc tiền tệ…………………………………………………2
3. Lịch sử tiền tệ……………………………………………………..3
Chương II: Tính chất và bản chất của tiền tệ
1. Tính chất cơ bản của tiền tệ………………………………………5
2. Bản chất tiền tệ…………………………………………………....7
Chương III: Chức năng tiền tệ
…………………………………………………………………………8

Chương IV: Ý nghĩa phương pháp luận
…………………………………………………………………………11



Tài liệu tham khảo
…………………………………………………………………………11


Lời mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Gắn liền với sự phát triển không ngừng các nền kinh tế trên thế giới. Để việc mua
bán, trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn thì tiền tệ là một thứ không
thể thiếu.
Tiền tệ được phát triển qua các giai đoạn khác nhau, sự thay thế nhau của các loại
tiền trong từng thời kỳ. Ở Việt nam cũng vậy, sự thay đổi của hình thái tiền tệ (kim
loại, giấy, polime, thẻ,…). Nó gắn liền và phát triển cùng với đất nước. Nó là thứ cần
thiết và quen thuộc với mỗi chúng ta cho đến xã hội bây giờ. Sự thay đổi đi lên của
tiền tệ đó cũng là một phần để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước.
Chính vì sự phát triển và vai trò quan trọng của tiền tệ mà em chọn đề tài này để
nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu đề tài này không chỉ giúp em hiểu biết về lịch sử của tiền tệ mà còn hiểu
biết sâu sắc hơn những chuyển biến thực tế xoay quanh về nó, ảnh hưởng của nó đến
nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tìm hiểu về tiền tệ giúp em bổ sung được nhiều kiến thức xoay quanh vấn đề tiền tệ
và hiểu biết thêm về tầm quan trọng của tiền tệ. Hiểu rõ được mặt tốt, mặt xấu của
tiền tệ. Biết cách sử dụng, chi tiêu một cách hiệu quả và hợp lí.

3. Nội dung nghiên cứu:
Về phần nội dung nghiên cứu được chia làm III chương chính
Chương I: Nói về nguồn gốc của tiền tệ, khái niệm tiền là gì? Nguyên nhân ra đời
và lịch sử phát triển của tiền tệ

Chương II: Bản chất, tính chất của tiền tệ

1

Chương III: Trình bày chức năng của tiền tệ


*** Chương I ***
Nguồn gốc của tiền tệ
1. Khái niệm:
Theo kinh tế học thì “Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh
toán, là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hoá và dịch vụ
của một quốc gia hay nền kinh tế”. Theo định nghĩa này tiền tệ còn có thể gọi là tiền
lưu thông.

Triết học Mác – Lênin, dựa theo nghiên cứu về lịch sử và bản chất tiền tệ của Mác,
định nghĩa: “Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm
vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và
biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá”
Có sự khác biệt về cách định nghĩa về tiền tệ bởi vì những nhà kinh tế học trước
Mác giải thích tiền tệ giựa vào hình thái phát triển cao nhất của giá trị hàng hoá và
cho rằng tiền tệ là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá;
trong khi Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng
hoá, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hoá để tìm ra nguồn gốc và bản chất
của tiền tệ.

2. Nguồn gốc tiền tệ:

1


Ngày nay, chúng ta sử dụng cả tiền xu và tiền giấy, nhưng thực tế không phải lúc
nào cũng vậy. Trước khi những đồng tiền kim loại và tiền giấy có mặt, con người đã
sử dụng nhiều thứ khác thường để mua thứ họ cần, Chẳng hạn, ở một nơi nọ trên thế
giới, người ta sử dụng răng cá mập như là tiền. Ở nhiều nơi khác, tiền có thể là những
chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm. Có nơi người ta còn dùng


cộng lông cứng trên đuôi voi để làm tiền. Lông chim là loại tiền nhẹ nhất từ trước đến
nay. Chúng được sử dụng trên đảo Santa Cruz. Đá là loại tiền nặng nhất từ trước đền
giờ. Chúng được sử dụng trên đảo Yap ở Thái Bình Dương. Có hòn nặng trên 500 cân
Anh (1 cân Anh = 0,4536 kg). Loại tiền nhỏ nhất từ trước đến nay được phát hiện ở
Hy Lạp. Tiền được làm bằng kim loại, nhưng có kích thước nhỏ hơn hạt táo. Không ai
biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những hình thức đồng tiền kim loại
từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những đồng tiền kim loại có từ năm 600
trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được lưu hành trong suốt một thời gian dài.
Lúc đầu người ta sử dụng những kim loại quý như vàng và bạc để chế tiền xu. Họ in
hình người hoặc (con) thú trên mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó. Trong những
năm 1200, người Trung Quốc đúc những đồng tiền bằng sắt. Những đồng tiền này giá
trị chẳng là bao, cho nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua hàng. Do
đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt nặng nề nên chính
phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người ta mang các biên nhận này đến ngân hàng
để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát hành và sử dụng tiền
giấy. Ngày nay, hầu hết các nước đều sử dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại
tiền giấy đều có cùng kích cỡ và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la có cùng
kích cỡ và màu sắc y như tờ một trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in
dưới nhiều kích cỡ và màu sắc khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp
hơn. Việc này tạo điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể xác định
được giá trị của chúng. Tất cả những sự kiện này khiến lịch sử tiền tệ trở thành một
công cuộc nghiên cứu lý thú.


3. Lịch sử tiền tệ:

1

Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá vậy nên lịch sử của tiền tệ có thể được
nghiên cứu dựa trên sự phát triển của các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hoá,
cụ thể là thông qua 4 hình thái chính:


3.1) Hình thái giá trị giản đơn:
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi
hàng hoá khi sự trao đổi vẫn mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật
này lấy vật khác.
Hình thái giá trị này tồn tại vào thời kì sơ khai của loài người, khi xã hội đã bắt đầu
có sự phân hoá về lao động cũng như hình thành nên các hình thức xã hội đầu tiên.
Do sự gia tăng sản xuất dẫn đến dư thừa hàng hoá, là điều kiện mở đầu cho sự trao đổi
trực tiếp giữa các cá thể trong xã hội. Ở hình thái giá trị này thì tỷ lệ trao đổi là không
cố định và bị phụ thuộc bởi nhu cầu và mong muốn trao đổi của người thực hiện trao
đổi.
Mác chỉ rõ: “Bí mật của mọi hình thái giá trị đều nằm ở trong hình thái đơn giản
đó”. Bản thân hình thái giá trị này bao gồm hình thái tương đối và hình thái ngang
giá. Hình thái này là hai mặt liên quan, không thể tách rời nhau nhưng cũng là hai cực
đối lập của một phương trình giá trị.
Vào thời gian sau, cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất, ngày càng có
nhiều mặt hàng tham gia vào trao đổi, đòi hỏi giá trị một hàng hoá phải được biểu
hiện ở nhiều hàng hoá khác cho nó. Do đó, hình thái giá trị giản đơn tự nó chuyển
sang hình thái mới của giá trị.
3.2) Hình thái giá trị đầy đủ:
Thời kì tiếp sau sự phân công xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt,
lượng hàng hoá tăng dẫn đến sự trao đổi thường xuyên hơn. Một hàng hoá này có thể

quan hệ với nhiều hàng hoá khác, tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy
đủ, thực chất chỉ là sự mở rộng của hình thái giá trị giản đơn bởi trên thực tế vẫn chỉ
là sự trao đổi trực tiếp với tỉ lệ trao đổi không cố định.
Sự phức tạp trong trao đổi khi số lượng hàng hoá trở nên nhiều và đa dạng hơn đã
hình thành một hình thái giá trị chung có khả năng làm thước đo giá trị trao đổi giữa
các hàng hoá. Đó là tiền thân cho sự ra đời của “tiền”.
3.3) Hình thái chung của giá trị:

1

Càng ngày, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao
đổi cũng trở nên phức tạp hơn, khi người có mặt hàng này không muốn trao đổi với
mặt hàng khác. Khi đó, để có thể trao đổi mặt hàng mong muốn, mọi người phải trao
đổi hàng hoá mình có lấy một món hàng nào đó được ưa chuộng trong khu vực và sử


dụng món hàng đấy để trao đổi món hàng mình muốn. Đó là bước đầu hình thành nên
khái niệm tiền tệ ngày nay.
Tuy nhiên, vật ngang giá chung này chưa cố định mà có sự khác biệt lớn giữa các
vùng. Qua nghiên cứu khảo cổ, các nhà khoa học đã nhận định rằng ở nhiều nơi, tiền
có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm. Ngoài ra còn
có chè lá (với các khu vực đồng bằng không thể trồng chè) và muối (với các khu vực
núi cao không thể làm muối). Nhưng khi quá trình sản xuất phát triển hơn và quy mô
trao đổi được mở rộng giữa các vùng, sự khác biệt về hàng hoá mang hình thái chung
giữa các vùng dẫn đến thêm nhiều khó khăn hơn, đòi hỏi bước phát triển mới của hình
thái giá trị.
3.4) Hình thái tiền tệ:
Quá trình mở rộng thị trường và sản xuất hàng hoá trong tình cảnh tồn tại rất nhiều
vật ngang giá chung giũa các vùng đòi hỏi khách quan một vật ngang giá chung thống

nhất giữa các vùng để đảm bảo trao đổi được thông suốt. Khi vật ngang giá chung
được cố định thì ở một độc tôn và phổ biến thì hình thành hình thái tiền tệ của giá trị.
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim
loại quý như vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Không ai biết chính xác người ta bắt đầu
sử dụng tiền dưới hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát
hiện những đồng tiền kim loại có từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng
đã được người ta sử dụng những kim loại quý như vàng bạc để chế biến xu.

1

Nếu như trước kia tiền thường được liên kết với các phương tiện trao đổi hiện thực
có giá trị thí dụ như đồng tiền bằng vàng thì tiền ngày nay thông thường là tự vật liệu
mà chính nó không có giá trị (tiền giấy). Điều đó có nghĩa là bản thân tiền không có
giá trị gì cả nếu xét về vật liệu làm ra tiền nhưng nó mang giá trị của tiền hình thành
từ trị giá đối xứng mà tiền đại diện cho chúng.


*** Chương II ***
Tính chất và bản chất của tiền tệ
1. Tính chất cơ bản của tiền tệ:
Để có thể thực hiện các chức năng của mình, tiền tệ phải có những đặc điểm cơ bản
sau đây:
1.1) Tính được chấp nhận rộng rãi:
Đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ, người dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền
trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ không được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc
do ngân hàng trung ương phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó khi mà trong thời
kỳ siêu lạm phát, người ta không chấp nhận nó như là một phương tiện trao đổi.
1.2) Tính dễ nhận biết:
Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người ta có thể nhận ra nó
trong lưu thông một cách dễ dàng. Chính vì thế những tờ giấy bạc do ngân hàng trung

ương phát hành được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy chất lượng cao nào
khác.
1.3) Tính có thể chia nhỏ được:
Tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho người bán được nhận đúng số
tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán bằng một loại tiền có mệnh giá lớn thì
phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc phục được sự bất tiện
của phương thức hàng đổi hàng: nếu một người mang một con bò đi đổi gạo thì anh ta
phải nhận về số gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong khi lại không có được những thứ
khác cũng cần thiết không kém.
1.4) Tính lâu bền:
Tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá trị cũng như mới
có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để làm tiền, chính vì vậy
những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao còn tiền xu thì được làm
bằng kim loại bền chắc.

1

1.5) Tính dễ vận chuyển:


Để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang theo, tiền tệ phải dễ vận
chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những đồng xu có kích thước, trọng
lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in khổ rộng ví dụ như khổ A4.
1.6) Tính khan hiếm:
Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì nếu có thể kiếm được
nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong việc cất trữ giá trị và không
được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế trong lịch sử những kim loại hiếm như
vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân hàng trung ương chỉ phát hành một
lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.
1.7) Tính đồng nhất:

Tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau không phân biệt người ta
tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm ra cách đây 2 năm cũng có giá
trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thông. Có như vậy tiền tệ mới
thực hiện chức năng là đơn vị tính toán một cách dễ dàng và thuận tiện trong trao đổi.

2. Bản chất tiền tệ:

Tiền là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả
các loại hàng hoá. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ
sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá

1

Tiền tệ có giá trị không phải vì nó có giá trị tự thân mà vì những gì tiền tệ có thể
trao đổi được. Giá trị của tiền tệ là số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một


đơn vị của tiền tệ, ví dụ số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một Dollar. Nói
cách khác giá trị của tiền tệ là nghịch đảo của giá cả hàng hóa.
Giá cả của tiền tệ chính là lãi suất, nói một cách khác, giá cả của tiền tệ là số tiền mà
người ta phải trả cho cơ hội được vay nó trong một khoảng thời gian xác định.

*** Chương III ***
Chức năng của tiền tệ
Theo C. Mác tiền tệ có 5 chức năng bao gồm thước do giá trị, phương tiện lưu
thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ, tiền thế giới. Năm chức năng này
có quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của các chức năng của tiền trong nền kinh
tế hàng hoá phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Thước đo giá trị:
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá

trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng
thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là
tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có
thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã
có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao
phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả
hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả
hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ Ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.

1

Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường. Do
đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim
loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền
tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm
tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là
thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả,


tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay
đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá
trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn
giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng
10 xen.
Phương tiện lưu thông:
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi
hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng

hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian
và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng
hoảng kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn
dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền
đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng
này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy
tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền
giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công
nhận trong phạm vi quốc gia.
C.Mác cho rằng, số lượng tiền tệ cho lưu thông do ba nhân tố quyết định: Số lượng
hàng hoá lưu thông trên thị trường, giá cả trung bình của hàng hoá, tốc độ lưu thông
của những đơn vị tiền tệ cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối với khối lượng
tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ biến: “Tổng số giá cả của hàng hoá
chia cho số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong một thời gian nhất
định…”

1

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng
này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy
tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị danh nghĩa của nó, dần dần dẫn đến sự ra đời tiền

giấy. Nhà nước có thể in tiền giấy đưa vào lưu thông. Nhưng vì tiền giấy bản thân
không có giá trị mà chỉ là kí hiệu của tiền vàng nên Nhà nước không thể in bao nhiêu
tiền giấy cũng được mà phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy. Quy luật đó là:
“Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng hay bạc do tiền giấy


đó tượng trưng, lẽ ra phải lưu thông thực sự”. Khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước
phát hành lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần cho lưu thông, thì giá trị tiền tệ sẽ bị
giảm xuống, lám phát sẽ xuất hiện.
Phương tiện cất trữ:
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ
tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái
giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện tích luỹ dưới hình thái hiện
vật, hìn thái này không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tiêu tốn nhiều
chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thông và ít sinh lời. Khi tiền tệ xuất hiện, người
ta dần dần thay thế tích luỹ dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích luỹ dưới dạng
tiền tệ. Một nhà kinh tế học đã đưa ra ví dụ: một người nông dân thu hoạch được rất
nhiều cà chua và thị trường chấp nhận trao đổi cà chua lấy hàng hoá khác, tuy nhiên
cà chua không thể lưu trữ lâu dài nên giá trị trao đổi của chúng rất thấp và trong thời
gian ngắn, bởi vì số tiền bán cà chua có giá trị tương đương cà chua và có thời gian sử
dụng lâu hơn rát nhiều nên thể hiện được chức năng cất trữ giá trị của tiền.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc.
Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu
cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất
trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì
một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
Hình thái tích luỹ dưới dạng tiền tệ có nhiều ưu điểm như dễ lưu thông và thành
khoản. Tuy nhiên, tích luỹ dưới hình thái tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá
khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, để tiền tệ thực hiện được chức năng phương tiện

tích luỹ đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua.
Phương tiện thanh toán:

1

Quá trình lưu thông hàng hoá phát triển, ngoài quan hệ hàng hoá - tiền tệ, còn phát
sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khoá, nộp địa tô…bằng tiền. Trong những trường
hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán. Như vậy, khi thực hiện chức năng
phương tiện thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hoá, mà là
khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của
hàng hoá. Tiền tệ khi thực hiênk chức năng làm phương tiện chi trả đã tạo ra khả năng
làm cho số lượng tiền mặt cần thiết lưu thông giảm đi tương đối vì sự mua bán chịu,
thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau. Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh
toán, tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức
mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ.


Khi trình độ trao đổi hàng hoá phát triển đến mức nào đó tất yếu sẽ nảy sinh việc
mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước tiên làm chức năng thước đo giá
trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng là vì mua bán chịu nên đến kì hạn tiền mới được
vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán này
một mặt tạo ra khả năg trả nợ bẳng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền
mặt. Trong quá trình phát triển, ngày càng xuất hiện nhiều hơn các hình thức thanh
toán mới không cần tiền mặt (tiền vàng, bạc) như: kí sổ, séc, chuyển khoản, thẻ điện
từ…
Tiền tệ thế giới:
Tiền tệ thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền tệ thực hiện bốn chức năng
thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích luỹ ở
phạm vi ngoài quốc gia, nói cách khác là đồng tiền của một nước thực hiện chức năng
tiền tệ thế giới khi tiền của quốc gia đó được nhiều nước trên thế giới tin dùng và sử

dụng như đồng tiền chính đồng tiền của nước họ. Tóm lại điều kiện quan trọng nhát
để cho một vật được sử dụng làm tiền tệ thực hiện các chức năng: thước do giá trị,
phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích luỹ, tiền thế giới là
chúng phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và sự tín nhiệm của dân
chúng.

*** Chương IV ***
Ý nghĩa phương pháp luận
Nắm được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức sẽ:
+ Cũng cố lập trường thế giới quan duy vật biện chứng.
+Tránh được quan điểm suy tâm, tuyệt đối hoá vai trò ý thức
+ Thấy được tính sáng tạo của ý thức
Từ mối quan hệ của ý thức và vật chất đòi hỏi:
+ Mọi suy nghĩ và hành động của con người phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tránh bệnh chủ quan duy ý chí
+Không ngừng nâng cao tính năng động sáng tạo

1

Tài liệu tham khảo:


Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia.org

1

C.Mác và Ph.Ăngghen: toàn tập, t23, tr197-180-193




×