Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

bai thu hoc chuyen de phuong phap day hoc lich su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.44 KB, 28 trang )

Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

QTDH:

Quá trình dạy học

SGK:

Sách giáo khoa


Trang 1


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

MỤC LỤC
Trang

Trang 2


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Câu 1: Quan niệm của Anh (chị) về các yếu tố của quá trình dạy học Lịch sử
ở trường phổ thông? Yếu tố nào là yếu tố quan trọng nhất? Vì sao?
QTDH nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông bao gồm
nhiều yếu tố: GV, HS, mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy
học, môi trường,…mỗi nhân tố này có vị trí riêng trong QTDH, song lại có
quan hệ với nhau, với tư cách là một bộ phận của chỉnh thể. Mối liên hệ tác
động qua lại giữa các nhân tố cơ bản đó tạo thành một hệ thống dạy học hoàn
chỉnh. Trong các nhân tố đó thì hoạt động dạy của GV và hoạt động học của
HS là hai nhân tố trung tâm. Hai hoạt động này có mối quan hệ với nhau và
phản ánh tính hai mặt của QTDH. Do đó, để nâng cao chất lượng dạy và học
nói chung, môn lịch sử nói riêng ở trường phổ thông thì đòi hỏi cần phải có

những giải pháp đồng bộ, những khâu đột phá về đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học,… mà trước hết là đột phá
từ khâu đào tạo giáo viên. Một thầy giáo giỏi sẽ dạy được nhiều trò giỏi.
1.1 Quan niệm về quá trình dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông
QTDH nói chung, QTDH lịch sử nói riêng đã là đối tượng nghiên cứu
của nhiều nhà giáo dục – lí luận dạy học. Nhưng trước tiên chúng ta hãy cùng
nhau xem xét như thế nào là QTDH?
Trong lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường, dạy học tồn tại như
một hiện tượng xã hội đặc biệt, một quá trình hoạt động phối hợp giữa người
thầy và người học. Nhờ đó mà mỗi cá nhân có thể làm phong phú vốn học vấn
của mình bằng kho tàng trí tuệ của nhân loại thông qua QTDH.
Dựa trên những cơ sở phương pháp luận và các quan điểm tiếp cận khác
nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về QTDH. Có
quan niệm cho rằng dạy học là một nghề trong xã hội hay dạy học là hoạt
động của thầy giáo trên lớp. Người khác cho rằng dạy học lịch sử là quá trình
giảng giải cung cấp kiến thức của người thầy; hay có người cho rằng người

Trang 3


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

thầy chỉ là người phát thanh lại những điều có trong sách giáo khoa; hoặc có
người cho rằng dạy học chỉ là thủ thuật, thao tác của người thầy…
Những quan niệm nói trên không sai, nó cũng đã đề cặp đến một mặt nào
đó của QTDH. Thực ra dạy học là một quá trình nhận thức đặc thù mà trong
đó HS là chủ thể, bằng những tri giác, thị giác, thính giác, cảm giác, khứu

giác, để lĩnh hội, tiếp thu kiến thức và bị điều khiển dưới sự hướng dẫn của
người thầy. Nhận thức trong dạy học là nhận thức của HS mang tính đặc thù,
ở chỗ nó đã được làm cho dễ đi, dễ cả về kiến thức, về phương pháp, cách
thức. Vì vậy, đã nói đến dạy học là nói đến hai hoạt động: hoạt động dạy của
GV và hoạt động học của HS, với một mục tiêu, nội dung, phương pháp, môi
trường nhất định. Trong đó HS cần phải có tính tự giác, tích cực trong học
tập, không chờ đợi ở GV mà cần phải biết tự tổ chức, lên kế hoạch học tập
cho mình. HS cần tự điều khiển quá trình nhận thức và GV chỉ là người chỉ
đạo, hướng dẫn, tổ chức, điều khiển lớp học, HS. Khi có vấn đề gì cần trao
đổi, tranh luận thì GV sẽ đóng vai trò là cố vấn, trọng tài.
Như vậy, QTDH nói chung và QTDH lịch sử nói riêng đó là một quá
trình vô cùng phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố: hoạt động thầy – trò, mục tiêu
dạy học, nội dung dạy học, phương tiện dạy học, môi trường dạy học, hình
thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá… Mỗi một yếu tố lại có vai trò, vị trí
nhất định trong QTDH, nếu tách các yếu tố đó ra khỏi QTDH thì chúng ta sẽ
không thể hiểu nổi tính phức tạp của QTDH nói chung, QTDH lịch sử nói
riêng. QTDH lịch sử mang ba đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Tính gián tiếp: nghĩa là đối tượng nhận thức, phương thức
nhận thức, cách thức nhận thức của HS mang tính gián tiếp. Kiến thức trong
dạy học không phải là hiện thực lịch sử mà là những kiến thức lịch sử, những
kiến thức đó đã được loài người phát hiện, tổng kết ghi trong SGK mới nhất.
HS phát hiện lại cái mà loài người đã phát hiện.

Trang 4


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về


Ví dụ: HS chưa học Cách mạng tư sản Anh, Pháp, thì các em chưa biết
về những sự kiện, hiện tượng, nhân vật của các cuộc cách mạng này.
Về phương thức nhận thức hay cách thức cũng mang tính gián tiếp thông
qua sự hướng dẫn, dạy bảo của người thầy. Người thầy giỏi là người chỉ ra
cho HS con đường, cách thức, nhận thức nhanh nhất. Điều ấy dẫn đến HS đi
học không chỉ có học kiến thức mà còn học phương pháp, cách thức học tập,
lĩnh hội, nghiên cứu. Tuy nhiên, HS cũng sẽ có sự điều chỉnh, phản ứng, nếu
thầy tác động sai, HS có kinh nghiệm, hiểu biết nó có thể phản ứng lại. Kinh
nghiệm này càng lớn thì sẽ càng rõ.
Thứ hai, Tính tổ chức hướng dẫn: nghĩa là học tập của HS duới sự lãnh
đạo, hướng dẫn, tổ chức của người thầy, mọi hoạt động trong lớp học trừ mục
tiêu, phương pháp, cách thức đều do người thầy quyết định. Người thầy chịu
trách nhiệm trước xã hội, nhà trường, phụ huynh, mọi vấn đề trong dạy học.
Cho dù ngày nay chúng ta lấy học sinh làm trung tâm, coi HS là chủ thể của
QTDH thì vai trò của người thầy vẫn quyết định một loạt vấn đề nội dung
trong dạy học: dạy học cái gì? Dạy học để làm gì? Dạy học như thế nào?...
đều do người thầy quyết định. Từ đó chúng ta hiểu trong dạy học lịch sử dạy
là dạy để mà học, dạy cách học cho HS và học là học dưới sự điều khiển,
hướng dẫn, tổ chức của người thầy, hai yếu tố này thống nhất với nhau, không
thách rời nhau. Thầy có giỏi mới đào tạo được trò giỏi là trên ý nghĩa đó.
Thứ ba, Tính giáo dục: nghĩa là dạy học mang tính giáo dục, giáo dục là
hệ quả tất yếu của QTDH, nó phản ánh mục tiêu của nhà trường, của xã hội,
của thầy – trò, cả về thái độ, tư tưởng, đạo đức nhân cách. Gần đây người ta
cũng đề cao đến phẩm chất, năng lực, thì nó vẫn là hệ quả tất yếu của QTDH
kiến thức, ý nghĩa dạy chữ để dạy người chính là ở đó, nhất là đối với môn
lịch sử.

Trang 5



Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

1.2 Các yếu tố của quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Như trên đã đề cập, QTDH đó không phải là hoạt động đơn lẻ của thầy
hay của trò mà nó là một quá trình phức tạp với nhiều yếu tố hợp thành như:
hoạt động của thầy – trò, mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương tiện
dạy học, môi trường dạy học, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá… Mỗi
một yếu tố lại có vai trò, vị trí nhất định trong QTDH. Dạy học chỉ có thể phát
triển bền vững nếu có sự tham gia tích cực của tất cả các thành tố đó.
Mục tiêu dạy học là cái đích phải đạt được, cái đích phải đến sau mỗi tiết
học, mỗi chương, mỗi lớp học. Nó là kết quả mà chỉ có thể hình dung ra trước
để sử dụng các phương thức, phương pháp tác động vào đối tượng cho phù
hợp với mục tiêu đề ra. Trong hoạt động thực tiễn nói chung và trong hoạt
động dạy học lịch sử ở trường phổ thông bao giờ cũng phải có mục tiêu. Nó
định hướng, mách bảo cho chúng ta sử dụng sử dụng các phương pháp cho
phù hợp để đạt mục tiêu đề ra, mục tiêu đúng thì có cách thức, phương pháp
đúng. Mục tiêu càng cụ thể, rõ ràng, đúng đắn thì càng tốt bấy nhiêu. Mục
tiêu không phải chỉ có một, duy nhất, mà có mục tiêu chung, mục tiêu riêng,
mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài. Dạy học lịch sử cũng thế, có mục tiêu
chung đào tạo thế hệ trẻ, mục tiêu của cấp học, trường học, lớp học, chương,
bài,… đương nhiên mục tiêu cụ thể trước mắt phải đạt đến mục tiêu lâu dài.
Như vậy, mục tiêu dạy học chính là đề trả lời cho câu hỏi: Dạy để làm gì?
hay dạy nội dung môn lịch sử để làm gì?
Nội dung dạy học là hệ thống kiến thức khoa học được chọn lọc, đó phải
là những kiến thức khoa học tương đối ổn định được xã hội thừa nhận, được
lựa chọn và ghi chép trong chương trình SGK mới nhất. Nội dung nào thì

phương pháp ấy, nội dung cụ thể thì dẫn đến phương pháp cụ thể, còn ngược
lại nội dung chung thì sẽ dẫn đến phương pháp chung chung. Hiện tượng dạy
học lịch sử cũng xuất phát từ nội dung này, mục tiêu chung chung không có

Trang 6


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

những nhân vật cụ thể, những sự kiện hiện tượng giàu hình ảnh, thì phương
pháp chủ yếu là thông báo.
Về phương tiện dạy học, đồ dùng cần thiết phục vụ cho cả nội dung và
phương dạy học. Phương tiện dạy học mà phong phú, phù hợp với nội dung
thì sẽ tác động tích cực đến dạy và học của trò. Nhận thức của HS đi từ cụ thể
đến trừu tượng, đi từ biết đến hiểu. Phương tiện dạy học còn giúp cho học
sinh phát huy được các giác quan trong quá trình nhận thức.
Môi trường dạy học: là những điều kiện mà QTDH diễn ra, từ quan điểm
của xã hội, dư luận xã hội, sự quan tâm của phụ huynh, HS, của lãnh đạo nhà
trường, GV, những điều kiện trong một lớp học, cảnh quan… môi trường dạy
học tốt sẽ tác động tốt đến chất lượng giờ học.
Chương trình và SGK là những yếu tố hết sức cơ bản trong QTDH. Nó
quy định nọi dung, mục tiêu, phương pháp của dạy và học bộ môn của nhà
trường, không một nhà trường nào hàng trăm năm qua mà trong dạy học lại
không có chương trình và SGK.
Chương trình của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông là một văn bản
mang tính pháp quy, của nhà nước quy định vị trí, mục tiêu của môn học, xác
định nội dung, quy định kế hoạch, định hướng phương pháp dạy va học, kiểm

tra đánh giá.
Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong học tập của HS, được biên soạn
theo chương trình và thể hiện mục tiêu đào tạo chung, mục tiêu môn học nói
riêng. SGK thể hiện những yêu cầu, nội dung của chương trình. Kiến thức
trình bày trong SGK phải đạt yêu cầu chuẩn cho việc truyền thụ, giáo dục,
cho các hình thức kiểm tra đánh giá HS.
Hoạt động của thầy – trò: là hai yếu tố con người trong QTDH, hai yếu
tố này có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau.

Trang 7


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Thầy là người đóng vai trò hết sức quan trọng để khuyến khích tính ham
học của người học, là chủ thể của hoạt động dạy học, giữ vai trò chủ đạo
trong QTDH. Thầy giáo với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, điều khiển,
lãnh đạo hoạt động của HS, đảm bảo cho HS lĩnh hội tri thức và áp dụng
những tri thức đó vào thực tiễn của cuộc sống.
Bên cạnh đó, người học một mặt là đối tượng của hoạt động dạy, mặt
khác lại là chủ thể của hoạt động nhận thức. Nói cách khác trong QTDH,
người học vừa là khách thể của hoạt động dạy vừa là chủ thể hoạt động tích
cực, độc lập, sáng tạo nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng
những tri thức đó vào thực tiễn nhằm giải quyết những nhu cầu của xã hội…
Trong QTDH, nhân tố thầy và trò là hai nhân tố trung tâm, đặc trưng cơ
bản nhất, bởi lẽ hai nhân tố này đặc trưng cho tính hai mặt của QTDH, nếu
không có thầy và trò thì sẽ không bao giờ có bản thân của QTDH.

Phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng của QTDH, nó nghiên về
các thao tác của người thầy, kinh nghiệm chủ quan của người thầy trong
QTDH, nhờ QTDH lâu năm mà tích lũy được kinh nghiệm loại bỏ những yếu
tố không cần thiết, phát huy mặt tích cực của phương pháp dạy học. Người
thầy có phương pháp dạy học hay sẽ mang lại hiệu quả tích cực, gây được sự
hứng thú đối với HS, trái lại thì sẽ gây nhàm chán. Nhà triết học người Anh
Bê-cơn đã ví phương pháp như ngọn đèn lớn, soi sáng cho người đi trong đêm
tối. Ông cho rằng: người thọt mà đi đúng đường sẽ đến đích trước người khỏe
chân mà chạy lạc đường. Trong dạy học, nhất là dạy học lịch sử cần phải có
phương pháp hay, bởi vì, phải làm sao cho HS tiếp thu kiến thức bằng con
đường ngắn nhất, với sự nỗ lực của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn, giảng
dạy của GV.
Kiểm tra đánh giá cũng là một yếu tố của QTDH diễn ra thường xuyên,
định kỳ với hai chức năng cơ bản là kiểm tra được kết quả dạy của thầy và

Trang 8


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

học của HS. Nhưng đồng thời nó tác động ngược trở lại đối với QTDH giúp
thầy điều chỉnh cách dạy và cách học của HS. Tác động cả tích cực và tiêu
cực, nếu kiểm tra nghĩa vụ, hình thức tác động HS chán không thích học.
Nhưng ngược lại sẽ tác động tích cực giúp HS cảm thấy thích thú hơn. Nó là
công việc của dạy học vừa thường xuyên vừa định kỳ.
Trong các yếu tố đó thì hai nhân tố quan trọng nhất đó là hoạt động thầy
– trò. Đây là hai yếu tố con người làm nên QTDH. Cần phải có quan niệm

đúng đắn về hai hoạt động này trong QTDH. Mọi yếu tố như SGK, phương
tiện dạy học, nội dung dạy học đều phải thông qua hai yếu tố này mà phát huy
tác dụng. Thực tế chứng tỏ rằng, cùng nội dung của SGK, cùng có phương
tiện dạy học như nhau, song được sử dụng bởi những con người khác nhau sẽ
phát huy tác dụng khác nhau. Vì vậy, khâu đột phá trước tiên phải tập trung
vào hoạt động của thầy và trò trong QTDH. Dạy là dạy để mà học, dạy cách
học cho HS và học là dưới sự điều khiển, hướng dẫn tổ chức của người thầy.
Hiện tượng bài lịch sử khô khan, nặng nề, không hấp dẫn, không thu hút được
sự chú ý, say mê của HS, xuất phát chủ yếu từ nguyên nhân dạy, hoạt động
của thầy trong QTDH. Để làm được điều đó, đòi hỏi người thầy không chỉ
giỏi về khoa học lịch sử, mà còn phải giỏi về phương pháp, phải đặc biệt yêu
nghề và phải hết lòng thương yêu HS. Một người thầy giỏi sẽ dạy được nhiều
trò giỏi là trên ý nghĩa đó.
Trước hết, thầy giỏi về chuyên môn, giỏi về khoa học cơ bản, tức là phải
giỏi về lịch sử. Thầy giáo dạy sử đồng thời phải là một nhà nghiên cứu, một
nhà khoa học lịch sử. Ngoài những kiến thức lịch sử cơ bản, GV cần phải tìm
tòi, sưu tầm nghiên cứu thêm nhiều tư liệu lịch sử gốc, nhiều sách khảo cứu.
Bên cạnh đó, GV cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học, thường xuyên
tham dự các buổi tọa đàm, hội thảo về khoa học lịch sử để vừa bổ sung kiến
thức vừa nâng cao năng lực sư phạm. Một thầy giáo có hiểu biết sâu rộng về

Trang 9


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

mọi vấn đề lịch sử sẽ lôi cuốn được HS, giúp HS chinh phục được kiến thức

lịch sử một cách dễ dàng.
Thứ hai, ngoài giỏi chuyên môn ra thì người thầy cần giỏi về phương
pháp. Một GV rất giỏi chuyên môn, nắm kiến thức lịch sử rất chắc, thế nhưng
không biết cách truyền đạt cho HS hiểu được vấn đề, không biết cách thổi hồn
vào bài giảng thì một tiết Sử trôi qua cũng chẳng động lại cho các em một ấn
tượng nào. Mỗi thầy cô giáo phải thấy được điểm mạnh của mình để phát huy
và thấy được điểm yếu của mình để khắc phục, thay đổi cho tiến bộ. Để làm
được điều này, ngoài sự cố gắng của bản thân GV, thì mỗi GV cần phải tăng
cường dự giờ để học tập và rút kinh nghiệm cho bản thân. Chúng ta không chỉ
dự giờ của các GV trong tổ mà còn phải mở rộng dự giờ của các GV trong
trường vì đồng nghiệp chính là thầy của ta về phương pháp.
Thứ ba, thầy cô giáo phải thật sự đam mê với nghề, tâm huyết với nghề,
hết lòng với nghề, sống chết với nghề. Đặc biệt là phải vượt lên trên tư tưởng
đi dạy là vì lương. Dù nhà nước có trả lương ít ỏi nhưng mỗi GV chỉ cần ý
thức được việc đi dạy lấy học sinh làm niềm vui, đi dạy là mang tri thức đến
cho các em, giúp các em được tấm mình trên dòng chảy của lịch sử. Khi đó
cái tâm của GV đã vượt lên cái tầm ảnh hưởng của vật chất.
Cuối cùng, để giúp HS có một cách nhìn đúng đắn và yêu thích lịch sử
mỗi GV phải thật sự là người cha, người mẹ thứ hai của các em, yêu thương
các em như con. Phải quan tâm chia sẽ với các em để biết được các em cần gì,
các em có tâm tư nguyện vọng gì khi học lịch sử… Phải tạo cảm giác thích
thú khi HS được học giờ sử của thầy cô, và hơn hết thầy cô sẽ giúp các em
tìm thấy niềm đam mê khi học tập và nghiên cứu lịch sử.
Mặc dù người thầy có vai trò quan trọng trong trong QTDH lịch sử ở
trường phổ thông, nhưng thiết nghĩ dù thầy có giỏi có nhiệt tình mấy nếu
không có sự hỗ trợ của các yếu tố trên thì QTDH cũng không thể diễn ra và

Trang 10



Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

đạt được kết quả như mong muốn, từ đó chất lượng dạy và học lịch sử cũng
không mấy khả quan. Cho nên trong thời gian tới, chúng ta cần có những giải
pháp đồng bộ, trước hết phải có sự đột phá từ khâu đào tạo GV, đặc biệt là
công tác đào tạo trong các trường sư phạm và cả trong quá trình công tác, cần
thiết chúng ta có thể cho đào tạo lại hoặc luân chuyển công tác đối với một số
GV yếu hoặc kém về chuyên môn. Bên cạnh đó, xã hội cần nên thay đổi quan
niệm về vai trò, vị trí của môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, có nên
chăng hãy xếp môn lịch sử vào nhóm những môn thi bắt buộc trong kỳ thi
tuyển sinh và tốt nghiệp phổ thông trung học và thi tuyển sinh vào đại học
như một số nước trên thế giới để cha mẹ và học sinh có sự quan tâm đánh giá
thỏa đáng đối với môn học truyền thống này. Cùng với đó, nhà trường cần
trang bị thêm phòng học bộ môn lịch sử, sắm sửa thêm tài liệu tham khảo,
tranh ảnh, bản đồ, mua sắm thêm các trang thiết bị hiện đại như máy chiếu,
bảng tương tác…phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy và tạo hiệu ứng
kích thích sự ham muốn bộ môn cho HS. Và cuối cùng, là đổi mới cách kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của HS nhằm công khai hóa các nhận định về
năng lực và kết quả học tập của mỗi HS, giúp HS nhận ra sự tiến bộ cũng như
những tồn tại của cá nhân HS. Từ đó khuyến khích, thúc đẩy việc học tập của
các em.

Trang 11


Bài điều kiện
PPDH lịch sử


Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Câu 2: Những ưu điểm và hạn chế của chương trình Sách giáo khoa môn
lịch sử hiện nay, đề xuất của Anh (chị) về Sách giáo khoa sau 2015?
Chương trình và SGK là những yếu tố hết sức cơ bản trong QTDH. Nó
quy định nội dung, mục tiêu, phương pháp của dạy và học bộ môn của nhà
trường, không một nhà trường nào hàng trăm năm qua mà trong dạy học lại
không có chương trình và SGK.
Chương trình được xây dựng trên cơ sở mục tiêu đào tạo, tình hình,
nhiệm vụ cụ thể của đất nước, nội dung cơ bản của bộ môn, yêu cầu và trình
độ mà người học phải đạt được.

Trang 12


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Chương trình được thể hiện cụ thể trong SGK, SGK được quy định cụ
thể trong Điều 25 Luật Giáo dục như sau: “SGK để sử dụng chính thức, thống
nhất ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác”. SGK là tài liệu học tập chủ yếu của HS và là tài liệu để GV sử dụng
trong việc chuẩn bị, tiến hành bài học. SGK được coi là công trình nghiên cứu
khoa học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn, được ban hành trên
cơ sở Hội đồng quốc gia thẩm định SGK nhất trí thông qua.
Vì tầm quan trọng của chường trình và SGK mà nhiều nước trên thế giới
có hẳn một bộ môn chương trình học, một viện nghiên cứu SGK như ở Đức.

Tiếc rằng ở Việt Nam chương trình SGK chưa được đặt vị trí đúng mức của
nó, thậm chí chưa hiểu được chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu của SGK, đánh
giá không đúng về vai trò của SGK. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu
sâu, phải biết được, hiểu được chương trình SGK là gì? Cách tiếp cận chương
trình và SGK, chức năng, nhiệm vụ của SGK, những ưu điểm và nhược điểm
của chương trình SGK hiện hành để từ đó chúng ta có cách sử dụng cho phù
hợp.
2.1 Chương trình và Sách giáo khoa môn lịch sử ở trường THPT
Chương trình của các bộ môn nói chung, bô môn lịch sử ở trường phổ
thông nói riêng là một văn bản mang tính pháp quy của nhà nước quy định vị
trí, mục tiêu của môn học, xác định nội dung, quy định kế hoạch, định hướng
phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá…Quan niệm chương trình như
vậy, nhìn chung là thống nhất với quan niệm của các nhà khoa học trên thế
giới. Nghĩa là mỗi một quốc gia, môn học đều có một chương trình thống
nhất. Chương trình như vậy là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử, phù hợp
với những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa của một giai đoạn. Không có
một chương trình nào bất biến, tồn tại mãi mãi, tuổi thọ của một chương trình
khoảng 10 – 15 năm. Và như vậy khi xây dựng chương trình là đưa chương

Trang 13


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

trình vào thực tiễn trong dạy học, chương trình bao giờ cũng “tĩnh” hơn so với
sự phát triển của giáo dục, khoa học, xã hội, kinh tế,…cho nên chỉ sau 10 – 15
năm nó sẽ bị lạc hậu so với xã hội

Chương trình giáo dục trong nhà trường nói chung, chương trình môn
lịch sử nói riêng từ 1945 đến nay đã trải qua 5 lần cải cách giáo dục, với
khoảng 5, 6 chương trình.
Chương trình đầu tiên được thực hiện sau Cách mạng tháng Tám 1945
năm 1945, thường được gọi là chương trình Hoàn Xuân Hãn. Chương trình
này được xây dựng dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, được thành lập sau
ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945). Chương trình Hoàn Xuân Hãn có
những điểm tiến bộ như thể hiện trách nhiệm, ý thức dân tộc, nhưng cũng bộc
lộ nhiều hạn chế nhất định. Do đó, chương trình này chỉ tồn tại được một thời
gian ngắn.
Để thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu của cuộc kháng
chiến kiến quốc, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định tiến hành cải
cách giáo dục lần thứ nhất. Tháng 7/1950, Hội đồng chính phủ chính thức
thông qua đề án cải cách giáo dục, xét duyệt cho thi hành hệ thống trường phổ
thông 9 năm và chương trình dạy học mới. Theo đó, nhiệm vụ của bộ môn là
“dạy cho HS biết con đường tiến hóa và triển vọng của dân tộc nói riêng,
nhân loại nói chung”. Từ đó, “giảng cho HS tinh thần dân tộc song song với
tinh thần quốc tế”, bồi dưỡng cho các em “kinh nghiệm đấu tranh để đấu
tranh cho dân chủ và hòa bình”1. Nhìn chung, chương trình lịch sử trong
kháng chiến chống Pháp đã có bước tiến đáng kể và góp phần không nhỏ vào
việc đào tạo thế hệ thanh niên quyết tâm chiến đấu cho độc lập, tự do của dân
tộc.
1 Bộ Giáo dục, Chương trình học trường phổ thông 9 năm (đã được Đại hội Giáo dục toàn quốc tháng 7 năm
1951 thông qua), 1951, tr 72.

Trang 14


Bài điều kiện
PPDH lịch sử


Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Từ 1954 – 1975, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tiếp
tục cuộc đấu tranh giải phóng, thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Bắc, cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1955 – 1956) được tiến
hành. Cuộc cải cách lần này đã tiếp thu những kinh nghiệm của dạy học lịch
sử ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính cách mạng, tiến bộ
và khoa học. Chương trình đã góp phần bồi dưỡng cho HS lòng yêu lao động,
kính trọng nhân dân, ý thức tự giác tham gia cách mạng, niềm tin vào truyền
thống dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng như sự tất thắng của con
đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chương trình vẫn còn một số thiếu sót,
nổi bật là sự ôm đồm, nặng nề, phần nào còn rập khuôn theo chương trình của
Liên Xô. Do đó, chương trình được sữa chữa và nhiều lần được điều chỉnh.
Cùng với sự phát triển của cách mạng miền Nam, giáo dục ở vùng giải
phóng cũng ngày một mở rộng. Chương trình lịch sử vùng giải phóng miền
Nam về cơ bản được xây dựng theo những yêu cầu, nguyên tắc của chương
trình miền Bắc, được điều chỉnh phù hợp với điều kiện cụ thể ở miền Nam lúc
bấy giờ. Điểm nổi bật của chương trình và SGK lịch sử ở vùng giải phóng
miền Nam là tính khao học, cách mạng, tiến bộ, sát hợp thực tiễn chiến đấu,
góp phần đáng kể vào sự nghiệp giáo dục trong thời kháng chiến chống Mỹ.
Tuy nhiên, chương trình và SGK lịch sử vẫn còn khá nặng nề so với điều kiện
học tập trong vùng giải phóng.
Từ 1975 đến nay, Tổ quốc đã được thống nhất, nền giáo dục chung được
thực hiện trong cả nước. Cải cách giáo dục lần thứ ba được bắt đầu triển khai
từ năm học 1981 – 1982. Hệ thống tổ chức trường học phổ thông được thông
qua trong cải cách giáo dục lần ba, gọi là chương trình 12 năm, được thực
hiện như sau:
-


Trường phổ thông 9 năm gồm các lớp từ 1 – 9
Trường phổ thông trung học lớp 10, 11, 12.

Trang 15


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Từ 1991 – 1992, ta lại cải cách giáo dục lần thứ tư, vẫn là chương trình
12 năm hệ thống trường phổ thông được điều chỉnh:
-

Trường tiểu học gồm các lớp 1 – 5
Trường trung học phổ thông gồm hai bậc: THCS (lớp 6 – 9) và

THPT (lớp 10 -12)
Theo chương trình cải cách giáo dục lần thứ tư thì môn Sử chia thành ba
cấp học:
-

Ở bậc THCS, lịch sử ở thành một môn học độc lập, chương trình được cấu tạo
như sau:
+ Lớp 6: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X
+ Lớp 7: Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
+ Lớp 8: Lịch sử thế giới (khái quát lịch sử loài người từ Công xã
nguyên thủy đến Cách mạng Hà Lan và chủ yếu phần cần đại, đến thắng lợi
của Cách mạng tháng Mười Nga 1917) và lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến

năm 1918
+ Lớp 9: Lịch sử thế giới từ Cách mạng tháng Mười Nga đến nay.
- Ở bậc THPT, chương trình được cấu tạo như sau:
+ Lớp 10: Lịch sử thế giới cổ - trung đại và lịch sử dân tộc từ nguồn
gốc đến 1858
+ Lớp 11: Lịch sử thế giới cận đại và lịch sử Việt Nam từ 1858 đến
1918
+ Lớp 12: Lịch sử thế giới hiện đại và lịch sử Việt Nam từ 1918 đến
nay.
Mười năm sau 2001 – 2002, ta lại tiến hành cải cách giáo dục lần thứ 5,
chương trình vẫn 12 năm như hiện hành, song có sự thay đổi, môn lịch sử
được học ngay từ lớp 4, ở THCS lịch sử thế giới học song song với lịch sử
dân tộc, ở THPT cũng vậy, theo đó chương trình được cơ cấu như sau:

-

Ở Tiểu học phần lịch sử trở thành một bộ phận của môn “Tìm hiểu tự nhiên
và xã hội”, theo đó, HS sẽ được phần lịch sử dân tộc một cách có hệ thống, sơ

Trang 16


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

giản về sự phát triển của xã hội nước ta. Những kiến thức này là cơ sở để tiếp
nhận môn lịch sử sẽ được học ở trung học.
- Bậc THCS

+ Lớp 6: khái quát lịch sử thế giới cổ đại và lịch sử Việt Nam (từ nguồn
gốc đến thế kỉ X)
+ Lớp 7: khái quát về lịch sử thế giới trung đại và lịch sử Việt Nam (từ
thế kỉ X đến thế kỉ XIX)
+ Lớp 8: lịch sử thế giới cận đại và lịch sử thế giới hiện đại (phần từ
1917 đến 1945)
+ Lớp 9: lịch sử thế giới hiện đại (từ 1945 đến nay) và lịch sử Việt Nam
(từ phần 1919 đến nay).
- Bậc THPT: chương trình cấu trúc như chương trình hiện hành.
Nhìn chung, chương trình đã cung cấp cho HS nắm được những sự kiên
cơ bản về quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, bước đầu
hiểu biết về phương pháp nhận thức lịch sử, hình thành các kỹ năng bộ môn
và có tác động đến giáo dục tư tưởng, tình cảm.
Qua 5 lần cải cách giáo dục đó chúng ta thấy cách tiếp cận chương trình
giáo dục của ta có sự thay đổi. Cách tiếp cận thứ nhất, người ta tiếp cận theo ý
thức chủ quan của nhà khoa hoc, tức là nhà khoa học định ra chương trình này
hay chương trình khác, nên ta mới có chương trình Trần Trọng Kim, Hoàn
Xuân Hãn là như vậy. Từ khi tiến hành cải cách giáo dục lần 1, 2, 3, người ta
tiếp cận chương trình theo nội dung, nghĩa là lấy nội dung kiến thức của bộ
môn làm căn cứ để xây dựng chương trình. Kiến thức là mục tiêu số một để
sắp xếp xây dựng chương trình, nó xuất phát từ thực tiễn là SGK và thầy giáo
độc quyền về kiến thức, ngoài ra không có loại tài liệu tham khảo nào khác,
nên họ tiếp cận việc lấy kiến thức nhiều hay ít để cung cấp cho HS. Sau lần
cải cách giáo dục lần thứ 3, cùng với sự thay đổi của tình hình nước ta được
thống nhất, người ta thấy rằng việc tiếp cận kiến thức đã lạc hậu, nên chuyển
sang lấy mục tiêu để xây dựng chương trình, nghĩa là chú ý đến phát triển

Trang 17



Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

nhân cách, tư tưởng, phát triển tư duy, năng lực nhận thức của HS… Tuy
nhiên kiến thức vẫn là mục tiêu hàng đầu. Những năm gần đây, tình hình lại
có sự thay đổi cả về công nghệ thông tin, lý luận dạy học, phương pháp dạy
học, khoa học lịch sử,…người ta thấy rằng cách tiếp cận kiến thức, mục tiêu
đã lạc hậu vì nhà trường không còn độc quyền về kiến thức, mà HS có thể
khai thác kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, con người ngày nay cũng sáng
tạo hơn… Nên người ta đề xuất thay đổi chương trình theo hướng tiếp cận
năng lực người học, không còn lấy kiến thức, giáo dục tư tưởng, hay tư duy
làm trọng tâm nữa, mà chú trọng hơn khả năng tự học của HS. Đó là định
hướng cho việc xây dựng chương trình cũng như SGK được áp dụng sau
2015.
2.2 Những ưu điểm của chương trình SGK môn Lịch sử hiện hành
Chương trình của Bộ môn lịch sử hiện có những ưu điểm và hạn chế
nhất định
Thứ nhất, nó được xây dựng trên nguyên tắc đúng, nó được đảm bảo bốn
nguyên tắc cơ bản: tính hiện đại, tính cơ bản, tính dân tộc và tính khả thi
Tính hiện đại nghĩa là chương trình phải phản ảnh được những thành tựu
mới nhất, hiện đại nhất của khoa học lịch sử, những ưu điểm của Đảng và của
lý luận dạy học. Sự thực chương trình hiện nay cũng đã thể hiện được những
nguyên tắc này như đưa vào những quan điểm đúng đắn mới khi đánh giá về
nhân vật, triều đại như: Nhà Hồ, Nhà Mạc, Triều Nguyễn, một số nhân vật
lịch sử như: Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Phan Thanh Giản,… hoặc những thành
tựu cập nhật hơn như: quá trình phát triển lãnh thổ về phía Nam, các vương
quốc cổ Phù Nam, Chăm-pa, những sự kiện lịch sử như Bác về nước, Hội
nghị thành lập Đảng,… cách viết cũng bớt hàn lâm so với trước. Chẳng hạn

như: đánh giá về tính chất, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, bài học
kinh nghiệm của các cuộc kháng chiến, đều đảm bảo cho thầy và trò đều làm

Trang 18


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

việc. Nói một cách khác chương trình hiện nay phản ánh tính hiện đại so với
trước. Đương nhiên, chương trình sau một thời gian thực hiện nó cũng bộc lộ
lạc hậu cả về nội dung, sự kiện, quan điểm dạy học. Ví dụ: trước đây, chúng ta
nói về mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc khác, đó là mối quan hệ
hòa hảo, tình hữu nghị giữa hai nước được thể hiện quan 16 chữ vàng: “Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; tuy
nhiên, ngày nay do nhiều biến động của tình hình thế giới và khu vực, nên
mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc lại có những thay đổi, nhất là khi
Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan HD 981 trong vùng biển của Việt
Nam, khiến cho dư luận trong nước và thế giới xôn xao… điều này, khiến cho
những người nghiên cứu và viết chương trình, những thầy cô giáo lịch sử
cũng cần phải xem xét, có cái nhìn khách quan hơn khi đề cập đến vấn đề này.
Tính cơ bản nghĩa là phải chọn lọc những kiến thức nào là cơ bản nhất,
quan trọng nhất để tổ chức cho HS lĩnh hội phù hợp với khả năng nhận thức
của HS, phù hợp mục tiêu. Rõ ràng kiến thức khoa học lịch sử vô cùng phong
phú, chúng ta không thể và cũng không cần thiết cung cấp hết tất cả những
kiến thức đó cho HS. Nêu GV dứt khoát phải chọn lọc trong hệ thống kiến
thức của khoa học lịch sử, những kiến thức nào là tối ưu không thể thiếu được
và nhờ nó mà HS có thể khôi phục lại bức tranh của quá khứ đúng như nó tồn

tại, đương nhiên với nét chung nhất điển hình nhất.
Chương trình Bộ môn lịch sử hiện nay nói chung là đã phản ánh được,
quán triệt được nguyên tắc này, đã chọn lọc được những vấn đề cơ bản. Ví dụ:
các cuộc Cách mạng tư sản có rất nhiều, nhưng chúng ta chỉ tổ chức cho HS
học những nét chung về Cách mạng tư sản Anh, Cách mạng tư sản Pháp hay
chiến tranh giành độc lập của 13 Bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, hoặc một số
cuộc cải cách mang tính chất dân chủ tư sản, các sự kiện, hiện tượng khác của
lịch sử dân tộc cũng vậy rất là chọn lọc.

Trang 19


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Tính dân tộc nghĩa là chương trình phải phù hợp với dân tộc Việt Nam,
HS Việt Nam. Trong môn lịch sử phải ưu tiên lịch sử dân tộc Việt Nam, dành
thời lượng thỏa đáng cho lịch sử dân tộc. Học lịch sử thế giới để làm nền cho
lịch sử dân tộc, giúp HS hiểu hơn lịch sử dân tộc. Nguyên tắc này cũng đã
được phản ảnh trong chương trình hiện hành, nó thể hiện ở lớp nào cũng có
lịch sử thế giới, lịch sử thế giới học song song với lịch sử dân tộc, đi trước
lịch sử dân tộc, làm nền cho lịch sử dân tộc. Kiến thức của lịch sử thế giới
cũng tập trung vào những nội dung, những vấn đề có nhiều liên quan đến lịch
sử dân tộc, quan tâm hơn đến những nước trong khu vực.
Ví dụ: trong chương trình chúng ta học nhiều đến các nước trong khu
vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản, hay chúng ta học về cách mạng tư
sản Anh, Pháp, Mỹ,… còn những khu vực khác chúng ta chỉ cho HS tìm hiểu
một cách khái quát, chung chung…

Tính khả thi của chương trình nghĩa là phải được xã hội, nhà trường,
được thầy – trò đón nhận, thực hiện tốt. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc,
với nhiều vùng miền, với những điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau, khả năng
nhận thức của học trò cũng khác nhau. Trong khi đó, theo luật của Quốc hội
của nhà nước quy định chỉ một chương trình, một bộ SGK. Nên chương trình
làm sao có thể thực hiện được ở cả thành phố, nông thôn và miền núi, cả
những vùng phát triển và cả những vùng khó khăn. Điều đó, nó đòi hỏi
chương trình phải hết sức mềm dẻo đáp ứng được thực tiễn dạy học ở các
vùng miền khác nhau. Thầy giỏi, trò giỏi ở thành phố chương trình đó thực
hiện tốt. Cố gắng hơn một chút cũng chương trình đó ở vùng nông thôn, vùng
núi, vùng khó khăn vẫn có thể thực hiện được.
Nếu đem so sánh một chút với các nước trên thế giới, rõ ràng chương
trình của chúng ta có sự thống nhất trên quy mô cả nước. Ở một số nước
chẳng hạn như Mỹ hay Canada, chương trình môn lịch sử của họ là do mỗi

Trang 20


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Bang quy định sao cho phù hợp với thực tế của Bang mình, hoặc địa phương
mình, nhưng tất cả đều nhằm mục đích thực hiện mục tiêu giáo dục quốc gia.
Thứ hai, Bộ môn lịch sử hiện hành đã khắc phục được những khó khăn,
hạn chế của chương trình cũ. Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc được học ở cả
hai cấp học, nếu chương trình trước kia ở THCS gần như thiếu vắng chương
trình lịch sử thế giới, ngược lại ở THPT thì lịch sử dân tộc lại xem nhẹ.
Chương trình trước kia, lớp 10 gần như toàn bộ là lịch sử thế giới, lớp 11

cũng thế chỉ có khoảng 8 tiết lịch sử dân tộc, và lớp 12 cũng học nhiều về lịch
sử thế giới. Chương trình hiện hành được xây dựng kết hợp giữa đồng tâm và
đường thẳng phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Nghĩa là trong một cấp học
chương trình được xây dựng theo đường thẳng, theo thứ tự thời gian, trình tự
thế giới. Đồng tâm nghĩa là ở cấp học trước học rồi, cấp học sau lại học
chương trình của cấp học trước, như chương trình hiện hành là ba vòng tròn
nhất là lịch sử việt nam, ví dụ: ở tiểu học HS đã được học về chiến dịch Điện
Biên Phủ, lên THCS và THPT HS được học lại chiến dịch Điện Biên Phủ.
Thứ ba, chương trình bộ môn lịch sử cũng đã đề cập đến tương đối toàn
diện những kiến thức của lịch sử xã hội loài người, đã bổ sung vào một thời
lượng đáng kể kiến thức về văn hóa, kinh tế, xã hội. Chương trình cũng đã đề
cập đến những vấn đề lý luận dạy học, chú ý định hướng cho việc giảng dạy
kiểm tra, đánh giá.
Về SGK môn lịch sử hiện hành cũng có nhiều ưu điểm so với trước,
chẳng hạn SGK lịch sử hiện nay được biên soạn theo tinh thần đổi mới, hình
thức đẹp hơn, đặc biệt lượng kênh hình tăng lên đáng kể. Những kênh hình đó
không chỉ có tính chất minh họa mà còn là kênh thông tin cần khai thác để
khắc sâu kiến thức của bài, góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
Kiến thức chính xác, khoa học, có hệ thống. Sách được in với nhiều màu
chữ, phân biệt giữa các đề mục với phần nội dung, giữa phần kiến thức cơ bản

Trang 21


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

với phần minh hoạ, ví dụ, đọc thêm nên rất rõ ràng, đẹp và gây được sự chú ý,

tránh sự nhàm chán. Nên GV có thể chọn lọc những kiến thức trọng tâm nhất,
quan trọng nhất để cung cấp cho HS nhằm giúp cho HS có thể khôi phục lại
bức tranh của quá khứ đúng như nó tồn tại, đương nhiên với nét chung nhất
điển hình nhất.
Kết cấu chương, bài khá hợp lý. Phân chia đề mục phù hợp, thể hiện
được trọng tâm và kiến thức cơ bản của bài học.
Chương trình và sách giáo khoa đã có sự cân đối giữa phần lý thuyết và
bài tập thực hành, vận dụng, phát triển được tư duy và kĩ năng thực hành cho
học sinh thông qua hệ thống lược đồ, bảng biểu, câu hỏi và bài tập trong các
bài.
Hệ thống câu hỏi bài tập cuối mỗi bài hợp lý, khai thác được kiến thức
đã học, phát huy được tư duy, nâng cao khả năng vận dụng của học sinh.
2.3 Một vài hạn chế của chương trình SGK môn Lịch sử hiện hành
Bên cạnh những mặt đạt được, chương trình Bộ môn lịch sử sau một thời
gian thực hiện đến nay cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập:
Thứ nhất, chương trình bộ môn lịch sử, ban hành ngày 5/5/2006 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, được xây dựng theo lối đồng tâm, nghĩa là ở bậc trước
học rồi, bậc sau học lại, điều này dễ gây nhàm chán đối với người học, vừa
mất thời gian vừa không gây được sự hứng thú cho người học. Thời lượng
cho bộ môn lịch sử ở nhà trường không phải là ít khoảng 420 tiết/ 1 đời HS,
kể từ khi các em bắt đầu biết đến môn lịch sử, tức là từ lớp 4 đến lớp 12. Thời
lượng dành cho bộ môn thì nhiều, nhưng mỗi một tiết học thời lượng lại quá
ít.
Ví dụ: Toàn bộ phong trào Cần Vương với biết bao sự kiện, biết bao
nhân vật có nhiều đóng góp cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc
vào cuối thế kỉ XIX nhưng HS chỉ được học vẻn vẹn có 2 tiết ở lớp 8 với các

Trang 22



Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

nội dung như Nguyên nhân bùng nổ phong trào, Diễn biến kinh thành Huế,
Vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương, Các giai đoạn phát triển của phong trào
Cần Vương, Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thất bại…; cũng với nội dung đó
lên lớp 11 HS cũng có 2 tiết học lại phong trào Cần Vương. Lẽ ra nếu học
theo chương trình đường thẳng thì cũng bài phong trào Cần Vương ta có thể
dạy được 4 tiết.
Thứ hai, chương trình bộ môn lịch sử hiện hành có sự phân hóa không
đều, không hợp lý giữa các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử trong các cấp học. Ở
bậc THCS cả lịch sử Thế giới và lịch sử Việt Nam lại quá chi tiết, ngược lại ở
THPT thì lại quá khái quát, nhất là lịch sử lớp 10 quá chung chung, không cân
đối.
Ở lớp 10 với thời lượng 53 tiết mà bao gồm cả lịch sử thế giới cổ - trung
đại và Lịch sử dân tộc từ nguồn gốc đến 1858.
Lớp 11 thời lượng 35 tiết bao gồm: lịch sử thể giới cận đại; lịch sử Việt
Nam từ 1858 đến 1918
Lớp 12 thời lượng 52 tiết bao gồm: lịch sử thế giới hiện đại; lịch sử Việt
Nam từ 1918 đến nay.
Thứ ba, chương trình bộ môn lịch sử vẫn chưa khắc phục được triệt để
nội dung của lịch sử, lịch sử xã hội loài người được phản ảnh trên tất cả các
mặt: chiến tranh, kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, khoa học kĩ thuật,…
nhưng chương trình hiện hành vẫn nặng về lịch sử chiến tranh, cách mạng,
những cuộc khởi nghĩa. Nội dung về kinh tế văn hóa, khoa học, giáo dục
không tương xứng với nội dung chiến tranh bao gồm cả lịch sử Thế giới và
lịch sử Việt Nam.
Về SGK, tuy có những thay đổi tiến bộ hơn so với trước, nhưng SGK

cũng bộc lộ một vài hạn chế nhất định:

Trang 23


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

Hiện nay trong SGK lịch sử nước ta kênh hình còn nghèo nàn, thậm chí
nhiều bài còn thiếu bản đồ, sơ đồ, niên biểu, tranh ảnh, chân dung các nhân
vật lịch sử cần thiết, nhất là đối với các nhân vật lịch sử phải bao gồm cả nhân
vật chính diện và nhân vật phản diện…
Nội dung SGK nặng về lịch sử chiến tranh chống xâm lược, nội dung về
tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa được lặp lại ở các cấp học. Nhiều thành tựu
nghiên cứu mới về lịch sử chưa được cập nhật. Một số bài trong SGK, đặc
biệt là phần lịch sử Việt Nam còn “nặng”, mang tính hàn lâm, dung lượng bài
chưa phù hợp với thời lượng dạy học. Cách trình bày của SGK còn đơn giản,
ít tư liệu tham khảo…
Cách viết sách cho THCS và THPT không có gì khác biệt, nếu có chăng
chỉ thêm bớt phần sự kiện và câu chữ, các tác giả chưa chú trọng nhiều đến
năng lực nhận thức và tâm lý HS gây khó khăn cho cả người dạy và người
học. Vì vậy mà đã nảy sinh tình trạng GV, nhất là GV bậc THCS không hiểu
biết một cách tường tận các sự kiện được viết trong SGK, không thể giải thích
đầy đủ các thuật ngữ, các khái niệm lịch sử cơ bản, nên khi giảng bài, để đảm
bảo thời gian, GV chỉ đọc cho HS chép một cách thụ động, máy móc.
2.4 Một vài đề xuất về chương trình SGK môn Lịch sử sau năm 2015
Những hạn chế trên sẽ phải được sữa chữa khắc phục trong chương trình
được xây dựng sắp tới. Dự kiến chương trình sau 2015 là được xây dựng theo

hướng tiếp cận phẩm chất năng lực của người học, nghĩa là đề cao giáo dục tư
tưởng, đạo đức, nhân cách, năng lực của người học, phương pháp học của
người học. Tạo điều kiện cho người học phát huy tối đa phương pháp tiếp cận,
cách học, năng lực học tập, giảm nhẹ kiến thức hàn lâm tạo điều kiện cho thầy
và trò làm việc.
Đổi mới chương trình, SGK môn lịch sử phải tuân theo các nguyên tắc:
Quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi

Trang 24


Bài điều kiện
PPDH lịch sử

Chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về

mới căn bản toàn diện giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng;
đảm bảo kế thừa những thành tựu của Việt Nam và vận dụng hợp lý kinh
nghiệm quốc tế về phát triển chương trình giáo dục phổ thông; đảm bảo tính
thống nhất toàn quốc, linh hoạt vùng miền, phù hợp với đối tượng và tính khả
thi của chương trình, sách giáo khoa; đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu,
nội dung, phương pháp dạy học và phương thức đánh giá kết quả học tập.
Thực hiện đổi mới chương trình, SGK môn lịch sử từ sau năm 2015 theo
các định hướng cơ bản: Phát triển năng lực người học; đảm bảo tính hài hòa,
cân đối giữa “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng nghề nghiệp; cấu trúc, nội
dung chương trình và SGK đảm bảo tính chỉnh thể, linh hoạt, thống nhất; nội
dung giáo dục cần mang tính chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,...
Bên cạnh đó, chương trình môn lịch sử sau năm 2015 sẽ cần phải khắc
phục chương trình đồng tâm không được học lại như hiện nay. Chú trọng đến
tính tích hợp trong các bộ môn có liên quan, tránh hiện tượng cùng một đơn vị

kiến thức HS được học ở nhiều môn nhất là Văn – Sử - Địa.
Từ đó, người ta đề xuất là tích hợp hoàn toàn ở bậc Tiểu học, tức là lịch
sử lớp 4, không gọi là lịch sử nữa mà gọi là môn “Tìm hiểu xã hội” tích hợp
hoàn toàn cả 3 môn Văn – Sử - Địa.
Ở THCS tích hợp mang tính liên môn giữa Sử và Địa. Nghĩa là không
còn môn Sử và Địa nữa mà là môn “Tìm hiểu khoa học xã hội”, trong chương
trình đó sẽ tích hợp cả 2 môn, một phần là kiến thức lịch sử, một phần là kiến
thức Địa lý.
Ở THPT thì đòi hỏi sự phân hóa cao, môn Sử sẽ là môn giống như tất cả
các môn khác như lớp 10, còn lớp 11 và lớp 12 sẽ là môn tự chọn và chương
trình lúc này không còn được học như chương trình cũ nữa mà phải được học
theo các chủ đề.

Trang 25


×