Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Bảo đảm quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp trong bộ luật dân sự năm 2015 (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.38 KB, 81 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH TRANG

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO HỢP ĐỒNG CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH TRANG

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO HỢP ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG


BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: ……………………………….

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. DƯƠNG ĐĂNG HUỆ

HÀ NỘI - NĂM 2016


3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến PGS. TS Dương Đăng Huệ đã hết lòng giúp đỡ, tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Trang


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS. TS Dương Đăng Huệ. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các
nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài
còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ
quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát
hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội
đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Trang

MỤC LỤC


5


1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

1. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

5

2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2. Phạm vi nghiên cứu
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

5
6

6

3.1. Mục tiêu
3.2. Nhiệm vụ
4. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

7

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

8


7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

8

8. Kết cấu của luận văn

9

6
7

1.1. Khái niệm và vai trò của quyền tự do hợp đồng đối với hoạt động của
doanh nghiệp
10
1.1.1. Khái niệm và nội dung quyền tự do hợp đồng
10
1.1.2. Vai trò của quyền tự do hợp đồng đối với hoạt động của doanh nghiệp
19
1.2. Quan hệ giữa quyền tự do hợp đồng và quyền tự do kinh doanh
22
1.3. Vai trò chủ đạo của pháp luật dân sự trong việc bảo đảm quyền tự do
hợp đồng
23
1.3.1. Khái niệm bảo đảm quyền tự do hợp đồng
23
1.3.2. Vai trò của các luật chuyên ngành
24
1.3.3. Vai trò chủ đạo của Bộ luật dân sự
28

Kết luận Chương 1:
30
CHƯƠNG 2: BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 – CƠ SỞ PHÁP LÝ MỚI CHO
VIỆC THỰC THI QUYỀN TỰ DO HỢP ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP
Ở NƯỚC TA

31

2.1. Bộ luật Dân sự năm 2015 – văn bản pháp luật quy định toàn diện các
vấn đề liên quan đến ký kết, thực hiện hợp đồng
31
2.2. Bộ luật Dân sự 2015 giải quyết chính thức mối quan hệ giữa Bộ luật
Dân sự và các luật chuyên ngành, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền tự do hợp
đồng của các doanh nghiệp
34
2.3. Bộ luật Dân sự 2015 ghi nhận nhiều quy định mới nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho việc giao kết, thực hiện hợp đồng
38


6

2.4. Bộ luật Dân sự năm 2015 mở rộng quyền tự quyết định nội dung hợp
đồng
44
2.4.1. Tự do lựa chọn đối tác
44
2.4.2. Tự do quyết định đối tượng hợp đồng
45
2.4.3. Tự do quyết định nội dung hợp đồng

49
2.4.4. Tự do quyết định việc thay đổi, hủy bỏ hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi một cách cơ bản
52
2.4.5. Bộ luật Dân sự năm 2015 hạn chế sự can thiệp của cơ quan công
quyền vào hoạt động ký kết, thực hiện hợp đồng
58
Kết luận Chương 2:
62
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN ÁP DỤNG ĐỂ GÓP PHẦN BẢO
ĐẢM QUYỀN TỰ DO HỢP ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP

64

3.3. Cần có những sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản pháp luật
chuyên ngành để đảm bảo thống nhất so với Bộ luật Dân sự 2015
64
3.4. Tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các quy định còn chưa hợp lý
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền
tự do hợp đồng của doanh nghiệp
67
3.3. Tuyên truyền trong giới doanh nhân nội dung cơ bản của các quy định
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến chế định hợp đồng
70
3.4. Tăng cường công tác giải thích pháp luật
71
Kết luận Chương III:
72
KẾT LUẬN


73


7

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trước yêu cầu về việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng trong điều kiện
giao lưu dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: “Hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng,
không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với
tập quán, thông lệ thương mại quốc tế”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng
chỉ rõ: “Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển
lành mạnh; hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn…”.
Thực hiện chủ trương nêu trên của Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng
hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật về hợp đồng. Ngày 24 tháng 11
năm 2015, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Bộ luật Dân sự năm 2015
(BLDS2015) thay thế Bộ luật Dân sự năm 2005. BLDS 2015 ra đời với nhiều
đổi mới về nhận thức, tư duy pháp lý trong việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh
quan hệ dân sự, xây dựng nền tảng pháp lý thống nhất, đồng bộ, ổn định cho hệ
thống pháp luật dân sự Việt Nam, thực hiện, bảo vệ quyền dân sự về nhân thân,
tài sản của cá nhân, pháp nhân, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ hội nhập quốc tế. Bộ luật này đã có
những sửa đổi, bổ sung quan trọng về chế định hợp đồng và cùng với nhiều quy
định mới khác, các quy định này đã giúp BLDS 2015 trở thành luật gốc của hệ



8

thống pháp luật tư (pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản được thiết lập trên
nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể
tham gia quan hệ).
Doanh nghiệp là nhân vật chủ yếu của nền kinh tế thị trường nên có thể
khẳng định rằng, không một ai trong xã hội quan tâm đến BLDS, đặc biệt là
phần quy định về hợp đồng như các doanh nghiệp. Thông qua việc thiết lập và
thực hiện các hợp đồng, các chủ thể kinh doanh có thể tiến hành các hoạt động
kinh doanh một cách chủ động, sáng tạo và đạt hiệu quả cao. Về mặt lý luận,
quyền tự do hợp đồng được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng, là biểu
hiện sinh động nhất của quyền tự do kinh doanh. Việc ghi nhận quyền tự do
hợp đồng có tác động lớn tới quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh.
Có thể nói, không có tự do hợp đồng thì sẽ không có tự do kinh doanh.
Mặt khác tự do kinh doanh nói chung và tự do hợp đồng nói riêng cũng chỉ là
khẩu hiệu, lời nói suông nếu như sau tuyên bố đó Nhà nước không thông qua
cả hệ thống pháp luật của mình để ghi nhận các cơ chế, chính sách nhằm tạo
điều kiện cho các quyền tự do đó được thực thi trong thực tiễn. Vì vậy, việc
nghiên cứu các cơ chế bảo đảm quyền tự do hợp đồng cũng chính là một giải
pháp góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh – một quyền kinh tế cơ bản
nhất mà Hiến pháp 2013 đã ghi nhận.
Trên quan điểm như vậy, tôi cho rằng, việc nghiên cứu để phát hiện và
vận dụng các quy định trong BLDS 2015 có liên quan đến việc bảo đảm quyền
tự do hợp đồng là rất cần thiết và bổ ích trong giai đoạn hiện nay và đó là lý do
để tôi chọn vấn đề: “Bảo đảm quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp trong


9


Bộ luật Dân sự năm 2015” làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Luật Kinh tế.
1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hợp đồng nói chung và quyền tự do hợp đồng nói riêng là vấn đề thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề này như:
- Dương Đăng Huệ (2002), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8);
- Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh
trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Am Hiểu (2004), “Hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo
đảm nhìn từ quyền tự do hợp đồng”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (12);
- Phạm Hoàng Giang (2006), “Quyền tự do giao kết hợp đồng trong
hoạt động thương mại ở Việt Nam”, Luận văn tiến sĩ luật học, Trường Đại học
luật Hà Nội, Hà Nội;
- Trần Hải Hưng (2006), “Đổi mới sự điều chỉnh pháp luật về hợp
đồng trong BLDS năm 2005”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội;
- Nguyễn Thúy Hiền (2006), “Những quy định nghĩa vụ dân sự và hợp
đồng trong BLDS 2005”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (14);
- Mễ Lương (2010), Hợp đồng dân sự trong pháp luật của cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa,
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;


10

- Vũ Đức Lịch (2010), Một số vấn đề về giao kết hợp đồng dân sự trong

pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
- Nguyễn Thị Trang (2013), Hình thức hợp đồng dân sự - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội;
- Thái Thị Hải Yến (2013), Thực hiện hợp đồng dân sự những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội;
- Lê Thị Yến (2013), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội;
- Hoàng Trung Hiếu (2013), Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng dân
sự (2013), Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;…
Mặc dù đã được nghiên cứu tương đối đầy đủ và sâu sắc nhưng do
đối tượng nghiên cứu của các công trình này là các đạo luật (trong đó có BLDS
2005) đã được ban hành trước khi Nhà nước ta thông qua BLDS 2015 nên có
thể nói rằng, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề bảo đảm
quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp trong BLDS 2015. Tuy vậy, các công
trình nói trên là những tài liệu rất quý giá cho tác giả tham khảo, phục vụ việc
nghiên cứu của mình.
Hiện nay, sau khi BLDS 2015 đã được ban hành và mặc dù chưa có
hiệu lực nhưng đã có một số bài viết nghiên cứu về BLDS 2015 nói chung và
phần thứ ba: “Nghĩa vụ và hợp đồng” nói riêng. Trong số các bài viết đó đáng
lưu ý nhất là:


11

- Bài nghiên cứu “Những sửa đổi, bổ sung quy định về đại diện trong
Bộ luật dân sự năm 2015 có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp” của
ThS. Bùi Thị Thanh Hằng – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;

- Bài nghiên cứu “Những điểm mới của Bộ luật dân sự về thực hiện
hợp đồng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp” của TS. Bùi Minh Hồng – Viện
Pháp luật so sánh, Trường Đại học Luật Hà Nội trong Toạ đàm một số nội
dung mới của Bộ luật Dân sự (sửa đổi) liên quan đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp tổ chức ngày 18/12/2016 do Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp
phối hợp với Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp
giai đoạn 2015-2020 tổ chức;
- Bài nghiên cứu “Những điểm mới của phần Nghĩa vụ - hợp đồng
trong Bộ luật dân sự năm 2015” của TS. Nguyễn Minh Tuấn – Trường Đại học
Luật Hà Nội trong Tọa đàm Giới thiệu Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Bộ Tư
pháp ngày 16/7/2016 của dự án JICA, …
Tuy nhiên, do hạn chế về thời lượng và mục đích nghiên cứu nên các
bài viết này chưa thể giải quyết một cách đầy đủ các vấn đề liên quan đến đối
tượng nghiên cứu của luận văn mà tôi đã lựa chọn. Vì vậy, có thể khẳng định
rằng, đề tài của luận văn mà tôi đã lựa chọn vẫn được coi là vấn đề còn mới,
cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
2.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về tự
do hợp đồng và bảo đảm quyền tự do hợp đồng; các quy định mới trong BLDS
2015 với tư cách là các đảm bảo pháp lý đối với quyền tự do hợp đồng của


12

doanh nghiệp và những giải pháp mà Nhà nước cần phải triển khai để quyền tự
do hợp đồng ở Việt Nam được bảo đảm thực thi trong thực tiễn.

2.2.

Phạm vi nghiên cứu

Quyền tự do hợp đồng được bảo đảm thực hiện bởi nhiều biện pháp;
ngoài biện pháp pháp luật còn cần có các biện pháp khác như biện pháp chính
trị, kinh tế, xã hội… Trong biện pháp pháp luật thì có thể khẳng định rằng, cả
hệ thống pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật
có giá trị thấp nhất đều phải có nhiệm vụ tạo ra các cơ chế, biện pháp, công cụ
về mặt pháp lý để các tổ chức, cá nhân thực hiện được quyền tự do hợp đồng
đã được ghi nhận trong chính sách của Đảng và trong Hiến pháp năm 2013 của
Nhà nước ta.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ cho phép của một luận văn, đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu về vai trò của BLDS 2015 trong việc bảo đảm quyền tự do
hợp đồng mà thôi. Các đạo luật khác, ví dụ như Luật Thương mại, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, Luật Xây dựng, Luật Các Tổ chức tín dụng, Luật Đất đai…
nếu có được nhắc tới thì cũng chỉ có vai trò là công cụ so sánh, minh họa để
làm sâu sắc thêm vai trò quan trọng của BLDS 2015 trong việc bảo đảm quyền
tự do hợp đồng nói chung và quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp nói riêng
mà thôi.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1.

Mục tiêu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là thông qua việc phân tích các quy
định mới trong BLDS 2015 liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng,
tác giả muốn chứng minh rằng, BLDS này là một bước phát triển mới trong



13

pháp luật dân sự của nước ta, đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm
thực thi quyền tự do hợp đồng trong thời gian tới ở nước ta.
3.2.

Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về tự do hợp đồng và bảo
đảm quyền tự do hợp đồng;
- Nhận diện, phân tích nội dung các quy định của BLDS 2015 có tác
dụng bảo đảm cho quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp trong thực tiễn;
- Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy việc triển khai các quy định mới
trong BLDS 2015 nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp
trong thời gian tới.
4. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề như sau:
- Nghiên cứu, làm rõ khái niệm và vai trò của tự do hợp đồng và bảo
đảm quyền tự do hợp đồng, phân tích được quan hệ giữa quyền tự do hợp đồng
và quyền tự do kinh doanh và vai trò chủ đạo của pháp luật dân sự trong việc
bảo đảm quyền tự do hợp đồng;
- Nêu và phân tích nội dung các quy định của BLDS 2015 nhằm bảo
đảm cho quyền tự do hợp đồng được thực thi trong thực tiễn của doanh nghiệp;
- Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy triển khai các quy định mới trong
BLDS 2015 nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp ở Việt
Nam trong thời gian tới.



14

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
của triết học Mác – Lênin, của lý luận nhà nước và pháp luật để làm cơ sở
nghiên cứu các vấn đề cụ thể liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Ngoài ra, luận văn có sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên
cứu cụ thể tiêu biểu như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp diễn dịch và quy nạp, phương pháp xã hội học, phương
pháp lịch sử - cụ thể,…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn vì đã làm rõ được một số
vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã cho thấy, tự do hợp đồng là vấn đề rất quan trọng
đối với doanh nghiệp nhưng vấn đề làm sao để bảo đảm được quyền này trên
thực tế còn là vấn đề quan trọng hơn.
Thứ hai, luận văn đã làm rõ mối quan hệ giữa tự do hợp đồng và bảo
đảm quyền tự do hợp đồng. Đây là hai vấn đề khác nhau, tuy có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Không có tự do hợp đồng thì đương nhiên sẽ không đặt ra vấn đề
bảo đảm quyền tự do hợp đồng. Nhưng nếu có tự do hợp đồng mà không có cơ
chế bảo đảm cho tự do hợp đồng được thực hiện trong thực tiễn thì quyền tự do
hợp đồng ấy cũng chẳng có giá trị gì.


15

Thứ ba, luận văn đã nghiên cứu khái quát về quyền tự do hợp đồng,
phân tích một cách hệ thống các quy định có tác dụng bảo đảm quyền tự do

hợp đồng trong BLDS 2015. Vì vậy, Luận văn là tài liệu tham khảo tốt cho bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào quan tâm đến vấn đề tự do hợp đồng và bảo
đảm quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, từ việc phân tích các quy định của BLDS 2015, tác giả đã đề
xuất các giải pháp cần phải triển khai để bảo đảm quyền tự do hợp đồng nói
chung và quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, kết quả
nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa nhất định về mặt thực tiễn, nhất là thực tiễn thi
hành pháp luật - một lĩnh vực công tác đang có nhiều yếu kém hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tự do hợp đồng và bảo đảm quyền
tự do hợp đồng.
Chương 2: Bộ luật Dân sự năm 2015 – Cơ sở pháp lý mới cho việc
thực thi quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp ở nước ta.
Chương 3: Những giải pháp thúc đẩy triển khai thực hiện bảo đảm
quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp.


16

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HỢP ĐỒNG VÀ
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO HỢP ĐỒNG

1.1. Khái niệm và vai trò của quyền tự do hợp đồng đối với hoạt
động của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và nội dung quyền tự do hợp đồng
Hợp đồng là một loại giao ước mà đặc điểm chung của chúng là sự
thống nhất ý chí. Vậy ý chí có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hợp đồng. Nó
được xem là cực kỳ quan trọng bởi nó là yếu tố cơ bản, không thể thiếu được
để hình thành hợp đồng, từ đó làm phát sinh ra các nghĩa vụ pháp lý1. Không
thể nghi ngờ được rằng, thương mại không thể phát triển nếu các thoả thuận

được lập ra một cách tự do mà không được thi hành một cách bình thường2. Vì
vậy, dù ở hệ thống pháp luật nào, người ta cũng đều thừa nhận nền tảng của
luật hợp đồng là tự do ý chí.
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng hiện nay có nguồn gốc từ thuyết tự
do ý chí trong giao kết hợp đồng từ thế kỷ XVIII và nằm trong hệ thống các
quan điểm của nền triết học ánh sáng. Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp
đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng được quyết định mọi vấn đề liên quan
đến hợp đồng.
1 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, TroisiÌme Ðdition, Litec, 1989, p. 3, trích trong tài
liệu: Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (2), tr.11.
2Edward
Younkins,
Freedom
to
contract,
Liberty
Free
Press,
June
15,
2000,[ 2/2/2008, trích trong tài liệu: Ngô Huy Cương
(2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, (2), tr.11.


17

Học thuyết tự do hợp đồng đã phát triển mạnh mẽ ở Pháp vào thế kỷ
XVIII, theo đó, cá nhân chỉ có thể bị ràng buộc bởi ý chí của chính mình được

tuyên bố một cách trực tiếp thông qua các hợp đồng hay gián tiếp thông qua
pháp luật. Nội dung cơ bản của thuyết này thể hiện ở một số điểm chính như
sau: Ý chí của con người là tối thượng và tự do; chỉ có các hành vi xuất phát từ
ý chí của một người mới có hiệu lực ràng buộc đối với người đó; mỗi bên tham
gia hợp đồng đều nhằm thỏa mãn những lợi ích riêng của mình trong phạm vi
phù hợp với lợi ích chung và dung hòa với các lợi ích đối lập. Như vậy, theo
thuyết tự do ý chí thì quyền tự do cá nhân là một quyền thiêng liêng, bất khả
xâm phạm. Thái độ tôn trọng của pháp luật đối với sự thỏa thuận, lựa chọn đối
tác, xác lập, thực hiện, thay đổi hay chấm dứt cho thấy biểu hiện rõ nét của
nguyên tắc này trên thực tế3. Học thuyết này nhằm tới mục đích công bằng
giữa các cá nhân thông qua tự do thương thuyết, và phát triển kinh tế thông qua
tự do cạnh tranh (laisser faire)4, có nghĩa là “để cho muốn làm gì thì làm”. Tư
tưởng này ngày nay được hiểu rằng, chủ nghĩa tự do kinh tế thời đó là một chế
độ tự do không giới hạn mà sự công bằng là kết quả tự nhiên có được từ luật
nghĩa vụ thích hợp được xây dựng trên nền tảng đặc biệt của sự bình đẳng thích
hợp. Hệ quả là các lý thuyết về luật tư ở thế kỷ XIX đều lấy tiền đề từ sự
thống trị của quyền tự do cá nhân vô giới hạn5. Các tư tưởng từ đó đã ảnh
3 PGS.TS Hoàng Thế Liên (chủ biên), Bình luận Khoa học BLDS 2005 (Tập III) Phần Thứ ba: Nghĩa
vụ dân sự và hợp đồng dân sự (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Viện Khoa học pháp lý, tr 2014.
4 Vũ Văn Mẫu (1963), Việt nam Dân luật lược khảo -Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước (In lần thứ nhất),
Nxb. Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn, tr. 84, trích trong tài liệu: Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí
và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (2), tr.12.
5 Andreas Abegg and Annemarie Thatcher, “Review essay- Freedom of contract in the 19th Century:
Mythology and silence of the sources, German Law Journal, No. 1 (1 January 2004), trích trong tài
liệu: Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (2), tr.12.


18


hưởng lớn tới Bộ luật Dân sự Đức 1900. Như vậy cả hai Bộ luật Dân sự (Bộ
luật Dân sự Pháp 1804 và Bộ luật Dân sự Đức 1900) làm hình mẫu cho các Bộ
luật Dân sự khác đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết tự do ý chí.
Với Common Law, tự do hợp đồng là một học thuyết trung tâm của luật
hợp đồng cổ điển. Học thuyết này nở rộ và phát triển đầy đủ vào khoảng nửa
cuối thế kỷ XIX. Tại đây, pháp luật được tạo ra bởi các thẩm phán và các học
thuyết pháp lý bị ảnh hưởng bởi: (1) Ý tưởng khế ước xã hội từ thời của Locke;
(2) Tư tưởng kinh tế cổ điển; và (3) Quan niệm về sự liên kết tự nguyện giữa
các chủ thể của quan hệ hợp đồng6. Học thuyết này có nguồn gốc từ Thời đại
Khai sáng với tư tưởng của Locke được thể hiện trong công trình Hai luận
thuyết về chính quyền chống lại quyền lực tối thượng thần thánh của các nhà
vua. Theo ông, xã hội vận hành tốt nhất khi các khế ước xã hội đã được định rõ
điều chỉnh hành vi của con người, và là cách thức tốt nhất để bảo vệ đời sống,
tự do và tài sản của cá nhân họ được gọi là các quyền tự nhiên7.
Các lý thuyết gia về hợp đồng ở thời kỳ cuối thế kỷ XIX đã tiến hành
các quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá và hệ thống hoá các vấn đề liên
quan tới hợp đồng để xây dựng nên một lý thuyết duy nhất dựa trên các giá trị
đạo đức thay thế cho các tín ngưỡng truyền thống có nền tảng là đạo đức đang
bị xói mòn. Kết quả là việc xem hợp đồng như luật giữa các cá nhân. Điều đó

6Lee Boldeman, The Cult of the Market: Economic Fundamentalism and its Discontents,
[ 2/7/2008, trích trong tài liệu: Ngô Huy
Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, (2), tr.12.
7Wikipedia,
the
free
encyclopedia,
Freedom
of

contract,
[ 2/2/2008, trích trong tài liệu: Ngô Huy Cương
(2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, tr.12.


19

có nghĩa là họ quan niệm nghĩa vụ hợp đồng phát sinh từ các ý chí của các cá
nhân trong một mối quan hệ hợp đồng cụ thể.
Ngày nay, các điều kiện của hợp đồng được giải thích căn bản trên cơ
sở học thuyết tự do ý chí. Người ta thừa nhận rằng ý chí là tự do và ý chí của
các bên là yếu tố duy nhất hình thành hợp đồng và làm phát sinh các hậu quả
pháp lý8. Nhưng với sự phát triển của xã hội, vì đời sống chung của cộng đồng,
nên tự do ý chí bị hạn chế trên các phương diện như ký kết, không ký kết, và
xác lập hay thay đổi nội dung của hợp đồng. Tuy nhiên, trong bất kể một công
trình nghiên cứu nghiêm túc nào về hợp đồng, vấn đề tự do hợp đồng hay tự do
ý chí đều được đề cập đến một cách thích đáng. Ở các bộ pháp điển hóa về hợp
đồng đều có các quy định về nguyên tắc tự do hợp đồng hay tự do ý chí.
Pháp luật của các nước đều thừa nhận quyền tự do hợp đồng. Pháp luật
hợp đồng của Nhật Bản được xây dựng trên nguyên tắc chủ đạo là tự do giao
kết hợp đồng. Nguyên tắc này biểu hiện ở các điểm sau: các chủ thể có quyền
giao kết hoặc không giao kết hợp đồng; giao kết với người này hoặc với người
khác, tự do xác định nội dung và hình thức của hợp đồng. Luật hợp đồng Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa cũng quy định: “Đương sự có quyền tự nguyện lập
hợp đồng theo luật pháp, không đơn vị hoặc cá nhân nào được phép can thiệp
bất hợp pháp” (Điều 4).
Đối với Việt Nam, nguyên tắc tự do hợp đồng là một trong những
nguyên tắc, một tư tưởng chỉ đạo đánh dấu một bước phát triển của pháp luật
dân sự về hợp đồng. Trước khi BLDS 1995 ra đời, Pháp lệnh hợp đồng dân sự

8 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 4, trích trong tài
liệu: Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (2), tr.13.


20

1991 quy định “hợp đồng dân sự được giao kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội” (Điều 4). Quy
định này cho thấy pháp luật dân sự trước đây đã không phản ánh được quyền tự
do giao kết hợp đồng của các chủ thể vốn là thuộc tính tất yếu phải có khi tham
gia ký kết hợp đồng dân sự, là nguyên tắc cốt lõi, quan trọng nhất của hợp đồng.
BLDS 2015 của Việt Nam định ra nguyên tắc: “Quyền tự do cam kết,
thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm,
nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội” (Điều 4).
Luật Thương mại 2005 của Việt Nam cũng có nguyên tắc: “Các bên có
quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật mỹ tục và
đạo đức xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
thương mại và bảo hộ các quyền đó” (Điều 11, khoản 1).
Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 quy
định tại Điều 1.1 rằng: “Các bên được tự do giao kết hợp đồng và thỏa thuận
nội dung của hợp đồng”. Cũng như vậy, nhưng có phần thận trọng hơn, các
nguyên tắc của Luật hợp đồng châu Âu quy định: “Các bên được tự do giao kết
hợp đồng và xác định nội dung của hợp đồng phụ thuộc vào các yêu cầu về
thiện chí và công bằng và các quy tắc bắt buộc được thiết lập bởi các Nguyên
tắc này” (Điều 1.02).
Qua các quy định này, chúng ta có thể nhận thấy tự do hợp đồng là một
nguyên tắc hết sức quan trọng của luật hợp đồng mà nếu không có nó thì các
thỏa thuận sẽ trở nên vô nghĩa vì không một quan hệ nghĩa vụ nào có thể được

tạo thành9.


21

Theo Adam Smith và Thomas Hobbes thì: “Tự do hợp đồng là một tư
tưởng mà theo đó các cá nhân được quyền tự do thoả thuận giữa họ với nhau
về các điều kiện của hợp đồng, không có sự can thiệp của chính quyền. Bất kể
những gì khác hơn các quy định tối thiểu và thuế có thể xem là sự vi phạm
nguyên tắc. Nó là trụ cột của học thuyết kinh tế tự do (the theory of laissezfaire economics). Các nhà kinh tế học xem xét nó như một lợi ích đối với xã hội
bởi làm tăng sự lựa chọn và làm giảm thất nghiệp gây ra bởi các quy định
chẳng hạn như tiền lương tối thiểu”10.
Tự do hợp đồng được xem xét ở hai khía cạnh khác nhau của sự lựa
chọn của chủ thể. Ở khía cạnh tích cực, chủ thể có quyền lựa chọn người giao
kết hợp đồng với mình, và có quyền lựa chọn ấn định hay thay đổi các điều
kiện của hợp đồng trong sự thoả thuận với bên kia. Ở khía cạnh tiêu cực, chủ
thể có quyền lựa chọn không giao kết hợp đồng, và có quyền lựa chọn rút lui
khỏi hợp đồng sau khi đã cân nhắc tới các hậu quả bất lợi cho việc đó (tuy
nhiên theo chúng tôi, đây là một điểm tranh luận). Khi nói tới tự do hợp đồng là
nói tới các khía cạnh đó.
Từ những nghiên cứu trên đây cho thấy, quyền tự do hợp đồng bao gồm
những thuộc tính cơ bản như sau:
Một là, quyền tự do hợp đồng là một trong những bộ phận cơ bản cấu
thành quyền tự do kinh doanh;
9 Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, (2), tr.13.

10Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contact, [ />contact], 2/2/2008, trích trong tài liệu: Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí
trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (2), tr.14.



22

Hai là, quyền tự do hợp đồng là quyền luôn được đặt trong khuôn khổ
pháp luật và bị ràng buộc bởi những giới hạn nhất định. Giới hạn này được thể
hiện trên hai phương diện, bao gồm: (i) mức độ ghi nhận của pháp luật về
quyền tự do của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế và (ii) những bảo
đảm pháp lý (khả năng bảo vệ của pháp luật) cho việc thực thi những quyền đó.
Tóm lại, quyền tự do hợp đồng là quyền của công dân, pháp nhân, là
một bộ phận của quyền tự do kinh doanh. Quyền này mang tính chất tự nhiên
(tức là không do Nhà nước ban phát) nhưng để trở thành “thực quyền” thì
quyền tự do hợp đồng phải được pháp luật Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực
hiện trên thực tế. Chính vì vậy, quyền tự do kinh doanh dù ở bất cứ nơi đâu
cũng phải nằm trong khuôn khổ và trong những giới hạn nhất định của pháp
luật. Các khuôn khổ, giới hạn này sẽ được “nới” dần theo đà phát triển của xã hội.
Cũng như các quyền khác, quyền tự do hợp đồng có nội dung rất cụ thể.
Nội dung của quyền này cũng không bất biến mà luôn có sự bổ sung theo
hướng ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn do sự hoàn thiện không ngừng của các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta. Quyền tự do hợp đồng bao
gồm các quyền cơ bản:
(1) Quyền lựa chọn đối tác;
Các bên có quyền tự do giao kết hợp đồng hoặc tự do không giao kết
hợp đồng với chủ thể nhất định mà không một tổ chức, cá nhân nào được ngăn
cản hay can thiệp vào quyền này một cách bất hợp pháp. Theo đó, các bên có
quyền tự quyết định việc đưa ra đề nghị hay không đưa ra đề nghị giao kết hợp
đồng cũng như nội dung của đề nghị giao kết. Khi nhận được đề nghị, các bên
có quyền tự quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị. Việc quyết


23


định ký hay không ký hợp đồng là do ý chí của các bên, không bị ảnh hưởng
bởi ý chí hay sự ép buộc của bên kia hay người thứ ba nào khác. Nói cách khác,
các chủ thể của lưu thông dân sự có quyền lựa chọn ký kết hợp đồng với chủ
thể này và từ chối ký kết hợp đồng với chủ thể khác theo ý chí của mình, không
ai có quyền can thiệp.
(2) Quyền lựa chọn đối tượng hợp đồng;
Các bên được tự do thoả thuận về đối tượng của hợp đồng phù hợp với
quy định của pháp luật. Việc lựa chọn đối tượng hợp đồng hoàn toàn do ý chí
của hai bên trong quan hệ hợp đồng trên cơ sở nhu cầu và sự thống nhất giữa
các bên giao kết mà không có sự ép buộc, can thiệp từ các chủ thể khác.
(3) Quyền quyết định nội dung của hợp đồng (quyền và nghĩa vụ các
bên trong hợp đồng);
Nội dung hợp đồng là toàn bộ các vấn đề mà các bên đã thoả thuận với
nhau. Nội dung của hợp đồng được thể hiện dưới dạng các điều khoản, chính là
các quyền và nghĩa vụ ràng buộc các bên giao kết với nhau. Khi đàm phán, ký
kết hợp đồng, các bên có quyền thể hiện ý chí của mình trong việc thoả thuận
về quyền và nghĩa vụ của các bên mà không bị ép buộc. Các chủ thể tự do quy
định các điều khoản của hợp đồng, các bên có quyền thoả thuận bất cứ nội
dung gì trong hợp đồng, miễn là không trái pháp luật.
(4) Quyền lựa chọn các biện pháp trách nhiệm pháp lý như phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại, mức phạt, mức bồi thường thiệt hại…;
Sau khi hợp đồng có hiệu lực, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy
đủ các nội dung trong hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có rất nhiều
trường hợp các bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng do thực hiện nghĩa vụ không


24

đúng, không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ theo thoả thuận gây thiệt

hại cho bên còn lại. Để đảm bảo tính bắt buộc thực hiện đúng hợp đồng và tôn
trọng sự thoả thuận của các bên khi giao kết hợp đồng, hạn chế rủi ro cho các
bên, pháp luật quy định nhiều biện pháp trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp
đồng. Theo đó, khi thoả thuận giao kết hợp đồng, các bên có quyền lựa chọn
các biện pháp trách nhiệm pháp lý như phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, các
bên có quyền tự quyết định về mức phạt, mức bồi thường thiệt hại mà không ai
có thể can thiệp được.
(5) Quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng;
Hình thức hợp đồng là phương thức ký kết, phương tiện ghi nhận nội dung
thoả thuận của các bên. Nó có thể là thủ tục ký kết hợp đồng hoặc hình thức thể
hiện thoả thuận của các bên, bằng lời nói, hành vi hoặc bằng văn bản, trừ
trường hợp do pháp luật quy định “cứng” thì các bên phải tuân theo. Hình thức
hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng. Nó là chứng cứ xác
nhận các quan hệ hợp đồng đã, đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách
nhiệm khi có vi phạm hợp đồng xảy ra. Các bên có quyền xác lập hợp đồng
dưới bất cứ hình thức nào, theo cách mà họ muốn, chỉ cần đạt được sự thoả
thuận, thống nhất ý chí của các bên là coi như hợp đồng đã hình thành. Sự thoả
thuận hợp đồng không phải theo một công thức nào. Các bên có thể lập hợp
đồng bằng cách trao đổi văn bản, thư từ truyền thống, bằng điện tín, bằng điện
thoại, qua mạng internet và các phương tiện điện tử khác… Các bên có quyền
tự do lựa chọn hình thức hợp đồng dưới dạng: bằng lời nói, cử chỉ, hành vi hay
bằng văn bản…
(6) Quyền tự do quyết định phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng;


25

Sau khi hợp đồng được giao kết hợp pháp, các bên có trách nhiệm nghiêm
túc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hợp đồng
luôn tiềm ẩn những vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Đó có thể là hành vi không

thực hiện hợp đồng, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ hợp
đồng làm cho lợi ích của bên kia có nguy cơ bị xâm hại, dẫn đến tranh chấp
hợp đồng. Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến, lợi ích giữa
các bên liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo thoả thuận hợp
đồng. Do tranh chấp hợp đồng phát sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng, nên
theo nguyên tắc tự do ý chí, việc giải quyết tranh chấp thuộc quyền tự định đoạt
của các bên. Theo nguyên tắc này, các bên trong hợp đồng có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp, địa điểm giải
quyết tranh chấp,… Nói cách khác, hình thức giải quyết tranh chấp, cơ quan
đứng ra giải quyết tranh chấp, nơi giải quyết tranh chấp… phụ thuộc vào sự
thỏa thuận của các bên. Khi có tranh chấp, các bên có thể tự quyết định việc
giải quyết bằng một trong các hình thức như thương lượng, hoà giải, trọng tài,
toà án.
1.1.2. Vai trò của quyền tự do hợp đồng đối với hoạt động của doanh nghiệp
Hình thức pháp lý chủ yếu của các quan hệ kinh doanh chính là hợp
đồng. Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ
thể nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự
do, tự nguyện, bình đẳng. Tự do ý chí luôn được xác định là nguyên tắc cốt lõi
của hợp đồng. Quyền tự do hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các
nhà kinh doanh. Thông qua việc thiết lập và thực hiện các hợp đồng, các bên có
thể tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách chủ động, sáng tạo và đạt
hiệu quả cao. Về mặt lý luận, quyền tự do hợp đồng được coi là một bộ phận


×