Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.62 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÙNG DANH TUYẾN

ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BỘ TƯ PHÁP


PHÙNG DANH TUYẾN

ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phùng Trung Tập



HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đề tài: “Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do
vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, có sự hỗ trợ và giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn PGS. TS Phùng Trung
Tập. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài này là trung thực được trình bày
dựa trên sự hiểu biết của bản thân, cộng với việc tra cứu, cập nhật, tìm hiểu
nguồn tài liệu dựa trên các bài viết của các thầy cô trong trường, các báo cáo,
sách chuyên khảo và website đã được liệt kê ở danh mục tài liệu tham khảo.


Hà Nội, ngày
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN

tháng

năm 2016

HỌC VIÊN THỰC HIỆN

HƯỚNG DẪN

PGS.TS Phùng Trung Tập

Phùng Danh Tuyến

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/ Ký hiệu


Cụm từ đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

NTD

Người tiêu dùng

BVQLNTD

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

TVPL


Tư vấn pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân

ATVSTP

An toàn vệ sinh thực phẩm

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Biểu đồ 1. Số lượng vụ khiếu nại, yêu cầu của người tiêu dùng giai đoạn 2011
- 2015 tại Bộ Công Thương, trang 67.
Biểu đồ 2. Số lượng khiếu nại, yêu cầu của người tiêu dùng tại các Sở Công
thương và UBND cấp huyện trên toàn quốc, trang 68.
(Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương, Báo cáo tổng kết công
tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giai đoạn 2011-2015 ngày 07/01/2015
tại thành phố Hà Nội).


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


3

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

5

4. Mục tiêu nghiên cứu

5

4.1. Mục tiêu tổng quát

5

4.2. Mục tiêu cụ thể

5

5. Câu hỏi nghiên cứu

5

6. Phương pháp nghiên cứu

6

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

6


8. Bố cục của luận văn

6

Chương 1
NGƯỜI TIÊU DÙNG, KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÁCH


NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU
DÙNG

8

1.1. Người tiêu dùng

8

1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng

8

1.1.2. Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam

11

1.1.3. Quyền lợi của người tiêu dùng bị vi phạm

17


1.2. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng

26

1.2.1.Khái niệm về trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng

26

1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng

29

Chương 2
ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

37

2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng

37

2.1.1. Có thiệt hại cho người tiêu dùng

37


2.1.2. Hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là hành vi trái pháp luật 40
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng và thiệt hại đã xảy ra trên thực tế

45

2.1.4. Có lỗi

47

2.2. Pháp luật một số nước quy định về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng49
2.2.1. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Hoa Kỳ

50

2.2.2. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan

51

Chương 3
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
KHI ÁP DỤNG ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ 56
3.1. Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng

56


3.1.1. Một số vụ việc về vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng

57


3.1.2. Thực trạng, nguyên nhân khiếu nại về vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng

64

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật khi áp dụng điều kiện phát sinh
trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng

74

3.2.1. Về “Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng”
quy định tại Bộ luật Dân sự

74

3.2.2. Cần quy định rõ về khái niệm “hàng hóa” và “dịch vụ” trong Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

77

3.2.3. Cần quy định rõ tư cách khởi kiện của người tiêu dùng bị vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng mà không phải là người mua hàng hóa

78

3.2.4. Hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng

79


KẾT LUẬN

82


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá, việc hòa nhập
vào nền kinh tế thế giới vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng đồng thời
cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới. Nhà nước đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong nước cũng như nước
ngoài được mở rộng sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Từ đó, việc cung
ứng những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã gia tăng nhanh chóng cả về số
lượng lẫn chất lượng giúp người tiêu dùng được có nhiều sự lựa chọn hơn
với sự tiện lợi ngày càng tăng.
Tuy nhiên, song song với mặt tích cực luôn là mặt tiêu cực, khi xuất
hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp, cá nhân làm ăn không chân chính,
phi pháp với nhiều phương tiện, thủ đoạn tinh vi hơn để thực hiện các hành
vi buôn bán gian dối, không trung thực. Xã hội nói chung và người tiêu dùng
nói riêng đã phải đối mặt với những vấn đề hàng ngày như vậy. Từ những
hành vi sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hóa không bảo đảm
chất lượng, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ cho đến sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường,
nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người, trái với thuần phong mỹ
tục hay việc thông tin, quảng cáo sai sự thật, lừa dối người tiêu dùng… đã và
đang xảy ra ngày càng phổ biến với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm
trọng trong đời sống hàng ngày. Đặc biệt trong thời gian gần đây, vấn đề

“thực phẩm bẩn” đang trở thành “quốc nạn”, được đưa tin hàng ngày, hàng
giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Người tiêu dùng giờ không biết
đặt niềm tin vào đâu để có thể bảo đảm an toàn thực phẩm bữa ăn hàng ngày
cho gia đình của mình.
Để có thể phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững thì bên cạnh
các chính sách, mục tiêu khác, chúng ta cần phải thực hiện được mục tiêu
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng - một tác nhân kinh tế ngày càng trở nên
quan trọng. Đây thực sự là một thách thức to lớn cho nhà nước nói chung và
các cơ quan quản lý nói riêng để bảo vệ người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy phát
triển nền kinh tế - xã hội bền vững.
Ngày nay mọi hoạt động của cá nhân đều phải tuân thủ theo những
quy định của pháp luật, pháp luật sẽ công nhận và bảo vệ lợi ích chính đáng
cho mọi người. Một khi những lợi ích này bị xâm phạm thì họ có quyền đòi
hỏi sự bồi thường và sự bù đắp hợp lý. Xuất phát từ việc cần thiết bảo vệ lợi
ích chính đáng trên những quy tắc đã được thể chế hóa thành một chế tài của
pháp luật dân sự đó là trách nhiệm dân sự và nó bắt buộc mọi công dân phải
tuân thủ.


9
Khi xảy ra tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thì người tiêu
dùng cần nhất là một cơ chế bảo vệ quyền lợi cho họ. Cùng với đó, vấn đề
trách nhiệm dân sự phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự
đặt ra nhằm áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật dân sự, gây ra những
hậu quả pháp lý bất lợi, từ đó là công cụ buộc chủ thể này phải khắc phục
những tổn thất đã gây ra.
Từ đó, có thể thấy, trách nhiệm dân sự có ý nghĩa quan trọng vì không
những có ý nghĩa pháp lý mà còn có giá trị thực tiễn cao trong việc khắc
phục hậu quả vi phạm, đảm bảo công bằng và ổn định xã hội. Ngoài ra, phần
đông người tiêu dùng không hiểu hết các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân

sự do vi phạm quyền của người tiêu dùng vì vậy đặt ra nhu cầu cần thiết
nghiên cứu lý luận và thực tiễn để góp phần đảm bảo hiệu quả quyền lợi của
người tiêu dùng trong thực tế.
Trong khi đó, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta còn nhiều
bất cập cả về phương diện quy định và gặp nhiều khó khăn khi thực thi.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
được bảo vệ bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều văn bản pháp luật
khác nhau như: Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Bộ luật
Dân sự năm 2005, Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007… và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, những quy định về bảo vệ người
tiêu dùng nói chung và quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng nói riêng, vẫn còn chung chung, các chính sách và chế
tài vẫn còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, bất cập cần phải được hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thực thi.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến điều
kiện phát sinh trách nhiệm dân sự - một trong những vấn đề tiên quyết gây ra
hậu quả pháp lý của các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn sẽ góp phần phân tích và
làm rõ các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, trên cơ sở đánh giá và so sánh với hệ thống pháp
luật của các quốc gia phát triển, thông qua đó có những đề xuất, kiến nghị
nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về vấn đề
này, tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện góp phần thúc đẩy sự phát triển bền
vững của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập. Xuất phát từ những
lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân
sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng” cho đề tài luận văn thạc sỹ Luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự là một nội dung rất
quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Điều kiện phát sinh trách nhiệm



10
dân sự quy định tại Điều 302 Bộ Luật Dân sự 2005 chỉ là những vấn đề
chung nhất, rất khó xác định đầy đủ chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, đồng thời tạo ra khả năng bảo đảm bồi
thường cho người bị thiệt hại một cách kịp thời và đầy đủ nhất. Trong khi
đó, nghiên cứu sâu về điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng lại là một vấn đề đặc thù hơn nữa, vừa mang tính
lý luận, lại đòi hỏi rất nhiều về thực tiễn trong cuộc sống. Đây là một vấn đề
mới, khó về lý luận và phức tạp trong thực tiễn áp dụng.
* Tổng quan tài liệu
Thực tế cho thấy trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền của người tiêu
dùng đặt ra nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn. Chế định này cũng chỉ
được đề cập thông qua các giáo trình và các đề tài về trách nhiệm dân sự nói
chung. Tuy nhiên, hiện tại các công trình nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào lý
luận trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chứ chưa có công
trình đi sâu nghiên cứu về điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng. Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay chỉ có
một số công trình gần với vấn đề này được công bố như: Luận văn thạc sĩ luật
học của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa về “Bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật dân sự Việt Nam” (năm 2009);
Luận văn thạc sĩ luật học “Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Hoàng Thủy
(năm 2013); Luận án tiến sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” (năm 2013); Luận văn thạc sĩ luật học
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người
tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Trần Tuyết Minh (năm 2014);
“Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các cơ
quan nhà nước tại Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn

Hoàng Mỹ Linh (năm 2014) hay bài viết về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
như: “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt
Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Hồng Trang trên tạp chí Dân chủ và pháp
luật - Bộ Tư pháp (số 12/2014, trang 22-26)...
Chính vì những lý do trên nên đề tài “Điều kiện phát sinh trách
nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng” là công trình khoa
học hiếm hoi nghiên cứu về vấn đề này. Đề tài nhằm giải quyết một cách
tương đối có hệ thống những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm dân sự do
vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, tập trung nghiên cứu sâu về “điều
kiện phát sinh” góp phần hoàn thiện pháp luật dân sự của nước ta, đáp ứng
được nhu cầu phát triển của xã hội, nhu cầu hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu


11
Luận văn tiến hành nghiên cứu lý luận về điều kiện phát sinh trách
nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng dựa trên quy định của:
Bộ luật Dân Sự 2005, Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010 và các văn bản pháp
luật khác có liên quan.
Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện phát
sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn trên cơ sở nghiên cứu lý luận về điều kiện phát sinh trách
nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng để tìm ra những nguyên
nhân và đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trách nhiệm dân sự do
vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
4.2. Mục tiêu cụ thể
Lý luận chung về trách nhiệm dân sự, đặc điểm của trách nhiệm dân sự
và điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu

dùng.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự
do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Nguyên nhân của những tồn tại và giải pháp hoàn thiện khung pháp lý
về trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
5. Câu hỏi nghiên cứu
5.1. Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là gì
và phát sinh lúc nào?
5.2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng
được xác định như thế nào?
5.3. Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay nhận thức như thế nào về
quyền và nghĩa vụ của mình?
6. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận về điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin được dùng để nghiên cứu. Các phương pháp
cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn này là:
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Làm rõ được các vấn đề lý luận như: khái niệm, đặc điểm trách nhiệm
dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng; khái niệm người tiêu dùng, điều
kiện phát sinh trách nhiệm dân sự.
Làm rõ được thực trạng quyền lợi của người tiêu dùng bị vi phạm trong
điều kiện hiện nay.


12
Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện phát sinh trách nhiệm
dân sự do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Làm rõ những vướng mắc, tồn tại và tìm ra giải pháp bảo đảm quyền

của người tiêu dùng.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái niệm trách nhiệm dân sự và đặc điểm của trách nhiệm
dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Chương 2: Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng.
Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi áp
dụng điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự.

Chương 1


13
NGƯỜI TIÊU DÙNG, KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Người tiêu dùng là chủ thể chính trong quan hệ trách nhiệm dân sự do
vi phạm quyền của người tiêu dùng. Để xác định chính xác quyền lợi, điều
kiện áp dụng trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền của người tiêu dùng thì
trước hết cần có cách hiểu đúng đắn về loại chủ thể này. Người tiêu dùng là
ai? Họ là cá nhân hay tổ chức? Việc xác định người tiêu dùng được thực hiện
theo tiêu chí nào? Người tiêu dùng có những quyền lợi gì và họ phải làm gì để
bảo vệ được quyền lợi của mình?
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 1999 và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, thì người tiêu
dùng gồm: “Người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng
sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Như vậy, nếu theo quy định trên, thì

người tiêu dùng là cá nhân, tổ chức mua sản phẩm với mục đích tiêu dùng,
luật không chỉ rõ người tiêu dùng chỉ là cá nhân, tổ chức mua hàng hóa để sử
dụng vào mục đích kinh doanh.
Tiêu dùng là việc tiêu thụ của cải vật chất để phục vụ sản xuất, sinh
hoạt. Do đó, tiêu dùng có thể là tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng cho
sinh hoạt. Tiêu dùng sản xuất là việc tiêu thụ vật chất để phục vụ quá trình sản
xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi nhuận. Tiêu dùng sinh hoạt là việc
mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ để phục vụ mục đích sinh hoạt hàng ngày,
không vì mục đích sinh lời. Rõ ràng, tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sinh hoạt
là hoàn toàn khác nhau dựa trên tiêu chí mục đích sinh lời hay không. Cũng
theo tiêu chí đó mà cách hiểu về người tiêu dùng cũng khác nhau tùy từng
quan điểm.
Có nhóm quan điểm cho rằng, người tiêu dùng có thể là cá nhân. Cá
nhân luôn có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ để phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của mình. Mặt khác, trong quan hệ với nhà sản xuất, kinh doanh
hàng hóa dịch vụ thì cá nhân là chủ thể yếu thế hơn, cần được bảo vệ. Cá
nhân không có đủ điều kiện về nhận thức, hiểu biết lẫn tài chính để bảo vệ
được quyền lợi của mình. Trong khi đó, các tổ chức có đủ các điều kiện về
nhân lực và tài chính cũng như các điều kiện tiếp xúc với hoạt động thương
mại để tự bảo vệ mình trước những vi phạm của nhà sản xuất và kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ. Mặt khác, hoạt động mua sắm của các tổ chức là phục vụ
cho mục đích sản xuất, kinh doanh, sinh lời của mình.
Một số nước trên thế giới hiện nay đang có cùng nhóm quan điểm này.
Điều 1 Luật bảo vệ người tiêu dùng của Bang Quebec - Canada nêu rõ:
“Người tiêu dùng là tự nhiên nhân (cá nhân) nhưng không phải là thương


14
nhân mua sắm hàng hóa, dịch vụ cho mục đích kinh doanh của mình”. Điều 2
Luật về hợp đồng tiêu dùng Nhật Bản năm 2000 quy định: “Người tiêu dùng

theo quy định của Luật này là cá nhân nhưng không bao gồm cá nhân tham
gia hợp đồng với mục đích kinh doanh”. Mặc dù không có điều khoản chỉ rõ
rằng người tiêu dùng là cá nhân, nhưng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
của Trung Quốc thông qua việc quy định tại Điều 2 đã ngụ ý người tiêu dùng
là cá nhân tiêu thụ vật chất vì nhu cầu sinh hoạt của mình. Điều 2 Luật này
nêu rõ: “Trường hợp người tiêu dùng vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ
theo quy định của Luật này và trường hợp luật này không quy định thì sẽ
được bảo vệ theo các quy định khác có liên quan của pháp luật”. Tuy nhiên,
nhóm quan điểm này vẫn có nhiều hạn chế. Trước hết cần nhận thấy rằng, tổ
chức theo quy định của pháp luật có nhiều loại: tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế- xã hội… không phải tổ chức nào cũng là doanh nghiệp
và không phải tổ chức, doanh nghiệp nào cũng có đủ các điều kiện về nhân
lực, tài chính, hiểu biết pháp luật để bảo vệ mình trước những xâm hại từ phía
nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Mặt khác, không phải lúc nào
việc mua sắm, tiêu dùng của tổ chức cũng là để nhằm mục đích sinh lời. Ví
dụ: mua sắm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của công nhân của một xí nghiệp.
Nếu coi đây là tiêu dùng vì mục đích sinh lời (phục vụ tái sử dụng nguồn lực
lao động) là hơi khiên cưỡng. Vì vậy, việc quan niệm người tiêu dùng chỉ là
cá nhân là không thật sự hợp lý.
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng người tiêu dùng có thể là cá nhân
hoặc tổ chức. Đáng kể nhất trong nhóm quan điểm này là quan điểm của Ấn
Độ. Theo Luật bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ thì người tiêu dùng là bất
cứ người nào, có thể là doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ
chức xã hội mua hàng hoặc thuê dịch vụ có trả tiền, đã thanh toán hoặc đã hứa
thanh toán một phần hoặc theo cách trả dần. Tuy nhiên, trong quan niệm về
người tiêu dùng của Ấn Độ, người tiêu dùng không bao gồm người mua hàng
hóa, sử dụng dịch vụ để phục vụ mục đích thương mại, kinh doanh.
Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam thuộc nhóm
quan điểm thứ hai. Trong Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng trước đây quy

định theo hướng người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân, tổ chức. Luật bảo vệ
người tiêu dùng năm 2010 cũng quy định: “Người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Việc quy định này đã ngụ ý người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và tổ chức.
Tuy nhiên, trong quy định này cũng thể hiện rõ ràng quan điểm người tiêu
dùng phải vì mục đích tiêu dùng sinh hoạt. Quan điểm này đã khắc phục được
hạn chế của nhóm quan điểm thứ nhất. Vì không phải tổ chức nào cũng có đủ
điều kiện để bảo vệ mình trước những xâm hại của nhà sản xuất, kinh doanh.


15
Mặt khác, tổ chức cũng có nhu cầu mua sắm, sử dụng dịch vụ để phục vụ nhu
cầu sinh hoạt thiết yếu cho người lao động của mình.
Vấn đề cần nhìn nhận ở đây là dù theo nhóm quan điểm nào thì vẫn
thống nhất ở nội dung người tiêu dùng phải vì mục đích tiêu dùng sinh hoạt,
không vì mục đích tiêu dùng sản xuất, kinh doanh, sinh lời. Điều này hoàn
toàn hợp lý bởi cá nhân, tổ chức tiêu dùng vì mục đích sinh lời đã được bảo
vệ bởi pháp luật thương mại, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật cạnh tranh…
1.1.2. Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam
Ở mỗi quốc gia, mỗi vùng miền và ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau,
đặc điểm người tiêu dùng cũng khác nhau. Điều đó xuất phát từ sự khác nhau
giữa các vùng miền, giai đoạn dẫn đến sự khác nhau trong nhận thức của
người tiêu dùng; sự khác nhau về điều kiện kinh tế xã hội sẽ chi phối cách
tiêu dùng khác nhau. Đơn giản nhất có thể thấy người tiêu dùng ở nông thôn
và thành thị hướng đến mục đích tiêu dùng khác nhau và từ đó cách tiêu
dùng của họ cũng khác nhau.
Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam không chỉ thu hút đầu tư cho
nước nhà mà còn mở ra nhiều cơ hội cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng
không chỉ có cơ hội tiếp cận với các sản phẩm, hàng hóa nhập khẩu mà còn
có cơ hội thông thương với các dịch vụ của các nước khác. Theo báo cáo quý

1/2016 về chỉ số niềm tin người tiêu dùng được công bố bởi Công ty Nielsen
- Công ty thông tin và đo lường toàn cầu, niềm tin của người tiêu dùng Việt
Nam tiếp tục đạt vị trí cao trong quý 1/2016 – đứng vị trí thứ 05 toàn cầu và
là một trong những quốc gia có mức độ lạc quan nhất với chỉ số đạt 109
điểm (tăng 01 điểm so với quý 4/2015).
Chỉ số Niềm tin người tiêu dùng của Việt Nam trong những năm qua
luôn ở trong Top 10 thế giới, tiếp tục giữ vững ở vị trí cao trong khi thị
trường kinh doanh tại thời điểm hiện tại tăng trưởng ở mức độ vừa phải. Nói
về chỉ số niềm tin người tiêu dùng Việt Nam gia tăng trong bối cảnh nhiều
quốc gia - đặc biệt là khu vực Đông Nam Á - chỉ số này có chiều hướng
giảm, các chuyên gia kinh tế cho rằng ít nhất, người tiêu dùng Việt Nam đã
bớt lo lắng về tình hình tài chính, kinh tế. Nói cách khác, người tiêu dùng lạc
quan hơn vì nền kinh tế có nhiều cải thiện, triển vọng của năm sau và các
năm sau nữa sẽ tốt hơn. Những gì chỉ số này cho thấy không phản ánh trực
tiếp hoạt động và hiệu suất của thị trường mà thay vào đó chỉ số này cho thấy
những hi vọng về tương lai của người tiêu dùng Việt. Nguyên nhân để có thể
lý giải cho điều này đó là đất nước chúng ta là một quốc gia có dân số trẻ,
với 57% dân số dưới 35 tuổi, số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường
tăng 60% trong vòng một thập kỷ qua. Một yếu tố khác để lý giải cho sự lạc
quan này đó chính là trung bình người tiêu dùng Việt Nam chi nhiều tiền hơn
cho bản thân họ để cải thiện lối sống và họ khát khao được có cuộc sống tốt


16
hơn mỗi ngày.
Người dân Việt Nam có thói quen tiết kiệm, trong bối cảnh chi phí
sinh hoạt ngày càng tăng cao thì xu hướng thay đổi thói quen chi tiêu để cắt
giảm chi phí sinh hoạt tiếp tục là ưu tiên hàng đầu của người Việt. 08 trên 10
người Việt Nam đã điều chỉnh thói quen trong 12 tháng vừa qua để tiết kiệm
chi phí (82%). Khoảng 3 trên 5 người Việt (61%) đã giảm chi tiêu cho quần

áo mới và cắt giảm chi phí giải trí bên ngoài (58%) so với cùng kỳ năm
ngoái. Khoảng một nửa người tiêu dùng Việt đã cắt giảm chi phí ga, điện
(47%) và chi phí điện thoại (44%)1.
Người tiêu dùng Việt Nam có thói quen đặt niềm tin vào các thương
hiệu sản phẩm, dịch vụ nổi tiếng. Hàng hóa có thương hiệu nổi tiếng qua
nhiều năm thường được đánh giá cao và thường được lựa chọn nhiều hơn vì
họ cho rằng mặc dù giá cao hơn nhưng sẽ được đảm bảo về chất lượng cũng
như an toàn hơn trong khâu sử dụng. Điều này tạo tâm lý an tâm cho người
tiêu dùng. Mặt khác, tuy chất lượng sản phẩm là một điều quan trọng nhưng
hiện nay những yếu tố về thẩm mỹ, về mẫu mã, cung cách, thái độ phục vụ
cũng được người tiêu dùng chú trọng và đôi khi đó lại là điều quan tâm hàng
đầu của người tiêu dùng. Một khi mức sống được nâng lên, người dân có khả
năng kinh tế thì tâm lý “ăn chắc mặc bền” cũng dần mất đi. Ý thức của người
tiêu dùng về quyền và nghĩa vụ của mình cũng được nâng cao, kiến thức về
tiêu dùng được cập nhật qua nhiều kênh thông tin. Trong tiêu dùng, người
tiêu dùng Việt Nam đã có sự quan tâm đến tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền
vững. Đó là một sự thể hiện ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng của người
tiêu dùng Việt Nam.
Với đặc điểm riêng về vùng miền, sự phát triển kinh tế xã hội, người
tiêu dùng ở Việt Nam mang 03 đặc điểm nổi bật là: tiêu dùng dựa trên giá trị,
người tiêu dùng có hiểu biết về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; người tiêu dùng
có trách nhiệm.
Một là, tiêu dùng dựa trên giá trị
Tiêu dùng dựa trên giá trị là hành vi lựa chọn những sản phẩm - dịch
vụ tốt, bền, giá cả phù hợp. Tiêu dùng dựa trên giá trị giúp thỏa mãn tối đa
nhu cầu của người tiêu dùng. Nói cách khác tiêu dùng là hoạt động sử dụng
giá trị của sản phẩm hay dịch vụ nào đó để thỏa mãn nhu cầu nhất định của
mình.
Khi người tiêu dùng chọn mua giá trị trong hàng hóa cũng đồng nghĩa
họ thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra các giá trị khác. Nói vậy, lựa chọn của

người tiêu dùng không chỉ đem đến giá trị tiêu dùng cho chính họ mà còn là
sự ghi nhận những giá trị của nhà sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ. Sự
1 Công ty Nielsen Holdings N.V, Consumer Confidence Concerns and spending intentions around
the world Quarter 1, 2016, Báo cáo Chỉ số niềm tin tiêu dùng Quý 1/2016.


17
ghi nhận đó chính là động lực giúp nhà sản xuất kinh doanh sáng tạo hơn,
đầu tư công sức nhiều hơn để hoàn thiện hay phát huy sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ của mình. Vì vậy, người tiêu dùng cần tìm hiểu doanh nghiệp trước
khi chọn mua sản phẩm. Nói khác đi, người tiêu dùng không chỉ lựa chọn
đúng giá trị tiêu dùng cho mình mà còn góp phần giúp nhà sản xuất, kinh
doanh, cung ứng dịch vụ tạo ra giá trị mới, góp phần tạo ra những giá trị lớn
hơn cho cộng đồng.
Tiêu dùng dựa trên giá trị tưởng rất dễ thực hiện nhưng trên thực tế
không phải là điều dễ dàng. Nói vậy bởi không phải người tiêu dùng nào
cũng thấy hết được giá trị của hàng hóa, sử dụng hàng hóa, sản phẩm và dịch
vụ đúng giá trị, đúng mục đích. Thậm chí, có những người mua sản phẩm,
hàng hóa hay sử dụng dịch vụ chỉ vì để thể hiện đẳng cấp của mình, chứ
không xuất phát từ việc cần thiết hay có nhu cầu. Vì vậy có khi người tiêu
dùng đó không hiểu hết, không sử dụng hết tính năng, công dụng của sản
phẩm, hàng hóa đó. Hiện nay trong giới trẻ xuất hiện trào lưu chạy đua theo
công nghệ. Mỗi lần một sản phẩm công nghệ mới được ra mắt là họ háo hức,
kỳ vọng và cố gắng mua bằng mọi cách nhưng không phải ai trong số họ
cũng thật sự cần đế đáp ứng nhu cầu sử dụng, không phải ai cũng hiểu và sử
dụng hết các tính năng của các sản phẩm công nghệ. Vì vậy, để tiêu dùng
dựa trên giá trị, sử dụng đúng giá trị và thúc đẩy tạo ra những giá trị mới thì
cần trước hết thái độ tích cực của người tiêu dùng và ý thức xây dựng, phát
triển, đóng góp cho cộng đồng của nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm hàng
hóa, cung ứng dịch vụ.

Hai là, người tiêu dùng có tri thức hiểu biết về hàng hóa, dịch vụ
Tiêu dùng thông minh là hành vi tiêu dùng dựa trên tư duy nhận thức,
tiêu dùng những gì mình biết, mình hiểu rõ, tập hợp những thông tin đầy đủ
của sản phẩm, của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn, không bị tác
động của các tiêu dùng khác để bảo vệ lợi ích bản thân, cộng đồng và xã hội.
Trước đây, người tiêu dùng chỉ mua những gì nhà sản xuất bán ra mà
không biết rõ nguồn gốc, xuất xứ, thành phần, công dụng, chất lượng.
Nhưng hiện nay, người tiêu dùng Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn đến chất
lượng sản phẩm, nguồn gốc xuất xứ, hạn sử dụng sản phẩm…. Trên thực tế,
các trang web, diễn đàn chia sẻ về cách phân biệt hàng thật, hàng giả đã nhận
được nhiều hơn sự quan tâm của người tiêu dùng.
Người tiêu dùng Việt Nam đã quan tâm đến việc kiểm tra hàng hóa,
sản phẩm thông qua mã số, mã vạch. Người tiêu dùng, đặc biệt là nhóm
người tiêu dùng trẻ tuổi thậm chí còn quan tâm đến những phản hồi về hàng
hóa, sản phẩm mình quan tâm trước khi mua hàng hóa, sản phẩm đó. Điều
đó, giúp người tiêu dùng chọn được sản phẩm đúng với nhu cầu của mình và
tránh bị xâm phạm lợi ích.


18
Ba là, người tiêu dùng có trách nhiệm
Trách nhiệm được nói đến ở đây là trách nhiệm đối với xã hội. Tiêu
dùng có trách nhiệm là hành vi tiêu dùng mang tính xã hội cao. Nói cách khác
tiêu dùng có trách nhiệm là việc người tiêu dùng sử dụng những hàng hóa dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đời sống cá nhân nhưng đồng thời sự lựa chọn của
họ góp phần phát triển kinh tế cùng với việc nâng cao chất lượng cuộc sống
của cộng đồng và xã hội.
Người tiêu dùng trong những năm gần đây đã biết lựa chọn những
hàng hóa trong nước sản xuất, hàng hóa sản phẩm của những doanh nghiệp
có trách nhiệm với xã hội, đóng góp cho phúc lợi xã hội. Tiêu dùng có trách
nhiệm còn thể hiện ở việc người tiêu dùng biết bài trừ những hành vi vi

phạm quyền lợi của người tiêu dùng, không lựa chọn sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ của các doanh nghiệp có hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng. Không những thế, chính những người tiêu dùng có trách nhiệm lại còn
lan truyền, phổ biến và nhân rộng thái độ trách nhiệm đó ra cộng đồng.
Những vụ việc vi phạm về an toàn thực phẩm như: mỡ bẩn, riềng chứa hóa
chất, hoa quả ngậm hóa chất đến thịt lợn chứa kháng sinh… đã được phát
hiện, được chính những người tiêu dùng chia sẻ, kêu gọi bài trừ mạnh mẽ
trên các trang mạng, tạo làn sóng phản đối mạnh mẽ đối với các hành vi vi
phạm nghiêm trọng quyền lợi người tiêu dùng này. Điều này không những
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường mà còn góp phần phát triển nền kinh tế và ổn định xã hội. Đó chính là
trách nhiệm của người tiêu dùng đối với xã hội và với chính cuộc sống của
họ.
Tiêu dùng có trách nhiệm sẽ thúc đẩy kinh doanh có trách nhiệm. Sự
lựa chọn thông minh, có chủ đích của khách hàng sẽ tạo ra động lực thúc đẩy
những nhà sản xuất kinh doanh chân chính. Đồng thời, thái độ và văn hóa
của người tiêu dùng đặt ra tiêu chuẩn, chuẩn mực cho sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ để những nhà sản xuất, phân phối, kinh doanh hướng đến.
Một điều dễ nhận ra là trong những năm gần đây, cùng với sự biến đổi
của nền kinh tế, của sự gia tăng các vi phạm về hàng hóa, sản phẩm, đặc biệt
là vi phạm về an toàn thực phẩm nên người tiêu dùng đã quan tâm nhiều hơn
đến việc mua bán tại siêu thị. Nếu như trước đây, người dân hướng đến tiêu
chí “ăn chắc mặc bền” thì nay tiêu dùng hướng đến “sạch, rõ nguồn gốc”.
Với tâm lý đó, người dân đã hạn chế mua sắm ở chợ hay vỉa hè, thay vào đó
là đến siêu thị. Tuy nhiên, cách thức người tiêu dùng Việt Nam mua sắm
trong siêu thị cũng là một vấn đề đáng bàn. Việc lựa chọn sản phẩm, hàng
hóa trong siêu thị một cách cảm tính, sắp xếp bừa bộn giữa các gian hàng,
gian lận trong siêu thị… là những hành vi tiêu dùng thiếu trách nhiệm, thiếu
văn minh.



19
Tâm lý sính ngoại, sử dụng hàng ngoại, hàng hiệu như một cách để
khẳng định giá trị bản thân, sự giàu có của mình là vấn đề đã tồn tại lâu nay
trong văn hóa tiêu dùng của người tiêu dùng Việt Nam. Họ sẵn sàng chi
những khoản tiền lớn cho những mặt hàng nhằm thể hiện cá tính và sự khác
biệt trước đám đông như điện thoại di động, xe hơi, các mặt hàng công nghệ
đều phải thể hiện cho được đẳng cấp của người chủ, cho dù đôi khi công
năng sử dụng... Bỏ qua bộ phận những người tiêu dùng giàu có, dân trí cao,
mua sắm hàng ngoại do hiểu biết về công năng sử dụng, nguồn gốc xuất xứ
và giá trị sử dụng của hàng hóa, sản phẩm; còn đại đa số người tiêu dùng
nhất là giới trẻ chạy theo hàng ngoại chủ yếu do bắt chước để khẳng định
bản thân.
Vì lẽ đó, với tinh thần tiêu dùng có trách nhiệm, người tiêu dùng Việt
Nam những năm gần đây nhắc nhiều đến “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”. Đó là chính sách phát triển kinh tế tiêu dùng của nhà nước, đồng
thời cũng là sự khích lệ không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước.
1.1.3. Quyền lợi của người tiêu dùng bị vi phạm
1.1.3.1. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng
Khi chúng ta nói đến các quyền của người tiêu dùng một cách chung
chung, hệ thống đó cũng bao gồm các quyền khác như nhân quyền, quyền xã
hội, các quyền chính trị và quyền kinh tế của con người. Tuy nhiên, xem xét
dưới góc độ luật pháp về bảo vệ người tiêu dùng, các quyền cơ bản này có
những ý nghĩa cụ thể xác định.
Theo Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật: “Lợi ích của người tiêu
dùng ở đây được hiểu là những điều có lợi, có ích (trong đó có lợi ích kinh
tế) cho người tiêu dùng thông qua việc thực hiện được những quyền của
người tiêu dùng”2.
Quyền lợi của người tiêu dùng được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp
luật của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học pháp lý

vẫn chưa có khái niệm cụ thể về quyền lợi của người tiêu dùng. Bản hướng
dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng cũng chỉ nêu ra những
quyền cơ bản của người tiêu dùng.
Dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, có thể hiểu:
Quyền lợi của người tiêu dùng đó là khả năng của người tiêu dùng được Nhà
nước cho phép và ghi nhận trong pháp luật cũng như những lợi ích vật chất
và tinh thần mà người tiêu dùng được hưởng từ việc được Nhà nước bảo hộ
những khả năng trên.
2 Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1999), Tìm hiểu luật bảo vệ người tiêu dùng các nước
và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, NXB Lao động, tr.214.


20
Năm 1983, Liên hợp quốc đã chính thức tuyên bố ngày 15 tháng 3 là
ngày Quyền của người tiêu dùng thế giới. Ngày 09 tháng 4 năm 1985, nhờ
có những cố gắng vận động không ngừng của Tổ chức Quốc tế Liên minh
người tiêu dùng (nay đã đổi tên thành Quốc tế người tiêu dùng), Liên hợp
quốc đã thông qua một tập hợp “Các Nguyên tắc chỉ đạo về Bảo vệ người
tiêu dùng” (các nguyên tắc này sau đó được sửa đổi vào năm 1999). Các
nguyên tắc này nêu lên các quyền lợi và nhu cầu của người tiêu dùng trên
toàn thế giới và tạo ra một khuôn khổ mà theo đó các Chính phủ, đặc biệt là
Chính phủ các nước đang phát triển hoặc vừa giành được độc lập, có thể sử
dụng để soạn thảo, hay củng cố chính sách và pháp luật bảo vệ người tiêu
dùng tại quốc gia họ.
Bản Nguyên tắc này của Liên hợp quốc đã vạch ra 08 lĩnh vực cơ bản
có thể phát triển các chính sách bảo vệ người tiêu dùng, nay được chuyển
thành 08 quyền cơ bản của người tiêu dùng, bao gồm các quyền sau:
- Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
- Quyền được an toàn;
- Quyền được thông tin;

- Quyền được lựa chọn;
- Quyền được lắng nghe;
- Quyền được khiếu nại và bồi thường;
- Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
- Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Với sự thừa nhận của Liên hợp quốc, những quyền của người tiêu
dùng đã được đưa lên vị trí hợp pháp và được cộng đồng thế giới công nhận.
Chính phủ các nước đã cụ thể hóa nội dung của 08 quyền này trong pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng của nước mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài số
đó, Nhà nước ta đã thực sự quan tâm và ghi nhận quyền của người tiêu dùng
ngay trong Hiến Pháp: “Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người
sản xuất và người tiêu dùng”.
Quyền cơ bản của người tiêu dùng được quy định cụ thể và đầy đủ tại
Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010:
“Điều 8. Quyền của người tiêu dùng
1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ ; nguồn gốc xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa
đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về
hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa


21
dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc
không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch
với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về

giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao
dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá
cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã
công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện
để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ. ”
1.1.3.2. Quyền lợi của người tiêu dùng bị vi phạm
Luật bảo vệ người tiêu dùng đã cụ thể hóa các quyền của người tiêu
dùng. Đó là những khả năng mà người tiêu dùng được ghi nhận, được thực
hiện để bảo vệ mình trong mối quan hệ với nhà sản xuất, phân phối, kinh
doanh, cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, hiện nay, những quyền này của người
tiêu dùng đang bị vi phạm khá nghiêm trọng.
Quyền an toàn là một quyền quan trọng của người tiêu dùng nhất là
trong giai đoạn hiện nay, khi mà an toàn thực phẩm và ô nhiễm môi trường
đang trở thành vấn đề cấp thiết của đời sống tiêu dùng. Người tiêu dùng
không chỉ được đảm bảo an toàn về thực phẩm mà còn được đảm bảo an toàn
khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác. Nếu trong quá trình sản xuất, cung
cấp dịch vụ, các sản phẩm và dịch vụ cung ứng chứa đựng nguy cơ mất an
toàn cho người tiêu dùng thì bị coi là hành vi vi phạm.
Nếu tội danh vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp
luật hiện hành quy định người chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết
rõ không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại nghiêm trọng sức

khỏe của người tiêu dùng bị phạt phải đối mặt mức án 1-5 năm, thì tại Bộ
Luật Hình sự 2015 tội danh này được quy định chi tiết hơn. Cụ thể, người sản
xuất, chế biến thức ăn nếu phạm 4 lỗi sau sẽ bị phạt tiền 50-200 triệu đồng
hoặc phạt tù từ 1 đến 5 năm:


22
Thứ nhất, hành vi sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến,
bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm
có sử dụng chất cấm.
Thứ hai, người sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm
muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng
vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm.
Thứ ba, người sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc
bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh mục được phép sử
dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản
xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm. Cụ thể, những chất này sử dụng
trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng
vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm.
Thứ tư, hành vi chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là
thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực
phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia,... hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ trong
sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm. Việc sử dụng này gây tổn hại
cho sức khỏe của một người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể
của những người này từ 31% đến 60%. Hành vi đó khiến người phạm tội thu
lợi bất chính từ 50 đến 100 triệu đồng.
Người vi phạm nếu thực hiện các hành vi nói trên có tổ chức, làm chết
người, tái phạm nhiều lần, nguy hiểm… khung hình phạt sẽ mở rộng từ 03

đến 20 năm thay vì 3-15 năm như luật cũ. Số tiền bị phạt cũng cao hơn, lên
tới 500 triệu đồng.
Như vậy, quyền an toàn của người tiêu dùng đã được quan tâm nhiều
hơn, quy định đảm bảo quyền an toàn cũng ngày càng chặt chẽ và có tính răn
đe hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế quyền an toàn vẫn còn bị xâm phạm
nhiều và tính khả thi khi thực hiện quyền này vẫn còn thấp. Hiện nay, thực
phẩm tràn lan: hoa quả ngâm hóa chất; rau tồn dư lớn thuốc bảo vệ thực vật;
thịt lợn, thịt gia cầm, cá tồn dư kháng sinh, chất tăng trọng; thậm chí gia vị
cũng chứa hóa chất lạ… Người tiêu dùng hay thậm chí cơ quan có thẩm
quyền cũng không thể bằng mắt thường phân biệt những vi phạm này mà cần
đến kiểm nghiệm của cơ quan chức năng chuyên môn. Thậm chí, chính người
sản xuất cũng không ý thức được hành vi của mình là vi phạm hoặc có lúc vì
vô ý mà dẫn đến vi phạm. Chẳng hạn, danh mục các nhóm phụ gia thực phẩm
theo Quy chuẩn IV quốc gia về phụ gia thực phẩm thì các hóa chất trong độ
tinh khiết nhất định và hàm lượng nhất định thì mới được coi là phụ gia thực
phẩm, là chất được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, hiện
nay các cơ sở chế biến thực phẩm (giò, chả, đồ ăn sẵn, thức uống sẵn, bánh


23
mì, bánh ngọt…) và phụ gia thực phẩm (riềng xay, tiêu xay, ớt xay, tương
cà….) hầu hết là các cơ sở nhỏ lẻ, kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh,
sản xuất thủ công theo thói quen, không có quy trình hay sự kiểm tra về liều
lượng, quy chuẩn. Vì vậy, vi phạm diễn ra khá thường xuyên, khó khắc phục.
Quyền được thông tin đem đến cho người tiêu dùng sự an tâm đồng
thời đóng góp không nhỏ vào uy tín của nhà sản xuất, phân phối, cung ứng
dịch vụ. Thông tin ở đây là thông tin về sản phẩm, dịch vụ, có khi là thông tin
về nhà sản xuất, phân phối. Thông tin có thể được thể hiện trên bao bì hàng
hóa, nhãn hàng hóa hoặc do nhà sản xuất, phân phối, cung ứng dịch vụ cung
cấp cho người tiêu dùng dưới hình thức khác. Thông tin cung cấp cho người

tiêu dùng những hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ để lựa chọn đúng mục đích
tiêu dùng của mình. Thông tin đầy đủ, chính xác sẽ đem đến nhận thức đúng
về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và ngược lại. Do đó việc thông tin không
chính xác, không trung thực sẽ dẫn đến thiệt hại đáng tiếc cho người tiêu
dùng. Vì vậy, hành vi quảng cáo sai sự thật, cung cấp thông tin sai bị coi là
hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Đây là quy định hoàn toàn
mới của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng so với Pháp lệnh bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trước đây. Tuy nhiên, việc quảng cáo sai, cường điệu hóa
công dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đang khá phổ biến. Đi liền với
việc này là giá cả của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ bị đẩy cao gấp nhiều lần.
Biến tướng rõ nhất là ở hình thức bán hàng đa cấp. Với sự hạn hẹp về nhận
thức, trình độ, nhiều người tiêu dùng đã bị các thông tin sai lệch đánh lừa, rơi
vào cạm bẫy. Đặc biệt, ở các mặt hàng là thực phẩm chức năng, mỹ phẩm,
dịch vụ làm đẹp thì việc thông tin, quảng cáo không đúng sự thật càng trầm
trọng. Trong những năm qua, trên các trang mạng xuất hiện dày đặc các
quảng cáo, thậm chí là các clip thực nghiệm việc sử dụng các sản phẩm làm
trắng da với các cụm từ phổ biến như “cấp tốc”, “trắng ngay sau lần đầu tiên
sử dụng”, “trắng như sứ không bắt nắng lại”…. Nhưng thực tế các sản phẩm
làm trắng da đó lại không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thậm chí một số sản
phẩm còn chứa Corticoid gây nguy hại cho sức khỏe người tiêu dùng.
Quyền được lựa chọn là khả năng lựa chọn sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
của người tiêu dùng. Quyền lựa chọn của người tiêu dùng đã hạn chế được
tình trạng “đầu cơ”; đồng thời giúp giảm bớt hàng giả, hàng nhái. Sự phát
triển của nền kinh tế, sự đa dạng của hàng hóa, dịch vụ đã đem đến sự lựa
chọn nhiều hơn cho người tiêu dùng. Nhưng các hành vi vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng càng ngày càng tinh vi, nên sự lựa chọn của người tiêu
dùng vì thế cũng bị hạn chế. Các sản phẩm, hàng hóa không chỉ bị làm giả
mạo bao bì hàng hóa, nhãn hàng hóa mà còn bị làm giả về chất lượng. Người
tiêu dùng vào siêu thị để mong muốn mua hàng đúng chất lượng, đảm bảo lựa
chọn của mình là thông minh và có trách nhiệm. Nhưng trong siêu thị vẫn còn



24
tồn tại “táo trung quốc dán tem táo Mỹ, táo Newzeland”; vẫn còn tồn tại “nấm
không rõ nguồn gốc xuất xứ”. Đó là những hành vi vi pham một cách tinh vi
ảnh hưởng rất lớn đến quyền lựa chọn của người tiêu dùng.
Quyền được lắng nghe cho người tiêu dùng khả năng được đặt ngang
tầm trong mối tương quan với Nhà nước và nhà sản xuất, kinh doanh. Sự lắng
nghe ở đây là sự lắng nghe của nhà nước và nhà sản xuất, phân phối, kinh
doanh, cung ứng dịch vụ về những thắc mắc, băn khoăn, ý kiến của người tiêu
dùng. Đặc quyền này hoàn toàn hợp lý bởi trong người tiêu dùng thường
mang tính cá thể, riêng biệt không tập hợp được sức mạnh, họ cần có những
cơ quan thực sự chuyên biệt đại diện cho họ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của
họ. Chính những cơ quan này sẽ là cầu nối giữa người tiêu dùng và nhà sản
xuất, kinh doanh. Những phản ánh của người tiêu dùng sẽ giúp nhà sản xuất,
kinh doanh, cung ứng dịch vụ thấy được những hạn chế, thiếu sót để hoàn
thiện.
Người tiêu dùng được giữ một vị trí quan trọng trong việc đóng góp ý
kiến với những cơ quan hoạch định chính sách pháp luật liên quan tới chính
quyền lợi của họ. Vì chỉ có người tiêu dùng mới biết mình có nhu cầu gì, cần
được đáp ứng những gì. Những ý kiến của họ được ghi nhận trong luật thì
việc thực thi chắc chắn sẽ hạn chế được những bất cập, thỏa mãn những
nguyện vọng của người tiêu dùng.
Người tiêu dùng còn được ghi nhận quyền được bồi thường. Quyền
được bồi thường hạn chế, khắc phục những “rủi ro” cho người tiêu dùng khi
mua hoặc sử dụng những sản phẩm, dịch vụ không như ý. Đồng thời người
tiêu dùng cũng có quyền được khiếu nại, khởi kiện nhà sản xuất, kinh doanh
khi sản phẩm, dịch vụ được cung cấp có “sự cố” bao gồm việc thông tin,
quảng cáo sai sự thật; không đúng chất lượng, mẫu mã như trong hợp đồng
giao kết; thái độ, cung cách phục vụ… Quyền được bồi thường và quyền được

khiếu nại, tố cáo là hai quyền rất quan trọng và thiết thực của người tiêu dùng.
Theo Nghị định số 99/2011/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, sau khi tiếp nhận yêu
cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải
quyết yêu cầu. Trường hợp cần thiết cơ quan có thẩm quyền yêu cầu các bên
giải trình, cung cấp thêm thông tin, tài liệu phục vụ cho việc giải quyết yêu
cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ
ngày tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hợp lệ, cơ quan có
thẩm quyền phải trả lời theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Nếu trong trường hợp các vụ việc phức tạp, thời hạn trả lời có thể được
gia hạn, nhưng không được quá 15 ngày làm việc. Trong quá trình giải quyết
yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nếu cơ quan có thẩm quyền xác
định vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, hoặc


25
vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác, thì chuyển hồ sơ vụ
việc cho cơ quan đó giải quyết, nhưng phải có văn bản trả lời người tiêu
dùng…
Mặc dù vậy, quyền khiếu nại và quyền được bồi thường của người tiêu
dùng hiện nay cũng gặp nhiều vướng mắc khi thực thi. Việc khiếu kiện phải
đúng đắn, chính xác và người tiêu dùng chỉ được bồi thường khi đảm bảo các
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng. Tình trạng nhãn hàng hóa, sản phẩm ghi không chính xác tên, địa
chỉ của thương nhân sản xuất, phân phối hay hàng hóa, sản phẩm giả nhãn, giả
mạo bao bì hiện nay tồn tại khá nhiều. Khi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa,
sản phẩm đó, gây thiệt hại, người tiêu dùng thực hiện quyền khiếu nại của
mình thì bị đơn chỉ là những “công ty ma”, không thể xác định được. Hơn
nữa, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng không phải lúc nào cũng xác định được rõ ràng, đơn giản và

chính xác. Mặt khác, quá trình khiếu kiện thường kéo theo những chi phí tố
tụng, tốn kém thời gian và tiền bạc. Vì vậy, không phải lúc nào có vi phạm
xảy ra thì quyền khiếu nại, khiếu kiện và quyền được bồi thường của người
tiêu dùng cũng được thực hiện.
Giáo dục về tiêu dùng sẽ giúp người tiêu dùng thực hiện được các
quyền của mình một cách đầy đủ nhất và tự ý thức được trách nhiệm và vị thế
của mình trong tiêu dùng. Giáo dục người tiêu dùng được thực hiện bằng việc
tuyên truyền phổ biến pháp luật, các thông tin trên các phương tiện thông tin
đại chúng, những buổi trao đổi tại các hội chợ… Hàng hóa tràn ngập thị
trường và những dịch vụ nhan nhản mọc lên nếu không có những kiến thức
cần thiết về tiêu dùng thì người tiêu dùng sẽ tự biến mình thành con mồi trước
những chiêu thức tinh vi của nhà sản xuất kinh doanh, mặt khác họ cũng phải
tự chịu trách nhiệm khi không tuân thủ đúng những nguyên tắc mà nhà sản
xuất hướng dẫn. Vì vậy, người tiêu dùng cần được trang bị những kiến thức
về tiêu dùng. Đối với những sản phẩm công nghệ cao, những sản phẩm cần có
sự bảo quản đặc biệt… thì người tiêu dùng cần phải được hướng dẫn, chú
thích tỉ mỉ để tránh những sự cố không mong muốn trong quá trình sử dụng.
1.2. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng
Trong cuộc sống thường ngày, cụm từ “trách nhiệm” được sử dụng với
nhiều ý nghĩa khác nhau. Trách nhiệm được hiểu là bổn phận, ý thức của con
người về vai trò của mình đối với gia đình, công việc, xã hội… Từ điển Tiếng


×