Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----
-----

NGUYỄN KIM NGÂN

NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----
-----

NGUYỄN KIM NGÂN

NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Phương Thảo

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS Trần Phương Thảo – Giảng viên Khoa Pháp luật Dân
sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Những thông tin, số liệu và trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và chính xác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Kim Ngân

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLTTDS
2. KSV

: Bộ luật Tố tụng dân sự
: Kiểm sát viên

3. TAND


: Tòa án nhân dân

4. TTDS

: Tố tụng dân sự

5. VKS

: Viện kiểm sát

6. VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

7. VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng

Trang

Bảng 3.1. Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý của
VKSNDTC từ năm 2010 đến năm 2015


68 - 69

Bảng 3.2. Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý của
VKSND thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2015

69

Bảng 3.3. Thống kê kết quả công tác kiểm sát bản án, quyết
định của Tòa án của VKSNDTC từ năm 2010 đến năm 2015

70

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

4

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

4


5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

5

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5

7. ‎Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

5

8. Kết cấu của luận văn

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong Tố tụng dân sự
7
1.1.1 Khái niệm của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng
dân sự
7
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng
dân sự
12
1.2 Cơ sở của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng

dân sự
13
1.2.1 Cơ sở lý luận của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố
tụng dân sự
13
1.2.2 Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố
tụng dân sự
16
1.3 Mối quan hệ của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật với các
nguyên tắc khác trong Tố tụng dân sự
19
1.3.1 Mối quan hệ với nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong Tố tụng dân sự (Điều
3)
19
1.3.2 Mối quan hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp (Điều 4)
20
1.3.3 Mối quan hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
(Điều 5)
21
1.3.4 Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự (Điều 9)
23
1.3.5 Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng (Điều 13)
24
1.4 Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong Tố tụng dân sự trong pháp luật Việt Nam
25
1.4.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959


26

1.4.2 Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1989

27

1.4.3 Giai đoạn từ năm 1989 đến trước ngày 01/01/2005

28

1.4.4 Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

31


Chương 2
NỘI DUNG NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH
2.1 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Toà án cấp sơ thẩm

33

2.1.1 Kiểm sát hoạt động thụ lý vụ việc dân sự và trả lại đơn khởi kiện


33

2.1.2 Kiểm sát các hoạt động chuẩn bị xét xử

37

2.1.3 Kiểm sát thủ tục tiến hành phiên tòa, phiên họp sơ thẩm vụ án dân sự của
Tòa án nhân dân
41
2.2 Kiểm sát các hoạt động tại tòa án cấp phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm
54
2.2.1 Kiểm sát thông qua việc kháng nghị phúc thẩm và tham gia phiên tòa,
phiên họp phúc thẩm
54
2.2.2 Kiểm sát thông qua việc kháng nghị và tham gia phiên tòa giám đốc thẩm,
tái thẩm
60
2.3 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm
63
2.4 Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị

64

2.4.1 Thực hiện quyền yêu cầu

64

2.4.2 Thực hiện quyền kiến nghị


65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

66

Chương 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC KIẾM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN
3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
Tố tụng dân sự
68
3.1.1 Những kết quả đạt được

68

3.1.2 Một số tồn tại, vướng mắc trong hoạt động Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đối với vụ án dân sự
74
3.1.3 Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, vướng mắc trên

78

3.2 Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu
quả nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự 79


3.2.1 Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong Tố tụng dân sự
79
3.2.2 Các kiến nghị bảo đảm tổ chức thực hiện nguyên tắc Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong Tố tụng dân sự
82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

84

KẾT LUẬN CHUNG

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


9

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn
đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để
thực hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc cải cách tổ
chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). VKSND được thành lập để đại diện cho Nhà
nước trong lĩnh vực duy trì và bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật trên cả hai
khía cạnh: Một là, bảo đảm cho các quy định của pháp luật được chấp hành
nghiêm minh; Hai là bảo đảm cho các quyền của công dân do pháp luật quy định

phải được tôn trọng. Có thể khằng định, VKSND có vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm pháp chế thống nhất, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn cách mạng của đất nước.
VKSND Việt Nam được thành lập từ năm 1960, cho đến nay đã trải qua hơn 55
năm tồn tại, trưởng thành, phát triển và thực hiện được nhiều nhiệm vụ quan
trọng, trong đó có nhiệm vụ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân
sự (TTDS). Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát (VKS) trong TTDS được ghi nhận ở những mức độ khác nhau, từ việc
quy định những quyền hạn của VKS trong TTDS rải rác ở các văn bản pháp luật
và các văn bản hướng dẫn thi hành đến việc khẳng định, ghi nhận Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của
TTDS và là cơ sở để quy định trách nhiệm, thẩm quyền cụ thể của VKSND
trong TTDS.
Từ ngày được thành lập đến nay, đất nước ngày càng phát triển và mở rộng hội
nhập quốc tế nên pháp luật cũng đã có nhiều thay đổi. Theo đó, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của ngành kiểm sát cũng thay đổi theo cho phù hợp với tiến
độ cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước. Thời gian qua đã có quan điểm cho
rằng, trong TTDS không cần có sự tham gia can thiệp của VKSND, bởi vì đây là
lĩnh vực chỉ liên quan đến lợi ích của các đương sự và là việc của các bên đương
sự. VKSND can thiệp vào lĩnh vực TTDS là trái với nguyên tắc quyền quyết
định, tự định đoạt của đương sự. Đây cũng là lý do mà Bộ luật tố tụng dân sự


10

(BLTTDS) năm 2004 đã hạn chế phạm vi Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS của VKSND. Tuy nhiên, trải qua hơn 5 năm thi hành cho thấy quy
định của BLTTDS năm 2004 về sự tham gia của VKS trong TTDS đã bộc lộ
nhiều bất cập, đó là mặc dù tiếp tục quy định Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
là nguyên tắc cơ bản của TTDS và VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng

đã loại bỏ một số thẩm quyền của VKSND, thu hẹp phạm vi hoạt động kiểm sát
so với quy định của pháp luật trước đó, chưa có cơ chế thích hợp để VKS thực
hiện được đầy đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của
Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Trước thực trạng nêu trên, tại kỳ họp thứ 9
Quốc hội khóa XII, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS năm 2004, theo hướng mở rộng thẩm quyền của
VKSND trong TTDS. Tuy nhiên, những quy định trong BLTTDS sửa đổi, bổ
sung năm 2011 về vai trò của VKS, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn
vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu và tạo điều
kiện để VKSND thực hiện tốt hơn chức năng Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS. Vì vậy, việc xây dựng Bộ luật TTDS năm 2015 là nhằm thể chế
hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức VKSND;
bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật; khắc phục những
vướng mắc, bất cập của các BLTTDS trước đây từ thực tiễn công tác giải quyết
các vụ việc dân sự.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công
cuộc cải cách tư pháp, với yêu cầu VKSND phải thực hiện có hiệu quả và tốt
hơn chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, thì việc nghiên cứu để làm rõ cơ
sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nội dung của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTDS và thực tiễn thực hiện nguyên tắc, trên sơ sở đó đề xuất
các kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả
nguyên tắc này trong TTDS là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận
và thực tiễn.
Với những l‎ý do trên, tôi xin mạnh dạn trình bày đề tài: “Nguyên tắc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.


11


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ nghiên cứu luật học, đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu
về vai trò, chức năng cũng như sự tham gia tố tụng của VKSND trong TTDS
đăng trên các tạp chí và trong các luận văn, tiêu biểu phải kể đến là: Bài viết “Về
việc tham gia phiên tòa dân sự của Viện kiểm sát nhân dân” của Tiến sĩ Trần
Văn Trung đăng trên tạp chí Luật học số 8 năm 2005, bài viết “Quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát nhân dân” của Thạc sĩ
Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên tạp chí Luật học số 11 năm 2009, bài viết “Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự và thực tiễn” của tác giả Trần
Xuân Hách đăng trên tạp chí TAND số 19 năm 2012, bài viết “Mâu thuẫn trong
một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc Viện kiểm sát nhân dân
tham gia tố tụng và một số kiến nghị” của Thạc sĩ Nguyễn Quang Lộc đăng trên
tạp chí TAND số 12 năm 2013, đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Phương Thúy (Luận văn thạc sĩ Luật học,
trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1996), đề tài “Sự tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Võ Thị Phượng
(Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011), đề tài “Sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân sự Việt Nam và thực
tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng” của tác giả Bùi Thị Phượng (Luận văn
thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015)...
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu trong thời
gian qua cho thấy nhìn chung các tác giả đã tập trung nghiên cứu các vấn đề
chung về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy và một số quyền hạn của
VKS trong TTDS nhưng chưa nghiên cứu một cách hệ thống về nguyên tắc
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS. Khi BLTTDS năm 2015 vừa có
hiệu lực với nhiều quy định mới, tác giả cho rằng nguyên tắc Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong TTDS vẫn cần tiếp tục được đi sâu tìm hiểu và làm rõ. Vì
vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn

nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTDS, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS.


12

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS; nội dung nguyên tắc Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTDS và các quy định của BLTTDS cụ thể hóa
nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về
nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự tại Toà án như khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc, cơ sở của việc quy
định nguyên tắc, mối quan hệ giữa nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS với các nguyên tắc cơ bản khác của TTDS, những nội dung cơ bản
của nguyên tắc trong pháp luật… Ngoài ra, khi triển khai nghiên cứu về thực tiễn
thực hiện nguyên tắc, luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan về thực
tiễn Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn ngành kiểm sát và lồng ghép
phân tích về thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong việc kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án (ở
Việt Nam, hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về TTDS. Quan điểm thứ nhất
cho rằng, TTDS, bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thi
hành án dân sự. Quan điểm khác cho rằng, TTDS chỉ bao gồm trình tự, thủ tục giải
quyết vụ việc dân sự tại Tòa án).
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của

nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS và mối quan hệ giữa
nguyên tắc này với các nguyên tắc cơ bản khác của TTDS.
- Nghiên cứu làm rõ nội dung nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTDS, các quy định của pháp luật TTDS cụ thể hoá nguyên tắc này, so sánh
những quy định của BLTTDS mới và BLTTDS trước đây và chỉ ra những hạn
chế, bất cập của pháp luật quy định về nguyên tắc nếu có.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS và chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực
hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.
- Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc, đề xuất những phương hướng, giải


13

pháp cơ bản nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS. Qua đó phát huy vai trò của
VKS trong kiểm sát vụ án dân sự trong thời gian tới, bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Những vấn đề lý luận về nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố
tụng dân sự là gì?
- Pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định như thế nào về nguyên tắc Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự?
- Khi áp dụng các quy định của pháp luật trên thực tiễn còn gặp phải những
vướng mắc, bất cập gì? Giải pháp nào giúp hoàn thiện pháp luật cũng như bảo
đảm thực hiện các quy định liên quan đến nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong Tố tụng dân sự?

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác đặc
biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng đến phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
7. ‎ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Có thể nói, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu khoa học khá toàn diện, có
hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ về nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS. Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực
tiễn sau đây:
Làm rõ khái niệm nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS và
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc xác định Kiểm sát việc tuân theo pháp luật


14

trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS trong điều
kiện cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Làm rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật thông
qua các quy định có liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của VKSND trong
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 và BLTTDS năm 2015, có sự so sánh các
quy định giữa hai bộ luật này.
Chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về nguyên tắc
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS; những kết quả đạt được và hạn

chế, vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc.
Đề xuất được những kiến nghị xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong Tố tụng dân sự
Chương 2: Nội dung nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS
theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong Tố tụng dân sự và kiến nghị


15

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong Tố tụng dân sự
1.1.1 Khái niệm của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố
tụng dân sự
Theo cách hiểu chung nhất, nguyên tắc là một thuật ngữ được dùng để chỉ “điều
cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [16, tr 694].
Bất kỳ hoạt động có mục đích nào muốn đạt được kết quả cũng đòi hỏi những
người tham gia hoạt động đó phải xác định được các nguyên tắc hoạt động và
tuân thủ triệt để nó. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ
đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Hoạt động xây dựng và thực hiện
pháp luật là những hoạt động thực tiễn có tính khoa học, nên cũng phải tuân theo

các nguyên tắc pháp luật nhất định. Đó là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, là định
hướng xuyên suốt nhất thiết phải tuân theo trong toàn bộ hoạt động xây dựng và
thực hiện pháp luật.
TTDS là toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khác nhằm
giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, qua đó bảo vệ
lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Quá trình TTDS là quá trình hoạt động thực hiện pháp luật (quá trình giải quyết
vụ việc dân sự) luôn phải tuân theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật
TTDS quy định.
Luật TTDS là một trong những ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của
Nhà nước ta. Hoạt động xây dựng và thực hiện Luật TTDS một mặt cũng phải
tuân theo những nguyên tắc chung của pháp luật, nhưng mặt khác chịu sự chi
phối, chỉ đạo bởi các nguyên tắc đặc thù chuyên ngành phù hợp với tính chất,
đặc điểm các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Để thực hiện
được mục đích giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật,
đảm bảo lợi ích của nhà nước, tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức thì cần phải có những định hướng trong việc xây dựng và thực
hiện pháp luật TTDS. Những định hướng này thể hiện quan điểm, đường lối và


16

chính sách của Nhà nước ta trong quá trình tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự,
được quy định trong luật và được gọi là nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS.
Khái niệm “nguyên tắc cơ bản” của Luật TTDS Việt Nam là một khái niệm rộng
bao hàm nhiều mặt khác nhau và phải đứng trên quan điểm toàn diện để nhận
thức nó. Theo Giáo trình Luật TTDS của trường Đại học Luật Hà Nội thì:
“Nguyên tắc của luật TTDS là những tư tưởng pháp lí chỉ đạo, định hướng cho
việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận trong các văn bản

pháp luật TTDS” [18]. Tác giả Nguyễn Văn Cung trong luật văn thạc sĩ “Các
nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng dân sự Việt Nam” đã đưa ra khái niệm các
nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam một cách khá toàn diện như sau:
“Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lí chỉ đạo
mang tính xuất phát điểm, phản ánh đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước, bản chất và những đặc trưng cơ bản của TTDS, được quán triệt trong nội
dung của các chế định, quy phạm pháp luật TTDS, quy định kết cấu của toàn bộ
quy trình TTDS và thể hiện phương hướng và cách thức thực hiện mục đích và
nhiệm vụ của TTDS Việt Nam” [9,tr 13].
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS là những quy phạm chỉ đạo,
mang tính chất cơ sở, nền tảng cho toàn bộ quy trình TTDS. Nội dung của các
quy phạm này phải được quán triệt trong toàn bộ các quy phạm của pháp luật
TTDS và cũng chính vì vậy các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS quyết định
toàn bộ kết cấu của quy trình TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản trong luật TTDS vừa mang tính chất chủ quan đồng thời
lại là sự phản ánh những quy luật khách quan. Các nguyên tắc thể hiện tính chủ
quan bởi đó là những tư tưởng do con người đặt ra, làm cơ sở cho việc ban hành,
xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong mỗi thời kỳ, mỗi Nhà nước, mỗi giai cấp
lại thiết lập hoặc thừa nhận những nguyên tắc khác nhau phụ thuộc vào‎ ý chí của
Nhà nước, giai cấp đó. Mặt khác, các nguyên tắc trong TTDS cũng phản ánh
những quy luật chung của đời sống xã hội. Các điều kiện về kinh tế, xã hội sẽ
quyết định sự hình thành và phát triển các nguyên tắc pháp luật nói chung, trong
đó có các nguyên tắc trong TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản của TTDS có tính ổn định trong từng thời kỳ nhất định,
nhưng sự ổn định đó chỉ mang tính chất tương đối. Do nội dung các nguyên tắc
bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội và những điều kiện đó lại rất phong


17


phú, năng động, không ngừng phát triển nên các nguyên tắc cơ bản của TTDS
phải luôn được xem xét, nghiên cứu, kịp thời loại bỏ những nội dung không phù
hợp, bổ sung những nội dung mới.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS từ trước đến nay đều được ghi nhận trong
BLTTDS thành một chế định riêng biệt (tại Chương II). Tổng cộng, BLTTDS
năm 2015 quy định 23 nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam, từ Điều 3
đến Điều 25. Trong số 23 nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTDS được quy định tại Điều 21 BLTTDS. Quy định này đã
khẳng định VKSND là cơ quan chịu trách nhiệm Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS; các hoạt động TTDS của những người tiến hành TTDS và
những người tham gia TTDS là đối tượng của hoạt động kiểm sát của VKSND.
Cụ thể hóa nguyên tắc này, BLTTDS cũng đã có những quy định cụ thể về trách
nhiệm, thẩm quyền của VKSND trong TTDS.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là giám sát, kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố
tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể
tiến hành tố tụng và đó là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, một trong
những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND. Mục đích của hoạt động Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS
là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố
tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện theo
quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do
BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ
quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Với những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa về nguyên tắc Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTDS như sau:
Nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là tư tưởng chỉ đạo,

xuyên suốt trong quá trình TTDS; là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) do chủ
thể VKSND thực hiện thông qua việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý
do pháp luật TTDS quy định để ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu


18

cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng nhằm
bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng quy
định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Từ định nghĩa này, có thể rút ra năm đặc điểm của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong TTDS:
- Là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.
Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán
quyết giải quyết hoặc chấm dứt tranh chấp. Quá trình này đòi hỏi phải có cơ chế
pháp lý (kiểm tra, giám sát) bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh
chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Vì vậy, nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS là một trong những nguyên tắc chỉ đạo cho hầu hết các giai
đoạn, hành vi tố tụng; được xây dựng dựa trên chức năng “kiểm sát hoạt động tư
pháp” của VKSND trong TTDS.
- Được ghi nhận và thể hiện thông qua các quy phạm của pháp luật TTDS.
Khi xây dựng pháp luật, nhất là việc soạn thảo dự án luật, những nguyên tắc cơ
bản như là những rường cột hoạch định khung cấu trúc của cả dự án luật. Việc
xác định rõ những nguyên tắc cũng là bước đầu tiên của hoạt động xây dựng,
soạn thảo pháp luật[13]. Như vậy, từ nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS, nhà làm luật sẽ tiến hành xây dựng những chế định và điều
khoản để cụ thể hóa nguyên tắc này, để việc Kiểm sát viêc tuân theo pháp luật
được thể hiện xuyên suốt quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Những quy
định của phần nội dung cụ thể hoặc những văn bản hướng dẫn có hiệu lực pháp

luật thấp hơn không được trái với nguyên tắc này. Nếu trái thì những văn bản đó
sẽ bị bãi bỏ hoặc Tòa án mặc nhiên không áp dụng.
- Là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát trong TTDS) do chủ thể VKSND thực
hiện.
VKSND là cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự. Chức năng này được Nhà nước trao quyền cho VKSND
thực hiện và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp, các Luật Tổ chức VKSND
đồng thời được cụ thể hóa trong BLTTDS. Nếu như trong tố tụng hình sự là khi
có sự tham gia của Nhà nước, với mối quan hệ một bên là Nhà nước, một bên là
công dân, vai trò của VKS là thực hành quyền công tố nghĩa là thực hiện việc


19

buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, thì trong TTDS không thực hiện
quyền công tố mà chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Mặc dù,
dân sự là việc của đôi bên nhưng việc tự định đoạt của đôi bên hoặc khi đôi bên
không tự thỏa thuận được mà phải do Tòa án giải quyết đều phải đúng với đường
lối, chính sách và pháp luật, phù hợp với phong tục, truyền thống và đạo đức xã
hội. Vì thế, việc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ việc
dân sự là tất yếu khách quan, nhằm đảm bảo pháp chế thống nhất, nhằm kịp thời
phát hiện, xử lý vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để đảm bảo lợi
ích của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự.
- Nội dung là việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy
định để ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người
tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Khi thực hiện chức năng Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải
quyết vụ việc dân sự của TAND, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát
thông bảo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa án có

đúng quy định của BLTTDS hay không… Qua đó góp phần hoàn thiện, hạn chế
những tiêu cực, sai sót trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án,
đồng thời góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố
tụng khi giải quyết các vụ việc dân sự.
- Mục đích là nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự đúng pháp luật, bảo
đảm công bằng và bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự giúp phát hiện ra
các vi phạm, sai lầm trong tố tụng, các phán quyết của Tòa án từ đó kiến nghị,
kháng nghị để giúp Tòa án nhận ra các sai lầm mắc phải và khắc phục các sai lầm
đó. Việc kiểm tra, giám sát làm cho Tòa án phải có ý thức thực hiện đúng theo quy
định của pháp luật, từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Thực tiễn TTDS cho thấy, khi tham gia tố tụng có nhiều đương sự ít am hiểu pháp
luật, tin tuyệt đối vào các phán quyết của Tòa án mà không thể nhận ra được các sai
lầm, vi phạm trong các bản án, quyết định đó của Tòa án. Vì vậy VKSND với chức
năng của mình Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các thủ tục, phán quyết đó
giúp bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, giúp việc thực thi


20

pháp luật được chính xác, bảo vệ trật tự công cộng trong hoạt động của cơ quan nhà
nước.
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng
dân sự
Việc ghi nhận Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là một trong những
nguyên tắc cơ bản của TTDS có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện ở các nội dung
sau đây:
Trước hết, nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật có ý nghĩa to lớn trong
việc bảo vệ tính thượng tôn của pháp luật. Đây là mục đích được xác định ngay

từ đầu khi thành lập cơ quan kiểm sát và vai trò này luôn được khẳng định qua
các lần sửa đổi, bổ sung luật. Trong hệ thống bộ máy nhà nước, VKSND có chức
năng Kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho thấy tầm quan trọng của VKSND
trong đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhà nước
quản lí xã hội bằng pháp luật và VKS có nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp
luật của cơ quan tư pháp, đảm bảo pháp luật được tôn trọng trong các hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng.
Không chỉ vậy, nguyên tắc góp phần hoàn hiện, hạn chế những tiêu cực, sai sót
trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án, đồng thời góp phần
nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng khi giải quyết
các vụ việc dân sự. Nguyên tắc này chống sự lạm quyền của TAND là cơ quan
duy nhất nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp quốc gia tiến hành các
hoạt động xét xử. Với uy tín và vị thế đặc biệt của Nhà nước nên yêu cầu đặt ra
là tất cả mọi hoạt động của Tòa án – cơ quan đại diện cho quyền lực Nhà nước
phải tuân thủ pháp luật vì thế sự bố trí của nguyên tắc này trong BLTTDS được
coi là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc khẳng định
vai trò của VKS trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, từ đó đảm bảo giải
quyết vụ việc dân sự ở Tòa án các cấp được nhanh chóng, khách quan, toàn diện,
đầy đủ và kip thời; bảo đảm mọi bản án quyết định của Tòa án có căn cứ và đúng
pháp luật; bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật.
BLTTDS quy định Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử phải độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, bên cạnh đó lại quy định quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự. Muốn đảm bảo được những điều đó thì nhất thiết phải có sự kiểm


21

sát của VKSND, bởi hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng do nhiều
nguyên nhân khác nhau có thể không được khách quan. Nhiều khi vì lý do lịch

sử để lại, không phải người tiến hành tố tụng nào cũng nhận thức vấn đề giống
nhau, do đó cần sự giám sát của VKSND để đảm bảo cho hoạt động tố tụng đúng
trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Cuối cùng, nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt là quyền con người, quyền công dân của các
đương sự. Có thể nói, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013 cũng như trong cả
BLTTDS. Quyền con người và quyền công dân là quyền nói chung trong luật
nhà nước. Trong TTDS, bảo đảm quyền con người, quyền công dân tức là bảo
đảm các quyền khởi kiện của đương sự; quyền được cung cấp chứng cứ; quyền
được thỏa thuận trong hoạt động hòa giải; quyền được tranh luận tại phiên tòa;
quyền được phản đối bản án, quyết định của Tòa án… Nguyên tắc Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS chính là bảo đảm quyền con người trong TTDS
phải được tiếp cận trong tổng thể quyền dân sự của con người, gắn với toàn bộ
quá trình TTDS: từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí, thụ lý đến giai đoạn xét xử,
ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án dân sự. Đây chính là cơ chế pháp
lý (kiểm tra, giám sát) bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng,
kịp thời, đúng pháp luật; đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ
và đúng pháp luật.
1.2 Cơ sở của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng
dân sự
1.2.1 Cơ sở lý luận của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố
tụng dân sự
Việc ghi nhận nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS xuất
phát từ những cơ sở lý luận sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp và quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước và
cải cách tư pháp.
Hiến pháp 1959 ban hành đánh dấu sự ra đời của một loại hình cơ quan Nhà
nước mới trong bộ máy Nhà nước, đó là cơ quan VKSND. Qua các bản Hiến

pháp 1980, Hiến pháp 1992 và đến nay là Hiến pháp 2013 tuy có những bổ sung,


22

thay đổi về tổ chức, hoạt động của VKSND nhưng chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp vẫn luôn được giao cho VKSND.
Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Trước mắt, VKSND giữ nguyên
chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp…” Trong kết luận 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 về đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND, VKSND và Cơ quan điều tra có yêu cầu: “VKSND có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ: “VKSND thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa
án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”[1]. Tóm lại, các
văn bản này đều khẳng định một cách nhất quán yêu cầu của Đảng, Quốc hội
phải tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm của VKSND trong Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trên tất cả các lĩnh vực tư pháp.
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu phải có hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, cơ chế
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không thể
thiếu được để các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng đều tồn tại bộ phận thực
hiện chức năng kiểm tra, giám sát của cơ quan đó mà chúng ta thường gọi là cơ
chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của hệ thống [10]. Tuy nhiên, cơ chế tự
kiểm tra, giám sát từ bên trong của chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước (cơ
quan nhà nước cụ thể) bao giờ cũng có những yếu tố chủ quan, khó kiểm soát

được hoạt động của chính mình nên đã dẫn đến sự lạm quyền, vi phạm pháp luật.
Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát từ
bên ngoài do một cơ quan chuyên trách thực hiện.
Hoạt động TTDS giải quyết các vụ việc dân sự của TAND là một trong những
hoạt động tư pháp thực hiện quyền lực Nhà nước và hoạt động này có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Những sai sót, vi phạm trong
hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự luôn có khả năng hạn chế quyền của các
đương sự, gây thiệt hại cho người khác, làm giảm niềm tin của nhân dân vào


23

công lý. Chính vì vậy, để hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự có hiệu quả và
đúng pháp luật, thì hoạt động này cần thiết phải chịu sự kiểm tra, giám sát của
nhiều cơ chế khác nhau, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong và cơ chế kiểm
tra, giám sát từ bên ngoài. Đặc biệt phải thiết lập cho được cơ chế giám sát trực
tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Trong điều kiện cụ thể của nước
ta, cơ chế đó chính là hoạt động Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS
của VKSND.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm chế độ chính trị và nguyên tắc tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta.
Về chế độ chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo
nhà nước và xã hội. Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập
quyền, không theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Theo nguyên tắc tập quyền,
thì quyền lực nhà nước là thống nhất, chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước
là nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội. Theo
quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất có
quyền lập hiến, thực hiện quyền lập pháp và phân công quyền lực Nhà nước.
Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan
thực hiện quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, Quốc hội chỉ trực tiếp thực hiện

quyền giám sát của mình trong những phạm vi mà Quốc hội thấy cần thiết nhất,
quan trọng nhất (như hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính phủ, TAND tối
cao, VKSND tối cao trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong các
hoạt động thực tiễn về tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội, về năng lực, trình độ và trách nhiệm của những người do Quốc hội
bầu và phê chuẩn bằng các phương thức giám sát do luật xác định được tiến
hành tại các kỳ họp của Quốc hội).
Thực tế cho thấy, từ khi có Hiến pháp năm 1959 đến nay, Quốc hội không thể và
không cần thiết phải tự mình trực tiếp giám sát toàn bộ hoạt động của các cơ
quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Quốc hội đã giao cho VKSND thực hiện
quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân trong phạm vi được Quốc hội giao cho (quyền Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội từ năm 1960 đến năm
2002 và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp từ năm 2002 đến nay). Việc Quốc


24

hội giao cho VKSND thực hiện quyền Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trước đây và quyền kiểm sát các hoạt động
tư pháp hiện nay, một mặt là xuất phát từ chỗ VKS do cơ quan lập pháp cao nhất
của Nhà nước là Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất
và độc lập so với các cơ quan Nhà nước khác; mặt khác còn xuất phát từ nhu cầu
và sự đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi
sự nhất trí về mục đích hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước,
giữa các ngành, các cơ quan Nhà nước với nhau. Vì vậy, chừng nào còn thừa
nhận chế độ nhất nguyên về chính trị với vai trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam, vận dụng nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thì việc quy định VKSND

thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng với tính
cách một nguyên tắc của TTDS vẫn phù hợp và rất cần thiết.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
Tố tụng dân sự
Ngoài cơ sở lý luận trên đây, việc quy định nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTDS còn xuất phát từ những cơ sở thực tiễn sau:
Thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội cụ thể của nước ta.
Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, hơn 70% dân số nước ta sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp,
điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, đặc biệt ở khu vực
miền núi, vùng cao ít quan tâm đến pháp luật. Nếu như ở các nước đã có trình
độ phát triển cao và truyền thống pháp luật lâu đời, người dân có sự hiểu biết về
pháp luật đầy đủ, thu nhập cao, dịch vụ pháp lý phát triển nên họ có khả năng (tự
mình hoặc nhờ Luật sư) để bảo vệ quyền và lợi ích của họ khi có tranh chấp thì ở
nước ta đại đa số người dân chưa có được điều kiện đó. Do trình độ dân trí còn
hạn chế nên người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Hơn nữa với thu nhập của
đa số người dân còn thấp nên họ không có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho mình khi có tranh chấp. Không chỉ vậy, hệ thống bổ trợ tư pháp chưa
thực sự phát triển, chưa trở thành công cụ hỗ trợ cho người dân khi phát sinh và
giải quyết tranh chấp (số lượng Luật sư ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng được


25

yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa, so với nhu cầu về dịch vụ pháp lý hiện nay
và xu thế gia tăng nhanh của nhu cầu này trong những năm tới, thì số lượng Luật
sư nước ta còn chưa tương xứng1). Vì thế, trong điều kiện như hiện nay vẫn cần
phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu

quả để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời,
đúng pháp luật, nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
đặc biệt là những người yếu thế, không thể tham gia tố tụng và hiểu biết về pháp
luật kém. Một trong những cơ chế hữu hiệu, đó chính là hoạt động Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS của VKS.
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu kế thừa và phát huy thành tựu đã đạt được của
VKS qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành.
Trải qua 55 năm xây dựng và trưởng thành, vượt lên muôn vàn khó khăn, thử
thách, ngành Kiểm sát nhân dân đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng với nhiều thành tựu nổi bật. Xuyên suốt các hoạt động, từ tham gia xây
dựng thể chế, chỉ đạo điều hành đến thực thi pháp luật, cán bộ, công chức ngành
Kiểm sát luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ngành Kiểm sát
của nhân dân, dựa vào nhân dân và phục vụ nhân dân; Quán triệt quan điểm cải
cách tư pháp về xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh. Những
nguyên tắc Hiến định về tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã
được tổ chức thực hiện nghiêm túc.2
VKSND là cơ quan có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý và trật tự
chung trong xã hội. Hơn nửa thế kỉ qua, VKSND luôn chủ động triển khai thực
hiện tốt những nhiệm vụ do Quốc hội giao, góp phần thiết lập kỷ cương, kỷ luật,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh và thống nhất3. Mục tiêu
quán xuyến của hoạt động Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là bảo
vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong các quan hệ dân

1 Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2011), “Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS”, ngày 14/3/2011.
/>nhan-dan-55-nam-xay-dung-va-phat-trien.html
3 Ngành Kiểm sát nhân dân - một niềm tự hào,

Phạm Văn Khải - Trần Thị Lam - VKSND Quận 2


×