Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở việt nam hiện nay (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.44 KB, 93 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Luật Hà
Nội, các thầy cô Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ, nhân
viên Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội- những người đã tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu và viết luận văn tại
Trường.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
đến Cô giáo- Tiến sỹ Lưu Ngọc Tố Tâm- người đã tận tình hướng dẫn tôi
thực hiện công trình nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè- những người đã
luôn ở bên động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2016
Tác giả

Salongxay Mounphoxay


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC
7
1.1. Khái niệm vùng đất ngập nước
7
1.1.1. Khái niệm
7
1.1.2. Chức năng của vùng đất ngập nước ở Việt Nam
10
1.1.3. Vai trò của vùng đất ngập nước


14
1.1.4 Thực trạng sử dụng và bảo tồn vùng đất ngập nước ở Việt Nam
hiện nay
17
1.2. Khái quát pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước
22
1.2.1. Sự cần thiết của pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước 22
1.2.2. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ vùng đất ngập
nước
25
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập
nước
27
Kết luận Chương 1
29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
31
2.1. Các quy định pháp luật về điều tra, lập quy hoạch bảo tồn và
phát triển bền vững các vùng đất ngập nước
31
2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về điều tra, lập quy hoạch
bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước
31
2.1.2. Đánh giá các quy định pháp luật về điều tra, lập quy hoạch
bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước
35
2.2. Các quy định pháp luật về bảo tồn vùng đất ngập nước
41
2.2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo tồn vùng đất ngập

nước
41
2.2.2. Đánh giá các quy định pháp luật về bảo tồn vùng đất ngập
nước
48


2.3. Các quy định pháp luật về phát triển bền vững vùng đất ngập
nước
50
2.3.1. Thực trạng quy định pháp luật về phát triển bền vững vùng
đất ngập nước
50
2.3.2. Đánh giá các quy định pháp luật về phát triển bền vững
vùng đất ngập nước
53
2.4. Các quy định pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý vùng đất
ngập nước
56
2.4.1. Thực trạng quy định pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý
vùng đất ngập nước
56
2.4.2. Đánh giá các quy định pháp luật về hệ thống cơ quan quản
lý vùng đất ngập nước
58
2.5. Các quy định về trách nhiệm pháp lý trong bảo vệ vùng đất
ngập nước
62
2.5.1. Trách nhiệm hành chính
63

2.5.2. Trách nhiệm hình sự
64
2.5.4. Trách nhiệm kỷ luật....................................................................65

2.5.3. Trách nhiệm dân sự.............................................................67
Kết luận Chương 2
70
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
71
3.1. Một số yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
vùng đất ngập nước ở Việt Nam
71
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về bảo tồn và phát triển bền vững
vùng đất ngập nước trong mối quan hệ với pháp luật về bảo vệ các nguồn
tài nguyên, các thành phần môi trường
71
3.1.2. Pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước phải chú trọng cả
khai thác và bảo tồn, đảm bảo phát triền bền vững
72
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
vùng đất ngập nước
72
3.2.1 Hoàn thiện các quy định về điều tra, lập quy hoạch bảo tồn
và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước
72


3.2.2 Hoàn thiện các quy định về bảo tồn vùng đất ngập nước 75
3.2.3 Hoàn thiện các quy định pháp luật về phát triển bền vững

các vùng đất ngập nước
77
3.2.4 Hoàn thiện các quy định về hệ thống cơ quan quản lý vùng đất
ngập nước
79
3.2.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý
trong bảo vệ vùng đất ngập nước
83
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3....................................................................84
KẾT LUẬN
85


5

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của loài người gắn liền với các vùng đất ngập nước. Từ
thời nguyên thuỷ, con người đã thường sống tập trung tại nơi đất đai mầu mỡ
thuộc các lưu vực sông hay các vùng ven biển. Ngày nay, các vùng đất ngập
nước đang là nơi cung cấp lúa gạo và thuỷ sản cho hơn một nửa dân số thế
giới. Đất ngập nước còn là nơi có đa dạng sinh học cao và có nhiều chức năng
quan trọng khác đối với sự sống của loài người. Nó duy trì mực nước ngầm,
tích trữ nước nên có tác dụng kiểm soát lụt lội, cải thiện điều kiện vi khí hậu,
và có giá trị du lịch, kinh tế- xã hội,... Đất ngập nước là mắt xích không thể
thiếu của sự sống trên trái đất, song nhiều vùng đất ngập nước đã và đang bị
huỷ hoại trên toàn thế giới.
Các vùng đất ngập nước được xem là có sự đa dạng sinh học cao nhất
trong tất cả các hệ sinh thái. Việt Nam là một trong những quốc gia rất giàu
tiềm năng đất ngập nước cả về diện tích, chức năng và giá trị so với các nước

trên thế giới. Với trên 10 triệu ha đất ngập nước, phân bố ở hầu khắp mọi
vùng sinh thái, gắn bó lâu đời với cộng đồng dân cư, trong đó đất ngập nước
trồng lúa chiếm khoảng 4,1 triệu ha. Hiện nay, 1/5 dân số nước ta đang sống ở
vùng đất ngập nước và phụ thuộc trực tiếp vào việc khai thác, sử dụng các sản
phẩm của đất ngập nước1. Đất ngập nước đã mang lại nhiều giá trị to lớn cho
bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời,
những vùng đất này cũng là nơi giải trí, chốn tâm linh của nhiều làng quê từ
miền núi, đồng bằng đến vùng ven biển.
Việt Nam là thành viên của Công ước Ramsar từ năm 1989. Ramsar là
một công ước quốc tế về bảo tồn, sử dụng một cách hợp lý và thích đáng các
vùng đất ngập nước, với mục đích ngăn chặn quá trình xâm lấn ngày càng gia
tăng vào các vùng đất ngập nước cũng như sự mất đi của chúng ở thời điểm hiện
nay cũng như trong tương lai, công nhận các chức năng sinh thái học nền tảng
của các vùng đất ngập nước và các giá trị giải trí, khoa học, văn hóa và kinh tế
1 />

6

của chúng. Năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 109/2003/NĐCP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Đây là văn bản có
giá trị pháp lý cao nhất liên quan trực tiếp đến phân công trách nhiệm quản lý đất
ngập nước. Một số văn bản khác như Luật bảo vệ môi trường 2014; Luật đa
dạng sinh học 2008; Luật đất đai 2013, Luật Tài nguyên nước 2012 cũng đề cập
đến vùng đất ngập nước. Nhưng các văn bản pháp luật này còn quy định một
cách chung chung, chưa có quy định đầy đủ, cụ thể về trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, các chủ thể có liên quan đến bảo tồn và phát triển bền vững đất
ngập nước, cũng như vai trò của cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội. Đặc
biệt, các chế tài nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ các vùng đất
ngập nước hoặc chưa đủ sức răn đe, hoặc còn thiếu dẫn đến chưa phát huy được
hiệu quả trên thực tê. Do đó, nhìn chung, chưa đáp ứng yêu cầu của việc bảo tồn
và phát triển bền vững đất ngập nước.

Với diện tích đất ngập nước lớn, cùng với các giá trị và vai trò quan
trọng của đất ngập nước đối với môi trường và con người Việt Nam, việc bảo
vệ đất ngập nước trong đó có bảo vệ bằng pháp luật có ý nghĩa thiết thực. Với
lý do đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vùng đất ngập nước có vai trò quan trọng đối với môi trường và con người.
Cũng như nhiều quốc gia khác, vùng đất ngập nước thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học khác nhau ở Việt Nam.
Dưới góc độ khoa học tự nhiên, có nhiều công trình nghiên cứu về vùng đất
ngập nước. Có thể kể đến như: Nguyễn Đình Hòa, Vũ Văn Hiến (2001), Du lịch
bền vững, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội; Hoàng Văn Thắng (2005), Đa
dạng sinh học, các chức năng chính và một số nhân tố tác động lên hệ sinh
thái đất ngập nước khu vực Bàu Sấu (Vườn Quốc gia Cát Tiên), Luận án Tiến
sĩ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội; Lê Diên Dực- Hoàng Văn
Thắng (2012), Đất ngập nước “các nguyên lý và sử dụng bền vững”, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội;… Các công trình này nghiên cứu một vùng đất ngập


7

nước cụ thể, hoặc nghiên cứu về vai trò của vùng đất ngập nước đối với du
lịch và hoạt động sản xuất kinh tế của con người.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, tính đến thời điểm hiện tại, chưa có công
trình nào nghiên cứu pháp luật về bảo vệ các vùng đất ngập nước ở Việt Nam, đặc
biệt là nghiên cứu trên cơ sở quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các văn
bản có liên quan. Mà chỉ có các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ môi
trường nói chung, bảo vệ các nguồn tài nguyên như nước, rừng, không khí, khoáng
sản,… nói riêng. Có thể kể đến như: Nguyễn Hải Âu (2001), Pháp luật bảo vệ môi
trường rừng ở Việt Nam- Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc

sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Hoàng Hiền Lương (2009), Một số vấn đề
pháp lý về bảo vệ các loài động, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, Khoá luận tốt
nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Thanh (2006), Pháp luật về bảo vệ
nguồn nước những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng, Khoá luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội, … Các đề tài này đã xây dựng được hệ thống lý luận
về bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi rừng, bảo vệ nguồn nước nói riêng… và
nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ các tài nguyên này đồng thời đề
xuất phương hướng, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật. Tất cả các nghiên cứu
này đều chưa đề cập đến các vấn đề lí luận về vùng đất ngập nước cũng như pháp
luật về bảo vệ các vùng đất ngập nước.
Như vậy, đề tài: “Pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở Việt Nam
hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là một
đề tài khoa học pháp lý mới ở Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này
hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu về giá trị thực tiễn, ý nghĩa khoa học và
tính cấp thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là
các quy định của pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở Việt Nam hiện nay.
Theo đó, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về bảo vệ vùng đất ngập nước
trong các văn bản pháp luật như: Luật bảo vệ môi trường 2014; Luật bảo vệ và
phát triển rừng 2014; Nghị định 109/2003/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2003
của Chính phủ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước;


8

Thông tư 18/2004/TT-BTNMT ngày 23 tháng 8 năm 2004 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định 109/2003/NĐ-CP về bảo tồn
và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước….
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo

vệ vùng đất ngập nước dưới góc độ pháp luật kinh tế, với cách tiếp cận của pháp luật
môi trường. Theo đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm: khái niệm, chức
năng, vai trò của vùng đất ngập nước; Các quy định pháp luật về bảo tồn đất ngập
nước, về điều tra, lập quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập
nước, các quy định pháp luật về phát triển bền vững đất ngập nước, về hệ thống các
cơ quan quản lý đất ngập nước và các quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý
trong bảo vệ vùng đất ngập nước và một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt
Nam hiện hành về bảo vệ vùng đất ngập nước.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu mà tác giả hướng tới khi thực hiện luận văn là làm rõ những vấn đề
lí luận chung nhất về bảo vệ vùng đất ngập nước, phân tích những nội dung cơ bản
của pháp luật hiện hành về bảo vệ vùng đất ngập nước trong đó có chỉ ra ưu điểm và
bất cập của các quy định này. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ vùng đất
ngập nước ở Việt Nam hiện nay.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để có thể xây dựng luận văn một cách logic và khoa học thì một hệ thống
câu hỏi đã được xây dựng và trả lời, cụ thể:
- Chương 1: luận văn đã trả lời những câu hỏi như vùng đất ngập nước là gì?
Vùng đất ngập nước có chức năng và vai trò như thế nào đối với môi trường và con
người? Hiện nay vùng đất ngập nước ở Việt Nam được sử dụng và bảo tồn ra sao?
Ngoài những vấn đề chung về vùng đất ngập nước, trong Chương 1, luận văn còn
nghiên cứu những vấn đề chung về pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước. Với
phần này, tác giả đưa ra những câu hỏi sau: tại sao phải bảo vệ vùng đất ngập nước
bằng pháp luật, hiện nay vùng đất ngập nước được quy định trong những văn bản
pháp luật nào của Việt Nam, và nội dung cơ bản của các quy định về bảo vệ vùng đất
ngập nước trong các văn bản này là gì?


9


- Chương 2: luận văn nghiên cứu về thực trạng pháp luật Việt Nam hiện
hành về bảo vệ vùng đất ngập nước. Các câu hỏi được trả lời trong phần này bao
gồm: pháp luật quy định như thế nào về điều tra, lập quy hoạch bảo tồn và phát triển
bền vững các vùng đất ngập nước; về bảo tồn vùng đất ngập nước; về phát triển bền
vững vùng đất ngập nước? Những cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền và trách
nhiệm trong việc quản lý vùng đất ngập nước? Và trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với
các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước như thế nào?
- Chương 3: trên cơ sở giải quyết những vấn đề ở Chương 1 và Chương 2,
Chương 3 của luận văn sẽ đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo
vệ vùng đất ngập nước ở Việt Nam. Trong Chương này, luận văn trả lời một số câu
hỏi như: Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở Việt Nam cần
chú ý những yêu cầu gì để vừa bảo tồn và phát triển bền vững vùng đất ngập nước,
vừa bảo vệ được các nguồn tài nguyên, các thành phần môi trường. Đồng thời, bảo
vệ vùng đất ngập nước như thế nào để việc khai thác vùng đất ngập nước đi đôi với
bảo tồn và phát triển bền vững đất ngập nước? Và cụ thể, cần phải hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Những quy
định nào cần phải sửa, những vấn đề nào cần được bổ sung trong các văn bản pháp
luật?
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cũng như quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nhà nước và
pháp luật nói chung, về pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng trong đó có
bảo vệ các vùng đất ngập nước.
Trên nền tảng phương pháp luận ấy, khi nghiên cứu từng vấn đề cụ
thể, tác giả có sử dụng các phương pháp như: logic, so sánh, phân tích, tổng
hợp, chứng minh, quy nạp…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp tri thức vào kho tàng khoa học pháp lý nhiều vấn đề lí

luận mới về vùng đất ngập nước trong đó có khái niệm vùng đất ngập nước, chức
năng, vai trò của vùng đất ngập nước; thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về bảo


10

vệ các vùng đất ngập nước, có chỉ ra những điểm tiến bộ, bất cập và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về vấn đề này.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nghiên cứu sau về vùng đất ngập nước
dưới góc độ pháp lý và cũng là tài liệu tham khảo có thể được sử dụng trong học tập
và giảng dạy luật ở Việt Nam.
Luận văn cũng giúp nâng cao nhận thức của người dân Việt Nam về chức
năng, vai trò của vùng đất ngập nước đối với môi trường và con người. Từ đó, nâng
cao ý thức, và trách nhiệm của họ trong bảo vệ các vùng đất ngập nước.
Đồng thời, những kiến nghị được trình bày tại Chương 3 của luận văn cũng
có giá trị tham khảo cho các nhà quản lý, các nhà lập pháp trong việc hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập nước ở việt Nam.
Luận văn này là cơ sở quan trọng đánh giá quá trình học tập của học
viên trong chương trình đào tạo Thạc sĩ của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu các vấn đề lí luận về vùng đất ngập nước, thực
trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động bảo vệ đất ngập nước ở Việt Nam, cũng như
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này là bài học kinh nghiệm
quý giá cho việc bảo vệ vùng đất ngập nước tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về đất ngập nước và pháp luật về bảo vệ
vùng đất ngập nước
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ vùng đất ngập

nước ở Việt Namhiện nay
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
vùng đất ngập nước ở Việt Nam hiện nay


11

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC
1.1. Khái niệm vùng đất ngập nước
1.1.1. Khái niệm
Đất ngập nước rất đa dạng và góp phần tạo ra các cảnh quan trên thế
giới. Hàng thế kỷ nay, con người và các nền văn hoá nhân loại được hình
thành và phát triển dọc theo các triền sông hoặc ngay trên các vùng đất ngập
nước, vùng ven biển. Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về
đất ngập nước, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, sử dụng hay quản lý của
mỗi quốc gia. Trong số các định nghĩa đó, phổ biến có thể kể đến là định
nghĩa của Cowardin (1979). Theo đó: “Đất ngập nước là vùng đất mà ở đó sự
dư thừa của nước là yếu tố chính xác định bản chất của việc hình thành thổ
nhưỡng và các loại động vật và quần thể cấy cối sống trên mặt đất. Nó tạo sự
bắc cầu kết nối giữa các môi trường, là vùng chuyển tiếp giữa các hệ sinh
thái trên cạn và dưới nước”. Đây là định nghĩa đất ngập nước được chấp
nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý. Theo định nghĩa trên, đất ngập nước là
các vùng sinh thái giữa môi trường nước với môi trường cạn và các khu đất
ngập nước cung cấp môi trường thích hợp cho các loại động vật và thực vật
đặc hữu. Đất ngập nước giúp liên kết các môi trường; hệ sinh thái trên cạn và
dưới nước. Nhìn chung, theo định nghĩa trên, một vùng đất được coi là đất
ngập nước phải có đủ 3 yếu tố:
- Là đất chuyển tiếp phù hợp với hầu hết các loại thực vật sống dưới

nước;
- Tầng nền đất không khô hoàn toàn;
- Địa tầng đất không bão hòa hoặc không ngập rõ ràng vào thời điểm
nào đó trong mùa sinh trưởng.
Theo Công ước Ramsar (Công ước về các vùng Đất ngập nước có tầm
quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nướcConvention on wetland of intrenational importance, especially as waterfowl


12

habitat) thì đất ngập nước là: "Các vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước tự
nhiên hay nhân tạo, có nước thường xuyên hay tạm thời, nước đứng hay nước
chảy, nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, kể cả các vùng nước ven biển có độ
sâu không quá 6m khi thuỷ triều thấp đều là các vùng đất ngập nước" (Điều
1.1. Công ước Ramsar, 1971). Định nghĩa này đã liệt kê các loại đất ngập
nước dựa theo các yêu tố địa mạo, thủy văn, thổ nhưỡng, động vật, thực vật,
hiện trạng sử dụng. Đây là những tiêu chí quan trọng để xác định các vùng đất
ngập nước. Trong các yếu tố đó, chế độ thuỷ văn vẫn là yếu tố tự nhiên quyết
định và đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định, duy trì và quản lý
các vùng đất ngập nước, đặc biệt là các vùng đất ngập nước nước ngọt nội
địa. Trong thực tế, có những vùng đất ngập nước quan trọng chỉ ẩm ướt theo
mùa không ẩm ướt quanh năm.
Là thành viên của Công ước Ramsar nên cách tiếp cận khái niệm đất
ngập nước của pháp luật Việt Nam, về cơ bản là giống với Công ước. Ở Việt
Nam, định nghĩa về đất ngập nước được nêu tại Thông tư 18/2004/TTBTNMT về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23
tháng 9 năm 2003 của Chính phủ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng
đất ngập nước, theo đó:“Đất ngập nước là vùng ngập nước thường xuyên
hoặc tạm thời, nước chảy hoặc nước tù, nước ngọt, nước phèn, nước mặn
hoặc nước lợ. Đất ngập nước được phân thành đất ngập nước ven biển, đất
ngập nước nội địa.”

Như vậy, định nghĩa này đã liệt kê khá cụ thể các vùng ngập nước. Ở
Việt Nam, tất cả các vùng ngập nước dù là thường xuyên hay tạm thời, dù
nước chảy hay nước tù, dù là nước ngọt, nước phèn, nước mặn hay nước lợ
đều được coi là đất ngập nước và chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp
luật của Nhà nước. Khác với hai định nghĩa về đất ngập nước nêu trên, pháp
luật Việt Nam đã có sự phân loại đất ngập nước. Theo đó, đất ngập nước ở
Việt Nam được chia thành 2 nhóm chính: đất ngập nước nội địa và đất ngập
nước ven biển. Cụ thể là:
- Đất ngập nước nội địa gồm: châu thổ ngập nước thường xuyên; lạch
nước; sông suối chảy thường xuyên, tạm thời; hồ nước ngọt; than bùn; đầm


13

lầy; hồ nước mặn; đất ngập nước trên núi; đất ngập nước địa nhiệt; đầm nuôi
thủy sản; ao lớn hơn 8 ha, đầm lầy….
- Đất ngập nước ven biển gồm đất ngập nước cửa sông, bãi triều, đất
ngập nước đầm phá và vùng nước biển có độ sâu nhỏ hơn 6m khi triều kiệt;
rừng ngập mặn và bãi sình lầy tập trung ở các vùng châu thổ, vùng cửa sông
và vùng triều; các đầm phá; các rạn san hô và hệ rong tảo;….Trong các vùng
đất ngập nước nói trên, có một số kiểu có tính đa dạng sinh học cao:
- Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá
trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là
bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh
tế khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển
chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất
nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát).
- Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông
Nam Á. U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là
hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long

của Việt Nam.
- Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc
tính pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm
phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu
trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
- Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng
biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xă
rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp
xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc
biệt loài thú biển Dugon.
- Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống
các đảo rất phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh
giá có mức độ đa dạng sinh học rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn
san hô, cỏ biển...


14

Ở Việt Nam, khi nói tới các vùng đất ngập nước không thể không
nhắc tới hai vùng đất ngập nước quan trọng là: Đất ngập nước vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng và Đất ngập nước châu thổ sông Cửu Long. Đất
ngập nước ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha.
Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động
vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim
nước. Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha.
Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn
sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là
những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở
đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái
rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông.

Mỗi kiểu hệ sinh thái đất ngập nước đều có khu hệ sinh vật đặc trưng
của mình. Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn
phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.
Các vùng đất ngập nước phân bố trải đều trên toàn quốc đã đem lại
nhiều lợi ích cho người dân địa phương và môi trường.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã có sự quy định khá rõ
ràng về những vùng nước được xác định là đất ngập nước và có sự phân biệt
giữa đất ngập nước nội địa và đất ngập nước ven biển. Việc quy định rõ ràng,
trên cơ sở tính chất của từng loại đất ngập nước như vậy có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng quy chế bảo vệ đặc thù, phù hợp với mỗi loại đất
ngập nước.
1.1.2. Chức năng của vùng đất ngập nước ở Việt Nam
Đất ngập nước có chức năng nhất định. Có thể kể đến như: nạp và tiết
nước ngầm, cung cấp nước ngọt, điều hòa sinh thái và khí hậu, xuất khẩu sinh
khối, hạn chế lũ lụt, chắn sóng và gió bão, chống xói lở và ổn định bờ biển, là
nơi du lịch giải trí, duy trì đa dạng sinh học, tạo môi trường hoạt động cho
nhiều ngành kinh tế như thủy sản, lâm nghiệp, giao thông vận tải thủy, sản
xuất năng lượng, du lịch, khai khoáng… Tại Việt Nam, đất ngập nước là
nguồn sống của một bộ phận dân cư khá lớn, mang lại lợi ích và giá trị to lớn


15

về kinh tế - xã hội - văn hóa - môi trường, đóng góp rất quan trọng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Chức năng nạp, tiết nước ngầm: vào mùa mưa, khi dư lượng nước
mặt lớn, các vùng đất ngập nước có tác dụng như một bể chứa nước để sau đó
nước ngấm dần vào lòng đất trong mùa khô. Quá trình này diễn ra liên tục
nhằm bổ sung lượng nước cho các tầng nước ngầm. Mặt khác, quá trình nạp
và tiết nước liên tục giữa vùng đất ngập nước với các tầng nước ngầm cũng

góp phần thấm lọc, làm cho các tầng nước ngầm trở nên sạch hơn. Ví dụ như,
những vùng đất ngập nước dưới rừng Tràm (U Minh Thượng), đóng vai trò
giữ nước, điều hoà độ ẩm, giữ cho lớp than bùn ẩm ướt. Thêm vào đó, có tác
dụng hạn chế quá trình phèn hoá, cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt quanh
năm cho người dân và động- thực vật.
- Chức năng lắng đọng trầm tích, độc tố: các vùng đất ngập nước (đặc
biệt là hồ, rừng ngập mặn, bãi triều, vũng vịnh ven bờ...) có tác dụng như là
các bể lắng giữ lại trầm tích, các chất ô nhiễm, độc hại và chất thải nói chung,
góp phần làm sạch nước và hạn chế ô nhiễm môi trường nước biển.
- Chức năng tích lũy chất dinh dưỡng: các vùng đất ngập nước giúp
giữ lại các chất dinh dưỡng (nitơ, photpho, các nguyên tố vi lượng...) cho vi
sinh vật, phát triển nguồn lợi thủy sản và lâm nghiệp, hạn chế bớt hiện tượng
phú dưỡng như ở các vùng đất ngập nước đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng
Sông Cửu Long và các thủy vực khác.
- Chức năng điều hòa vi khí hậu: các vùng đất ngập nước, đặc biệt, ở
vùng có cỏ biển, rừng ngập mặn, rạn san hô đã góp phần đáng kể vào việc cân
bằng khí O2 và khí CO2 trong khí quyển, điều hoà khí hậu địa phương (nhiệt
độ, độ ẩm, lượng mưa) và giảm hiệu ứng nhà kính. Theo tính toán của Jim
Enright và Yadfon Association (2000), rừng ngập mặn có khả năng tích luỹ
CO2 ở mức độ cao, rừng ngập mặn 15 tuổi giảm được 90,24 tấn CO2/ha/năm,
tác dụng lớn làm giảm hiệu ứng nhà kính2.
- Chức năng hạn chế lũ lụt: đất ngập nước (rừng ngập mặn, hồ tự
2 />

16

nhiên, hồ nhân tạo...) có thể đóng vai trò như bồn chứa lưu giữ, điều hoà
lượng nước mưa và dòng chảy mặt, góp phần giảm lưu lượng dòng chảy lũ và
hạn chế lũ lụt ở các vùng lân cận. Ở Việt Nam, những vùng đất ngập nước có
chức năng chính là hạn chế lũ lụt có thể kể đến như hồ Hòa Bình, hồ Thác Bà,

hồ Trị An,...
- Chức năng sản xuất sinh khối: tất cả các vùng đất ngập nước là nơi
sản xuất sinh khối, tạo nguồn thức ăn cho các loại thuỷ sản, gia súc, động vật
hoang dã hoặc vật nuôi. Ngoài ra, một phần các chất dinh dưỡng này có từ các
động thực vật đã chết sẽ được các dòng chảy bề mặt chuyển đến các vùng hạ
lưu và các vùng nước ven biển, làm giàu nguồn thức ăn cho những vùng đó.
- Chức năng duy trì đa dạng sinh học: nhiều vùng đất ngập nước, đặc
biệt là các vùng đất ngập nước có rừng ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển, là môi
trường thích hợp cho việc cư trú, đẻ trứng, sinh sống và phát triển của nhiều
loại động, thực vật hoang dã. Đất ngập nước là nơi duy trì nhiều nguồn gen,
trong đó có nhiều loài quý hiếm, có giá trị không chỉ ở Việt Nam. Hệ sinh thái
đất ngập nước vùng biển đảo và vùng nội địa được đánh giá có tính đa dạng
sinh học cao bởi sự cấu trúc thành phần các loài thực vật, động vật. Chính
từng loại thảm thục vật có đặc tính thích ứng riêng với môi trường nước ngọt,
nước lợ và nước mặn, để hình thành nên những dải rừng ven suối, ven sông,
ven hồ và ven biển như rừng ngập mặn.
Ví dụ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có những khu rừng đước, vẹt,
mắm đã từng có diện tích lớn hàng 100 nghìn ha với những cây thân gỗ cao từ
15 - 20 m, và có đường kính 30 - 40 cm với cành, tán lá xum xuê... là môi
trường sống thuận lợi cho một số loài động vật thích nghi với môi trường đất
ngập nước như: dơi ngựa lớn, dơi ngựa Thái Lan, các loài khỉ, voọc, sóc, lợn
rừng, rái cá và các loài chim, các loài bò sát (cá sấu, kỳ đà, trăn, rắn, rùa)....
Dưới tán lá rừng của hệ sinh thái, đất ngập nước còn chứa đựng một nguồn tài
nguyên thực vật, động vật phong phú là mắt xích quan trọng trong chuỗi quan
hệ dinh dưỡng của hệ sinh thái là nguồn cung cấp thức ăn và là nơi trú ngụ
của nhiều loài động vật hoang dã. Trong đó có các sân chim lớn ở đồng bằng
sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng (30 sân chim).


17


Đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng có
khoảng hơn 30 sân chim, trong đó phải kể đến các sân chim lớn nhất như: Cà
Mau, Bạc Liêu (40 ha), Đầm Dơi (120 ha), Cái Nước (13 ha), Tràm Chim hơn
5.000 ha; sân chim Chi Lăng Nam - Hải Dương (8,3 ha), sân chim Ngọc Nhị Ba Vì - Hà Nội (4 ha)... Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có ý nghĩa
to lớn về khoa học, văn hóa giáo dục và phục vụ du lịch sinh thái, mang lại lọi
ích về kinh tế và xã hội. Trong các loài chim làm tổ ở rừng tràm thì loài già
đẫy Java có số lượng rất ít, là loài quý hiếm không chỉ đối với Việt Nam mà
còn đối với khu vực ASEAN và thế giới. Nhưng hiện nay, Việt Nam chỉ gặp
chúng làm tổ ở Vườn quốc gia U Minh, Cà Mau; Loài sếu đầu đỏ cũng là loài
chim vô cùng quý ở Đông Nam Á đã xuất hiện và thích nghi với môi trường ở
Vườn quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp; Vạc hoa chỉ
gặp ở hồ Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - khu Ramsar vừa được công nhận năm 2011;
Cò thìa cũng chỉ có ở khu Ramsar Xuân Thủy, tỉnh Nam Định3... Nhờ sự định
cư và phát triển của các loài sinh vật quý, hiếm, độc đáo này đã là một nguyên
nhân thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế ngày càng đông.
Kết quả của các công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong
Việt Nam và quốc tế cho đến nay đã thống kê sơ bộ có khoảng 12.115 loài
thủy sinh vật phân bố ở môi trường biển, môi trường nước lợ và các vùng
nước nội địa cùng với hơn 300 loài động vật có xương sống chuyên sống
trong môi trường nước, hoặc có chu kỳ sống thích nghi liên quan với các hệ
sinh thái đất ngập nước. Chẳng hạn, thú có 47 loài thuộc 11 họ, 4 bộ; chim có
170 - 180 loài thuộc 42 họ nằm trong 20 bộ; bò sát có 35 loài thuộc 6 họ và
hầu hết 162 loài lưỡng cư thường sống và phát triển trong môi trường đất
ngập nước. Trong số này đã ghi nhận 60 loài thuộc diện có nguy cơ bị đe dọa
có tên trong Sách đỏ Việt Nam năm 2007 như rái cá lông mượt, rái cá vuốt
bé, mèo cá, hươu đầm lầy, voọc bạc, voọc mông trắng, voọc đầu vàng, dơi
ngựa lớn, bò biển, cá ông chuông, cá heo, sếu cổ trụi, vạc hoa4... Đây là
nguồn gen tự nhiên có giá trị bảo tồn cao đang hiện hữu trong các hệ sinh thái
3 />4 />


18

đất ngập nước ở Việt Nam, là nguồn tài nguyên vô cùng quý, là sinh kế sản
xuất sinh học trong môi trường nước.
- Chức năng chắn sóng, chắn gió bão ổn định bờ biển, chống xói lở,
hạn chế sóng thần: nhờ có thảm thực vật, đặc biệt thảm thực vật rừng ngập
mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô mà các vùng đất ngập nước ven biển có chức
năng bảo vệ bờ biển khỏi bị tác động của sóng, thuỷ triều, xói lở, sóng thần.
Mặt khác, chúng còn tạo ra môi trường thuận lợi cho việc lắng đọng phù sa,
góp phần ổn định và mở rộng bãi bồi. Các rạn san hô ngầm rộng lớn đã giảm
cường độ sóng tác động đến bờ biển, các vùng ven đảo trong thời kỳ dông
bão, sóng thần. Nhiều năm gần đây, diện tích các hệ sinh thái đất ngập nước
tự nhiên (rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển...) bị suy giảm nghiêm trọng do các
hoạt động khai hoang để sử dụng nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, khai thác
thuỷ - hải sản. Do đó, đường bờ biển liên tục bị biến động, chiều dài bờ biển
bị xói lở tăng (ven bờ đồng bằng sông Hồng, Trung Bộ và Nam Trung Bộ,
Nam Bộ).
- Các chức năng khác: Ngoài các chức nói trên, đất ngập nước còn
đóng vai trò quan trọng tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế
của nhiều ngành khác nhau: nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp, giao thông
thuỷ, dịch vụ du lịch, khai thác khoáng sản.... Đặc biệt, đất ngập nước là nơi
sinh sống của 80% dân số Việt Nam (Theo đánh giá liên ngành chính sách,
pháp luật và thể chế quản lý đất ngập nước ở Việt Nam– Bộ Tài nguyên môi
trường)5.
1.1.3. Vai trò của vùng đất ngập nước
Với những chức năng cơ bản trên, đất ngập nước giữ vai trò khá quan
trọng đối với môi trường tự nhiên và con người. Có thể kể đến như:
- Vai trò của đất ngập nước đối với môi trường tự nhiên
Đất ngập nước còn có vai trò quan trọng đối với môi trường tự nhiên.

Đất ngập nước có khả năng lọc nước thải, nạp và ổn định nước ngầm, hạn chế
ảnh hưởng lũ lụt, điều hòa khí hậu, chống xói mòn… Cụ thể như sau:

5 />

19

+ Khả năng lọc nước thải: một vùng đất ngập nước có giá trị khoảng
vài chục hecta sẽ có khả năng lọc và xử lý nước thải tương đương với một
trạm xử lý nước nhiều triệu USD. Một vai trò hết sức quan trọng của đất ngập
nước đó là khả năng xử lý ô nhiễm mà đặc biệt là ô nhiễm hữu cơ. Ngày nay,
đa phần, nguồn nước thải sinh hoạt đều qua các hệ thống cống rãnh song các
hệ thống này thường dùng chung với hệ thống thoát nước mưa thải trực tiếp
ra môi trường tự nhiên, ao hồ, sông suối hoặc thải ra biển. Hầu như không có
hệ thống thu gom và trạm xử lý nước thải sinh hoạt riêng biệt nào. Việc sử
dụng mô hình đất ngập nước nhân tạo để xử lý nước thải sinh hoạt trở nên
ngày càng phổ biến, vừa có thể thay thế và bổ sung những công nghệ hóa học
tuy mang tính công nghệ cao nhưng lại tốn kém.
+ Nạp và ổn định nước ngầm: nước được thấm từ các vùng đất ngập
nước xuống các tầng ngập nước trong lòng đất, nước được giữ ở đó và điều
tiết thành dòng chảy bề mặt ở vùng đất ngập nước khác cho con người sử
dụng.
+ Hạn chế ảnh hưởng lũ lụt: đất ngập nước hạn chế ảnh hưởng lũ lụt
bằng cách giữ và điều hoà lượng nước mưa như “bồn chứa” tự nhiên, giải
phóng nước lũ từ từ, từ đó có thể làm giảm hoặc hạn chế lũ lụt ở vùng hạ lưu.
+ Điều hòa khí hậu, chống xói mòn, ổn định bờ biển, chắn gió bão, bồi
tụ đất đai.... Nhiều nghiên cứu cho thấy, đất ngập nước có thể làm giảm
những tác động từ biến đổi khí hậu, mặc dù chúng chỉ chiếm 6-8% diện tích
bề mặt Trái đất. Chính bởi giá trị quan trọng đó, thông điệp cho Ngày Đất
ngập nước Thế giới (02/02 hàng năm) là “Chăm sóc vùng đất ngập nước –

giải pháp cho biến đổi khí hậu”. Do chu trình trao đổi chất và nước trong các
hệ sinh thái, nhờ lớp phủ thực vật của Đất ngập nước, sự cân bằng của O2 và
CO2 trong khí quyển làm cho vi khí hậu đại phương được ổn định, đặc biệt là
nhiệt độ và lượng mưa ổn định.
Bên cạnh đó, các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển còn có vai trò
trong việc mở rộng đất đai, bồi tụ và tạo vùng đất mới.
Ngoài ra, đất ngập nước còn là nơi trú chân của nhiều loài động vật
hoang dã, đặc biệt là các loại chim nước, trong đó có nhiều loại quý hiếm, có


20

ý nghĩa quốc tế. Các hệ sinh thái rừng ngập mặn và rừng tràm có nhiều giá trị
trong việc cung cấp sản phẩm, duy trì cân bằng sinh thái và bảo tồn thiên
nhiên; cung cấp nơi kiếm ăn, khu cư trú cho các loài chim qúi hiếm như: Sếu
đầu đỏ, cồng cộc, ô tác, giang sen...
Vai trò của đất ngập nước đối với con người
Đất ngập nước góp phần quan trọng cho sự phát triển của các ngành
nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp, năng lượng, giao thông thuỷ. Các dòng
chảy thường xuyên tạo các vùng châu thổ rộng lớn phì nhiêu (là vùng sản
xuất nông nghiệp trù phú), có khu hệ cá phong phú với sản lượng cao, là
nguồn lợi cung cấp cho nhiều cộng đồng dân cư sống xung quanh.
Nguyên liệu thô và sản phẩm mang tính tự nhiên của đất ngập nước
được sử dụng trực tiếp cho trao đổi, sản xuất và buôn bán trong hiện tại, như:
- Lương thực: Lương thực nói chung mà đặc biệt là thủy sản đem lại
nguồn lợi rất lớn cho Việt Nam. Việt Nam hiện nay là quốc gia xuất khẩu
thủy sản lớn trên thị trường quốc tế. Ngành Thủy sản đã phát triển từ một
lĩnh vực sản xuất nhỏ, vươn lên trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khối
nông, lâm, thủy sản. Nghề cá Việt Nam đã đạt được vị trí cao trong cộng đồng

nghề cá thế giới, đứng thứ 12 về khai thác thủy sản, thứ 3 về nuôi thủy sản và
thứ 7 về giá trị xuất khẩu thủy sản6. Hàng chục cảng cá đã được xây dựng và
đưa vào sử dụng tại các địa phương ven biển và nhiều đảo lớn trên các vùng
biển của đất nước... Sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế thủy sản, đặc
biệt là sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất, nuôi trồng, khai thác thủy sản và
các cơ sở hạ tầng nghề cá đã giúp cho đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của bà
con ngư dân được cải thiện rõ rệt; đồng thời, góp phần xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên biển và các địa bàn ven biển,
hải đảo ngày càng vững chắc.
- Sản xuất nông nghiệp: phần lớn diện tích đất ngập nước của Việt
Nam được sử dụng để trồng lúa, đặc biệt là tại đồng bằng Sông Hồng và đồng
6 />

21

bằng Sông Cửu Long. Lợi thế này đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất
khẩu gạo lớn hàng đầu thế giới. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, tính đến năm 2015, trung bình hàng năm Việt Nam sản xuất tới 45 triệu
tấn lúa (tương đương 26-27 triệu tấn gạo), xuất khẩu từ 6-7 triệu tấn gạo7.
Đây là con số rất lớn, đóng góp không nhỏ vào GDP quốc dân;
- Các hoạt động giải trí và du lịch: Doanh thu từ các hoạt động vui
chơi và du lịch trên các vùng đất ngập nước tại các nơi như Vịnh Hạ Long,
đảo Cát Bà, đảo Phú Quốc, Côn Đảo, các bãi biển đẹp tại Phan Thiết và Vũng
Tàu, động Phong Nha – Kẻ Bàng, công trình kỉ niệm lịch sử tại rừng quốc gia
U Minh Thượng, các khu du lịch sinh thái của khu bảo tồn thiên nhiên đất
ngập nước Xuân Thủy và Vườn quốc gia Ba Bể, …. hiện đã tăng lên trong
những năm gần đây nhờ thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong và ngoài
nước.
Các vùng đất ngập nước còn có các đặc tính đặc biệt về di sản văn hoá
của loài người. Các hệ sinh thái đất ngập nước có nhiều thuận lợi cho du lịch

sinh thái, xây dựng các khu dự trữ sinh quyển, các vườn quốc gia,..Các khu
bảo tồn Đất ngập nước như: Tràm Chim (Đồng Tháp), Xuân Thủy (Nam
Định), nhiều vùng cảnh quan đẹp như Bích Động và Vân Long (Ninh Bình),
cũng như nhiều đầm phá miền Trung,…thu hút nhiều khách du lịch tham
quan, giải trí.
1.1.4 Thực trạng sử dụng và bảo tồn vùng đất ngập nước ở Việt
Nam hiện nay
Thứ nhất, về thực trạng sử dụng đất ngập nước ở Việt Nam hiện nay:
Theo thống kê sơ bộ của Bộ Tài nguyên và môi trường và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thì Việt Nam hiện nay có khoảng trên 50%
tổng diện tích đất ngập nước được sử dụng cho gieo trồng (chủ yếu là lúa) với
sự quay vòng sử dụng rất cao (2-3 vụ); 25% tổng diện tích đất ngập nước
được sử dụng cho mục đích nuôi trồng thủy sản; 10% sông suối, 10% là hồ
chứa nước nhân tạo (thủy lợi, thủy điện)8.
7 />8 />

22

Diện tích trồng lúa nước của cả nước hiện nay là 4,1 triệu ha. Hầu hết
diện tích của loại đất ngập nước trồng lúa do các hộ gia đình sử dụng theo
kinh nghiệm sản xuất và tập quán canh tác của từng địa phương. Phần diện
tích đất ngập nước còn lại do nhà nước quản lý và thường được sử dụng thông
qua một dự án đầu tư hay kế hoạch quản lý được nhà nước phê duyệt và cấp
kinh phí. Việc sử dụng đất ngập nước bắt đầu bằng việc quy hoạch sử dụng
đất cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh và các cấp chi tiết hơn, dựa trên các đặc
điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và các mục tiêu phát triển mà Chính phủ đề ra
cho từng vùng và từng tỉnh. Việc sử dụng đất theo quy mô hộ gia đình còn
nhiều tồn tại mà quan trọng nhất là thiếu vốn đầu tư và sự hiểu biết về sử
dụng đất ngập nước, nên đã gặp thất bại trong các vụ nuôi tôm và để lại hậu
quả về môi trường.

Hiện nay, vẫn chưa có quy chế quản lý đất ngập nước riêng phù hợp
với đặc thù của các loại hình đất ngập nước. Các vườn quốc gia và Khu bảo
tồn là các khu đất ngập nước hoặc có một phần diện tích là đất ngập nước vẫn
phải tuân theo Quy chế Quản lý rừng đặc dụng. Ở các khu này chưa có khái
niệm “sử dụng khôn khéo” Đất ngập nước, vì hoạt động chính vẫn là bảo tồn.
Hầu hết, các khu này còn rất khó khăn về vốn đầu tư, hàng năm nhận
được nguồn kinh phí hạn chế từ ngân sách tỉnh là chủ yếu. Ngoài ra, một số
nơi cũng được sự hỗ trợ từ nguồn viện trợ của các chính phủ (gián tiếp hoặc
trực tiếp) thông qua các dự án do các tổ chức quốc tế triển khai thực hiện. Các
khu đất ngập nước hầu như không có kinh phí để tổ chức việc giám sát, thu
thập số liệu, đánh giá diễn biến tài nguyên sinh vật. Do đó, không thể có số
liệu cụ thể thuyết minh diễn biến về đa dạng sinh học.
Trong nhiều năm trở lại đây, việc khai thác và sử dụng nguồn tài
nguyên Đất ngập nước đang diễn ra một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch. Khai
hoang để trồng lúa, nuôi trồng thủy sản, mở rộng các khu dân cư, đô thị hóa,
khu công nghiệp, phát triển giao thông, …làm cho diện tích đất ngập nước tự
nhiên bị thu hẹp, tài nguyên suy giảm; xói lở, bồi tụ, môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng (ô nhiễm dầu, các kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, ô nhiễm
các vi sinh vật gây bệnh).


23

Thứ hai, thực trạng bảo tồn đất ngập nước ở Việt Nam hiện nay:
Năm 1989, Việt Nam đã chính thức tham gia Công ước Ramsar, là
quốc gia thứ 50 trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của Đông Nam Á tham
gia Công ước này. Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy nay là
vườn quốc gia Xuân Thủy là khu Ramsar đầu tiên của Việt Nam. Tháng 8
năm 2005, Bàu Sấu và các vùng Đất ngập nước theo mùa thuộc vườn quốc
gia Cát Tiên đã trở thành khu Ramsar thứ 2 của Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam có hai hệ thống bảo tồn liên quan đến đất ngập
nước: hệ thống rừng đặc dụng, thuộc sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn và hệ thống các khu bảo tồn biển thuộc sự quản lý của Bộ
Thủy sản (Nay là Tổng cục Thủy sản) . Hầu hết các khu bảo tồn đất ngập
nước hiện nay là các khu rừng đặc dụng. Đến tháng 3 năm 2010, có 130 khu
rừng đặc dụng, gồm vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu bảo vệ
cảnh quan đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong số này
có 4 vườn quốc gia (Xuân Thủy, Tràm Chim, U Minh Thượng, Mũi Cà Mau)
và 10 khu bảo tồn tự nhiên (Thạnh Phú, Lung Ngọc Hoàng, Kiên Lương, Bạc
Liêu, Tiền Hải, Vồ Dơi, Hồ sông Đà, Cấm Sơn, Hồ Lăk, Hồ Núi Cốc) là
những vùng đất ngập nước và có sáu vườn quốc gia (Ba Bể, Bái Tử Long, Cát
Tiên, Côn Đảo, Phú Quốc, Lò Gò - Sa Mát), bốn khu bảo tồn thiên nhiên
(Bình Châu - Phước Bửu, EaRal, Trấp Ksơ, Vân Long) có một phần diện tích
là đất ngập nước9.
Việt Nam đã có 4 khu dự trữ sinh quyển (là các khu đất ngập nước)
được UNESCO công nhận: khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ,
khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên, khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, khu
dự trữ sinh quyển đất ngập nước ven biển đồng bằng sông hồng.
Hiện tại, việc đánh giá thực trạng các vùng đất ngập nước vẫn đang
được tiếp tục thực hiện để làm cơ sở ra quyết định công nhận vùng đất ngập
nước có giá trị đa dạng sinh học và môi trường của Việt Nam, bao gồm các hồ
chứa nước tự nhiên và nhân tạo, các đầm, phá, cửa sông, các sân chim, các
khu rừng ngập nước, các trảng cỏ ngập nước theo mùa để có cơ sở pháp lý
9 www.mekongwetlands.org/.../GENERAL%20policy%20.../V.G.5.11.06.%202006.11..


24

bảo vệ tính đa dạng sinh học của các vùng đất này.
Có thể nói, sau hơn 15 năm tham gia và thực hiện tích cực Công ước

Ramsar, Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia thể hiện đầy đủ
nguyên tắc thiện chí khi thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết hoặc gia nhập.
Ở Việt Nam, các hệ sinh thái đất ngập nước đóng vai trò cực kỳ quan
trọng đối với an ninh lương thực, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế của nhiều ngành khác nhau như: nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp,
giao thông đường thuỷ, dịch vụ du lịch, khai thác khoáng sản. Tuy nhiên,
nhiều năm gần đây, diện tích các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên bị suy
giảm nghiêm trọng do các hoạt động khai hoang của con người, biến đất ngập
nước thành nơi nuôi trồng thủy sản, khai thác thuỷ - hải sản, sản xuất nông
nghiệp.
Ngoài ra do nhiều hạn chế trong hiểu biết khoa học kỹ thuật, cũng
như áp lực từ xã hội về việc cháy rừng, các khu đất ngập nước tại nhiều khu
vực hiện nay đang được quản lý không đúng phương pháp. Một số khu đất
ngập nước tại đồng bằng sông Cửu Long hiện nay bị xây đê bao vòng quanh
khiến hệ sinh thái bị suy thoái do bị cô lập và giảm kết nối, cách làm sai
hướng này đã khiến những khu vực này ngày càng bị suy kiệt. Đặc biệt, năm
2016 là năm của đất ngập nước tại đồng bằng Sông Cửu Long.
Tình trạng xâm nhập mặn xảy ra phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng
cho sản xuất, sinh hoạt của người dân cũng như ảnh hưởng không nhỏ tới
kinh tế- xã hội nói chung của cả vùng và cả Việt Nam. Những năm gần đây
các hiện tượng nhiệt độ tăng cao, ngập lụt, hạn hán, dông lốc, sạt lở bờ sông,
nước biển dâng, xâm nhập mặn xuất hiện không theo chu kỳ và tác động
mạnh đến đời sống người dân đồng bằng sông Cửu Long, nhất là đợt hạn mặn
lịch sử hiện nay, chứng tỏ tình trạng biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn
biến phức tạp và không còn là “kịch bản” nữa.
Nguyên nhân trước hết là phần lớn các tỉnh, thành phố khu vực đồng
bằng sông Cửu Long ó cao độ tự nhiên thấp. Đây là điểm yếu dễ bị tổn
thương nhất do lũ lụt và xâm nhập mặn. Tình trạng xây dựng thủy điện và các



25

hoạt động khai thác tài nguyên nước thượng nguồn sông Mê Công gây thiếu
hụt nguồn nước về hạ lưu, kết hợp với yếu tố nước biển dâng đẩy mặn sâu
vào nội đồng.
Theo Quy hoạch tổng thể thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long trong
điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng giai đoạn 2012-2030, để ứng phó
cần khoảng 90.000 tỷ đồng, nhưng trong giai đoạn 2011-2015 chỉ bố trí được
khoảng 16.500 tỷ đồng, mới đáp ứng được 40% nhu cầu quy hoạch nên hệ
thống thủy lợi toàn vùng chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Riêng Chương
trình nâng cấp đê biển chỉ bố trí được 40% so với mức vốn được phê duyệt.
Chính vì sự đầu tư không đồng bộ, dàn trải, thời gian thi công kéo dài nên
nhiều dự án dở dang, chưa phát huy được hiệu quả. Minh chứng là Kế hoạch
hành động ứng phó với Biến đổi khí hậu giai đoạn 2013-2020 của tỉnh Kiên
Giang, đến thời điểm này 6 nhiệm vụ dự án chủ chốt chưa thể triển khai vì
thiếu vốn. Chỉ duy nhất Dự án đầu tư xây cống sông Kiên thuộc thành phố
Rạch Giá có thể hoàn thành vào tháng 9 năm nay. Việc khai thác tài nguyên
thiếu bền vững, nhất là khai thác nước ngầm quá mức không theo quy hoạch
làm suy kiệt nguồn nước ngầm, là một trong những nguyên nhân gia tăng hạn
hán, sụt lún, xâm nhập mặn, sạt lở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Một số tỉnh phân bố sử dụng đất và tổ chức sản xuất vùng kinh tế
mặn-lợ-ngọt còn tùy tiện, chưa quy hoạch và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Đặc biệt là quy hoạch thiếu tính liên kết toàn vùng… Hiện trạng rừng ngập
mặn đồng bằng sông Cửu Long manh mún, không liền vùng mà phân bổ rải
rác, chia cắt do các khu tái định cư và nuôi trồng thủy sản xen kẽ trong rừng
ngập mặn. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp từ năm 2000- 2013 cho thấy,
tổng diện tích rừng trồng bị thiệt hại 11.758ha.
Tình trạng xói lở bờ biển và lan truyền của nước mặn vào sâu trong
nội đồng, lựa chọn cây trồng không phù hợp với lập địa, vốn đầu tư thấp, tình

trạng chặt phá rừng, lấn chiếm rừng để nuôi thủy sản đã tác động xấu đến diện
tích rừng ngập mặn ven biển nơi đây. Tổng dân số các xã vùng ven biển
khoảng 898.510 người, gồm 179.546 hộ, chiếm khoảng 5% tổng số dân của
toàn vùng. Trong khi đó, diện tích rừng ngập mặn chỉ chiếm 2% diện tích đất


×