Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Diễn ngôn về giới nữ trong văn xuôi nữ việt nam đương đại (khảo sát sáng tác của dạ ngân, y ban, lý lan, nguyễn thị thu huệ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512 KB, 134 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÚY HÀ

DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ
TRONG VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
(KHẢO SÁT SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN,
Y BAN, LÝ LAN, NGUYỄN THỊ THU HUỆ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÚY HÀ

DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ
TRONG VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
(KHẢO SÁT SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN,
Y BAN, LÝ LAN, NGUYỄN THỊ THU HUỆ)

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS TRẦN THIỆN KHANH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã được công bố theo
đúng quy định. Kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan. Các kết quả này chưa được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thúy Hà


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. GIỚI NỮ NHƯ LÀ SẢN PHẨM KIẾN TẠO XÃ HỘI............ 9
1.1. Khái niệm giới, diễn ngôn và diễn ngôn về giới nữ ............................... 9
1.2. Nữ tính, nam tính như là sự kiến tạo xã hội.......................................... 10
1.3. Giới nữ trong văn học như là một vấn đề văn hóa - xã hội .................. 11
Chương 2. SỰ KIẾN TẠO HÌNH ẢNH GIỚI NỮ TRONG TÌNH YÊU
VÀ HÔN NHÂN ............................................................................................ 16
2.1. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong tình yêu ...................................... 16
2.2. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong hôn nhân..................................... 37
Chương 3. SỰ KIẾN TẠO VỊ THẾ CỦA GIỚI NỮ TRONG GIA ĐÌNH

VÀ CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI ...................................................................... 40
3.1. Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong gia đình ..................................... 40
3.2. Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong đời sống xã hội ......................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 93


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những khuynh hướng, phương pháp nghiên cứu nổi bật trong các
khoa học xã hội hiện đại là lý thuyết diễn ngôn. Diễn ngôn học là một lĩnh vực
nghiên cứu liên ngành. Nghiên cứu diễn ngôn không chỉ có quan hệ mật thiết với
ngôn ngữ học, kí hiệu học mà còn gắn liền với với các thành tựu của văn hóa học,
xã hội học, tri thức luận, sử học… Bàn về triển vọng của lý thuyết thuyết diễn ngôn
đối với khoa học hàn lâm, nhà nghiên cứu O.F.Rusakova khẳng định: “Ngày nay,
lĩnh vực nghiên cứu có tên gọi là ‘lí thuyết diễn ngôn’ là một trong những khuynh
hướng đang phát triển mạnh mẽ nhất trong các khoa học xã hội hiện đại. Chứng cớ
là hàng năm, số lượng các ấn phẩm, các hội thảo khoa học, các giáo trình đại học,
các luận văn, luận án dành cho những lĩnh vực khác nhau trong việc vận dụng các lý
thuyết diễn ngôn và phân tích diễn ngôn đang không ngừng tăng lên”. Lý thuyết
diễn ngôn tương thích với nhu cầu khám phá những cơ chế tạo dựng tri thức, niềm
tin, sự kiến tạo chủ thể, các mối quan hệ quyền lực và sự thực hành xã hội đa
dạng…. Đặc biệt, đối với văn chương, lý thuyết diễn ngôn có thể mở ra một cách
đọc mới, một cách lý giải mới các cơ chế ngầm vận hành văn bản.
Theo chúng tôi, một trong những đối tượng tương thích với thế mạnh của lý
thuyết diễn ngôn là văn xuôi nữ. Ở Việt Nam, từ 1986 trở lại đây, văn xuôi nữ
phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những hiện tượng đáng chú ý, cả về mặt
văn học lẫn bình diện văn hóa, xã hội. Dù sự phát triển nở rộ của văn xuôi nữ là
một “vấn đề” của đời sống văn học đương đại, song hầu hết các nghiên cứu về văn

xuôi nữ Việt Nam thời gian gần đây, đều chọn điểm xuất phát từ một vài khung tri
thức quen thuộc: khám phá, đánh giá, lý giải từ đặc trưng thi pháp thể loại hay
phong cách học,…. Những phương pháp này rõ ràng đã đem lại nhiều khám phá
mới mẻ và hấp dẫn về phương diện nghệ thuật, nhưng dường như lại thiếu chiều
sâu cần thiết trước các vấn đề văn hóa, xã hội chi phối sự kiến tạo và tiếp nhận
các tác phẩm. Thực tế cho thấy, câu chuyện chính của văn xuôi nữ chính là các

1


cấu trúc văn hóa, xã hội, chứ không phải là câu chuyện văn chương nghệ thuật
đơn thuần.
Nhìn chung, chúng tôi lựa chọn văn xuôi nữ đương đại Việt Nam là đối
tượng khảo sát, vì đây không chỉ là một hiện tượng văn học, mà còn là hiện tượng
văn hóa, xã hội đáng chú ý. Việc sử dụng lý thuyết diễn ngôn xem xét văn xuôi
nữ, có thể đem lại một cách đọc mới, cách nhìn mới, cách lý giải mới phù hợp với
bản chất của hiện tượng này. Tuy nhiên, do vấn đề đặt ra trong văn xuôi nữ đương
đại rất rộng lớn, nên trong khuôn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi chỉ dừng lại
ở vấn đề sự kiến tạo hình ảnh giới nữ (sự tái định nghĩa nữ tính) trong các trường
hợp sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ.
Y Ban là vừa là nhà văn, vừa là nhà báo, diễn ngôn của tác giả này về giới nữ
tiêu biểu cho một kiểu diễn ngôn giàu tính truyền thông - báo chí, tác phẩm của Y
Ban chứa đựng một thứ ngôn ngữ đương đại sống động về giới nữ. Dạ Ngân ngoài
sáng tác, cũng là một nhà báo, nhưng khác với Y Ban, Dạ Ngân vừa muốn thoát
khỏi sự “thu xếp của định mệnh”, vừa không thể thoát khỏi cái nhìn có tính khuôn
mẫu về giới nữ, vốn đã được kiến tạo, duy trì trong các định chế truyền thống. Lý
Lan, một nhà văn gốc Hoa, thành thạo tiếng Anh, đã có tiếp xúc với lý thuyết nữ
quyền, nhưng sáng tác của bà lại có những dấu chỉ về một kiểu diễn ngôn đã được
chính thống hóa. Nguyễn Thị Thu Huệ, một tác giả giữ nhiều chức vụ xã hội,
đứng ở trung tâm, giữa những ràng buộc của thiết chế xã hội, chính trị, để diễn

giải lại về giới nữ. Sáng tác của Y Ban có dấu viết của một thứ diễn ngôn ngoại
biên, thiểu số hướng đến trung tậm. Còn tác phẩm của Dạ Ngân, Lý Lan, Nguyễn
Thị Thu Huệ có dấu vết của thứ diễn ngôn trung tâm hướng ra ngoại biên. Cả Dạ
Ngân, Y Ban, Lý Lan và Nguyễn Thị Thu Huệ đều là các nhà văn nữ, bàn về sự
kiến tạo giới nữ (sự tái định nghĩa nữ tính) của chính các nhà văn nữ có ý nghĩa
đặc biệt, nếu chúng ta thừa nhận rằng ngôn ngữ chính dùng để kiến tạo thế giới lâu
nay vẫn là ngôn ngữ nam giới. Bởi vậy, thực chất việc khảo sát diễn ngôn về giới
nữ của các nhà văn nữ đương đại, là miêu tả sự hình thành một ngôn ngữ riêng của
nhà văn nữ về chính giới nữ trong đối sánh với diễn ngôn nam giới về “kẻ khác”.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Sự du nhập, giới thiệu lý thuyết diễn ngôn cũng như việc vận dụng nó
trong nghiên cứu văn học Việt Nam cho đến nay có rất ít thành tựu, nếu không
muốn nói còn ở tình trạng sơ khai.
Đời sống học thuật ở Việt Nam ghi nhận, khái niệm diễn ngôn, phân tích diễn
ngôn được đề cập và bàn thảo đầu tiên trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Trần Ngọc
Thêm, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Thái Hòa... sớm quan tâm đến
vấn đề này, đặc biệt là Diệp Quang Ban [11], Nguyễn Hòa [43]… là hai tác giả có
nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về diễn ngôn, phân tích diễn ngôn. Bên cạnh những
đóng góp của các nhà nghiên cứu vừa kể, còn có những nỗ lực dịch và giới thiệu
đường hướng phân tích diễn ngôn của các giả dịch giả như Hồng Nhâm, Trúc
Thanh, Ái Nguyên, Trần Thuần, Hoàng Văn Vân….
Nhìn sang lĩnh vực xã hội học, văn hóa học, sử học, văn học…. dễ thấy, việc
dịch, giới thuyết về khái niệm này cũng còn khá sơ lược. Riêng trong nghiên cứu
văn học, một số công trình phê bình hoặc biên soạn, tổng thuật, giới thiệu các lý
thuyết văn chương hiện đại, dù có đề cập đến khái niệm này song có thể nói là chưa
đủ để hiểu một cách đúng đắn, có hệ thống về lý thuyết diễn ngôn; chưa đáp ứng

được yêu cầu thay đổi hệ hình/ hình thành một khung tri thức mới làm cơ sở cho
việc mở rộng phạm vi nghiên cứu cũng như xây dựng quan điểm phương pháp luận
mới mẻ trong khoa nghiên cứu văn học hiện đại ở nước ta.
Thuật ngữ diễn ngôn được tìm thấy xuất hiện trong các công trình như Chủ
nghĩa cấu trúc và văn học của Trịnh Bá Đĩnh [39]; Sự đỏng đảnh của phương
pháp do Đỗ Lai Thuý biên soạn và giới thiệu [133]; Năm 2003, Đào Tuấn Ảnh,
Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân công bố công trình Các khái niệm và thuật ngữ của
các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ 20 [158] dịch từ
tiếng Nga. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên giải thích cụ thể khái niệm diễn
ngôn, thực diễn ngôn và diễn ngôn tâm thần phân lập, mà trước đó việc diễn giải
chúng còn thiếu cơ sở, mơ hồ, phiến diện. Sau công trình của nhóm Đào Tuấn Ảnh,
thuật ngữ và khái niệm diễn ngôn tiếp tục hiện diện qua các bản dịch của Vũ Hoàng

3


Địch, Trần Ngọc Vương [165]; Đặng Anh Đào [152], Lê Hồng Sâm [174], Nguyễn
Tuệ Đan, Tôn Thất Huy [166]; Trần Duy Châu, Lộc Phương Thủy, Phùng Văn Tửu,
Ngân Xuyên [160], Trần Huyền Sâm, Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu và các nghiên
cứu của Trương Đăng Dung, Nguyễn Hưng Quốc, Phương Lựu, Lã Nguyên [97],
Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Điệp, Trần Văn Toàn, Phạm Quốc Lộc, Lê Nguyên
Long, Lê Thị Vân Anh, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần
Thiện Khanh [126]…. Xét kĩ một số trường hợp, chúng tôi cho rằng, bài viết “Các
lý thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại” của O.F.Rusakova do Lã
Nguyên dịch [97] , và các tiểu luận “Ba cách tiếp cận diễn ngôn” [78] của Nguyễn
Thị Minh Ngọc, “Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của M.Foucault và nghiên cứu văn
học” []124] của Trần Văn Toàn đánh dấu một bước chuyển đáng chú ý đối với việc
tiếp nhận, du nhập lý thuyết diễn ngôn.
2.2. Khác với tình hình dịch, giới thiệu lý thuyết diễn ngôn, việc nghiên cứu
văn xuôi nữ đương đại rất đa dạng. Đã có nhiều công trình lấy văn học nữ, văn xuôi

nữ, thơ nữ nói chung làm đối tượng khảo sát, đấy là chưa kể có không ít nghiên cứu
trường hợp.
2.3. Mặc dù cách tiếp cận, cũng như điểm tựa lý thuyết của các nghiên cứu về
văn học nữ rất phong phú. Tuy nhiên, vấn đề giới trong văn học Việt Nam nói
chung, đặc biệt vấn đề giới nữ trong văn xuôi nữ đương đại nói riêng vẫn chưa được
quan tâm thích đáng.
Chúng tôi thấy việc nghiên cứu vấn đề giới trong văn học gần đây được thực
hành chủ yếu bởi các nhà nghiên cứu phê bình thế hệ 7x và 8x. Tiêu biểu là Trần
Văn Toàn, Hồ Khánh Vân, Nguyễn Thị Vân Anh…. Tác giả Trần Văn Toàn trong
các nghiên cứu như Nam tính hóa nữ tính - Đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ góc
nhìn giới tính [121], Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật Trường hợp của
Dũng trong Đoạn tuyệt [122]; Nguyễn Thị Vân Anh trong một nghiên cứu thử
nghiệm Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam
[4], Thái Phan Vàng Anh trong Văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 - nhìn từ
diễn ngôn giới [6],… cho thấy cốt lõi các diễn giải của họ là xuất phát từ lý thuyết

4


diễn ngôn đan xen với thi pháp học. Nguyễn Đăng Điệp trong Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại [126]; Hồ Khánh Vân trong
Từ lý thuyết phê bình nữ quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác
giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay [147]; Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước
đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỉ
XX [148]; Ý thức về địa vị giới thứ hai trong một số sáng tác của các tác giả nữ Việt
Nam và Trung Quốc từ 1980 đến nay [126]; Nguyễn Thị Thanh Xuân trong Vấn đề
phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại (qua sáng tác
của một số nhà văn nữ tiêu biểu) [151]; John C.Schafer trong Đọc Phạm Duy và Lê
Vân tư duy về nam giới và nữ giới [161] cho thấy sự quan tâm đến giới nữ từ nữ
quyền luận đan xen với lý thuyết về giới, đôi chỗ còn trộn lẫn với thi pháp học,

phong cách học. Trần Nho Thìn trong Từ thực tiễn Việt Nam, góp thêm một tiếng
nói phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ
quyền[126], tiếp cận vấn đề từ góc độ văn hóa học, nữ quyền luận xen với phê phán
tư tưởng hệ.
Tóm lại, các nghiên cứu về văn học nữ [văn xuôi nữ, thơ nữ] ở Việt Nam thời
gian qua, thường đặt ra các vấn đề về tâm lý, thể loại, nhân vật, giọng điệu, bút
pháp, ngôn ngữ…. Góc độ tiếp cận chủ yếu vẫn là tâm lý học sáng tạo, xã hội học,
và đặc biệt là thi pháp học, phản ánh luận. Từ những góc độ đó, các kết luận thường
được rút ra là các đặc điểm riêng về hoàn cảnh sáng tác, đặc trưng về nhân vật, đề
tài, giọng điệu, bút pháp, ngôn ngữ…. của một vài tác giả cụ thể cũng như của văn
học nữ nói chung. Không ít nghiên cứu chủ trương đi tìm mối liên hệ giữa nhân vật
trung tâm và tác giả tiểu sử, hướng đến việc gán cho tác phẩm tính chất tự thuật, tự
truyện.
Các nghiên cứu về giới nữ trong văn học Việt Nam tiếp cận từ góc độ giới, nữ
quyền hay diễn ngôn thường tập trung vào văn học từ sau 1986 đến nay, một số tiểu
luận quan tâm đến các diễn ngôn, các diễn giải về giới trong văn học hồi đầu thế kỷ
XX. Trong phạm vi trường quy, lý thuyết diễn ngôn có xu hướng trở thành thời
thượng, khi được vận dụng vào việc triển khai các khóa luận, luận văn: điểm nổi bật

5


ở các trường hợp này là tiếp nhận lý thuyết diễn ngôn của M. Foucalt, hạn chế chính
là chưa hiểu thấu đáo quan điểm của Foucault, thành ra lý thuyết một đằng nhưng
phương pháp và mô hình triển khai cơ bản vẫn theo mô hình lý thuyết, phương pháp
vốn rất quen thuộc hay đang thống trị trong các trường học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của việc nghiên cứu diễn ngôn về giới nữ trong văn xuôi nữ đương
đại là: Chỉ ra hình ảnh giới nữ được kiến tạo ra sao trong các tác phẩm của nhà văn
nữ hiện nay; để lý giải các hình ảnh ấy luận văn phải làm rõ cơ chế kiến tạo, các

thiết chế xã hội của các diễn ngôn….
- Nhiệm vụ chính của luận văn gồm
Xác lập các hiểu thống nhất về khái niệm nữ tính/nam tính, khái niệm diễn
ngôn cũng như diễn ngôn về giới nữ
Phân tích, lý giải những điểm đặc thù trong diễn ngôn về giới nữ của các nhà
văn nữ Việt Nam đương đại: so sánh với các diễn ngôn về giới nữ trước Đổi mới và
các diễn ngôn về giới nữ trong văn xuôi của các nhà văn nam đương đại, nhằm chỉ
ra sự duy trì và đồng thời là sự giải kiến tạo các diễn ngôn về nữ tính của văn xuôi
nữ Việt Nam đương đại
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các diễn ngôn về giới nữ của
chính giới nữ (các nhà văn nữ), cụ thể bao gồm sự định nghĩa lại nữ tính/sự kiến tạo
hình ảnh nữ giới trong tình yêu – hôn nhân, gia đình và các mối quan hệ xã hội…
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: [văn xuôi nữ Việt Nam đương đại] tập
trung khảo sát các tác phẩm Dạ Ngân, Lý Lan, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ. Luận
văn nhìn nhận sáng tác của các nhà văn này như là các trường hợp tiêu biểu và là
những biểu hiện cụ thể, sinh động của các diễn ngôn đương đại về giới nữ.
5. Cơ sơ lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu diễn ngôn đòi hỏi sự tiếp cận đa ngành, liên ngành. Do đó, luận
văn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp:

6


- Phương pháp loại hình: luận văn sử dụng phương pháp này để xem xét hiện
tượng văn học nữ [văn xuôi nữ), xác định tính chất loại hình của văn học này cũng
như các diễn ngôn về giới trong nó. Khung phân loại được sử dụng để xác định đặc
điểm chung của hiện tượng văn học nữ ở đây là diễn ngôn: xác định diễn ngôn của
giới nữ và diễn ngôn về giới nữ.
- Phương pháp văn hóa học: phương pháp này trước hết trang bị cho tác giả

luận văn quan điểm: đặt văn học vào trong hệ thống văn hóa, lý giải văn học từ văn
hóa. Cụ thể việc nghiên cứu diễn ngôn về giới nữ sẽ được đặt vào cái bối cảnh văn
hóa truyền thống và đương đại đê nhìn nhận, mô tả và lý giải nó, xem diễn ngôn đó
như là sản phẩm của sự kiến văn hóa.
- Phương pháp xã hội học: luận văn nhìn nhận diễn ngôn như là sản phẩm kiến
tạo xã hội, diễn ngôn về giới nữ là sản phẩm của tư tưởng hệ, của một thời kỳ lịch
sử, xã hội; diễn ngôn được kiến tạo, thực hành và bị kiểm soát theo một trật tự diễn
ngôn.
- Phương pháp phân tâm học: sử dụng phương pháp này luận văn có thêm một
góc độ lý giải về ngôn ngữ, vô thức của nữ giới ở việc kiến tạo hình ảnh giới nữ
trong tình yêu – hôn nhân, trong không gian gia đình cũng như các mối quan hệ xã
hội.
- Phương pháp kí hiệu học: phương pháp này được sử dụng hỗ trợ cho các
phương pháp văn hóa học, xã hội học, nhằm xác định một kí hiểu quyển và quá
trình kí hiệu hóa ngôn ngữ… của giới nữ
Ngoài các phương pháp trên, luận văn còn sử dụng thường xuyên các thao tác
thống kê, tổng hợp, so sánh…. nhằm làm rõ hơn những vấn đề được đặt ra và tăng
tính thuyết phục cho các kết luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Chỉ ra nam tính, nữ tính là sự kiến tạo về mặt xã hội
- Làm sáng tỏ sự kiến tạo hình ảnh giới nữ (vị thế của người nữ) trong tình
yêu, hôn nhân, gia đình (vai trò làm vợ, làm mẹ, nội trợ…) và đời sống xã hội (sự

7


kiến tạo tri thức, nghề nghiệp và tính độc lập về kinh tế….) của các sáng tác nữ Việt
Nam đương đại
- Bước đầu nhận diện sự giải kiến tạo diễn ngôn về nữ tính và sự tạo dựng một
diễn ngôn khác về giới nữ của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trong đối sánh

với diễn ngôn truyền thống.
7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Tư liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm
3 chương
Chương 1: Giới nữ như là sản phẩm kiến tạo xã hội
Chương 2: Sự kiến tạo hình ảnh giới nữ trong tình yêu và hôn nhân
Chương 3: Sự kiến tạo vị thế của giới nữ trong gia đình và đời sống xã hội

8


Chương 1
GIỚI NỮ NHƯ LÀ SẢN PHẨM KIẾN TẠO XÃ HỘI
Chương này phân biệt khái niệm giới và giới tính; diễn ngôn về giới nữ của
các nhà văn nữ [chủ thể sáng tạo] và diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nam [chủ
thể sáng tạo].
Đồng thời khẳng định nam tính và nữ tính không phải là tự nhiên, mà là các
sản phẩm kiến tạo về mặt xã hội. Diễn ngôn về giới nữ thay đổi theo từng ngữ cảnh
văn hóa xã hội.
1.1. Khái niệm giới, diễn ngôn và diễn ngôn về giới nữ
Giới (gender) khác với giới tính (sex). Lâu nay trong một số thực hành phê
bình văn học, hai khái niệm này được xem là đồng nghĩa, do đó thường bị dùng lẫn
lộn, thay thế cho nhau.
Theo các nhà xã hội học, giới tính lá khái niệm dùng chỉ sự khác biệt về sinh
lý căn bản giữa đàn ông và đàn bà, “khác biệt về cơ quan sinh dục và những khả
năng sinh sản” [132, tr.17]. Còn khái niệm giới đề chỉ chị sự phân biệt về mặt xã
hội và văn hóa.
Các nhà nhân học xã hội cũng phân biệt, khái niệm “giới là sản phẩm của của
văn hóa liên quan đến những quan niệm và hành vi được xem là phù hợp với mỗi
giới tính” [132, tr.17], giới là “cấu trúc văn hóa - xã hội” [132, tr.20], “giới được tạo

thành không chỉ trong gia đình hoặc trong quan hệ giữa các cá nhân mà còn trong
cấu trúc của tất cả các thiết chế xã hội chủ yếu, bao gồm trường học, tôn giáo, kinh
tế và chính trị; những thiết chế này định hướng cho tất cả chúng ta nam giới hay phụ
nữ, những thành viên trong một xã hội cụ thể” [132, tr.21]. Giới tính là thuật ngữ
chỉ “những đặc điểm nhận dạng bên ngoài phân biệt một người nam với một người
nữ, cần thiết cho sự tái sản xuất sinh học của con người” [132, tr.17]. Trong khi giới
tính là một đặc trưng sinh học thì giới là một đặc trưng xã hội-văn hóa. Vì là đặc
điểm sinh học nên giới tính có tính bẩm sinh, đồng nhất, phổ quát và không thay

9


đổi; cũng như vậy, do là đặc trưng văn hóa-xã hội nên giới có là sản phẩm xã hội
hóa, có tính đa dạng, đặc thù cho từng thời kỳ, văn hóa, xã hội và có thể thay đổi.
Theo các nhà nữ quyền luận, không chỉ giới mà cả giới tính đều là các kiến tạo
xã hội. Không có sự khác biệt tự nhiên giữa giới nam và giới nữ, yếu tố sinh học
không quy định các hành vi xã hội của con người, mà chính cấu trúc văn hóa xã hội
[thông qua các thiết chế như gia đình, nhà trường, các phương tiện thông tin đại
chúng…] quy định sự khác biệt đó. Sự khác biệt giữa giới nam và giới nữ là do xã
hội, văn hóa tạo nên chứ không phải là sự tồn tại đương nhiên, tự nhiên, sẵn có.
Ngay cả giới tính cũng có thể do xã hội, văn hóa tạo nên, tạo ra.
Diễn ngôn là ngôn ngữ trong hoạt động, ngôn ngữ trong sự hành chức của nó.
Nói đến diễn ngôn là “nói đến những phương thức hoặc quy tắc đặc trưng của việc
tổ chức hoạt động ngôn từ” [158, tr.157]. Diễn ngôn là quá trình kí hiệu hóa để tạo
nghĩa. “Diễn ngôn được tạo lập nên từ tri thức và những quan hệ quyền lực đa dạng
trong cuộc sống. Diễn ngôn, đến lượt nó, cũng là phương cách tạo lập nên tri thức,
cùng với những thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể và mối quan hệ quyền
lực. Được bắt rễ trong ngôn ngữ, diễn ngôn tạo ra niềm tin, niềm tin biến thành tri
thức, và tri thức tạo nên quyền lực. Bởi vậy sẽ không có tri thức nào là chân lý tuyệt
đối và hoàn toàn khách quan” [149, tr.5]. Mọi diễn ngôn đều là sản phẩm của văn

hóa, xã hội.
Khái niệm diễn ngôn của giới nữ khác với diễn ngôn về giới nữ. Khái niệm
thứ nhất đề cập đến giới nữ như một chủ thể, xác định giới nữ có một diễn ngôn
so với giới nam. Diễn ngôn của giới nữ có thể kiến tạo nghĩa cho bất cứ hiện
tượng, đối tượng nào Trong khi đó khái niệm thứ hai, cho thấy, giới nữ là đối
tượng định nghĩa của diễn ngôn, chủ thể của diễn ngôn đó có thể là giới nam
hoặc chính là giới nữ.
1.2. Nữ tính, nam tính như là sự kiến tạo xã hội
Như đã nói ở trên (đồng thời cũng là quan điểm của luận văn này), giới
nam và giới nữ là sản phẩm của sự kiến tạo xã hội. Nam tính và nữ tính trong
phạm vi luận văn không được dùng theo nghĩa sinh học, mà là những kiến tạo xã

10


hội, văn hóa. Nam tính và nữ tính không phải là sản phẩm tự nhiên, mà là sản
phẩm của xã hội.
Thừa nhận, nam tính và nữ tính là sản phẩm văn hóa, thì “tất yếu phải chấp
nhận một thực tế: không có một quan niệm duy nhất, phổ quát cho cái gọi là nam
tính (masculine) hay nữ tính (femininity). Nam tính hay nữ tính biến đổi một cách
đa dạng từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác; và ngay trong một nền văn hóa
thì nam tính và nữ tính cũng luôn biến đổi từ thời kì này sang thời kì khác. Điều này
giải thích vì sao trong những công trình nghiên cứu về giới hiện nay nam
tính hay nữ tính thường được dùng ở dạng số nhiều: những - nam tính
(masculinities) và những – nữ tính (femininities). … những quy phạm về nữ tính và
nam tính không phải là một tồn tại có tính chất tự nhiên mà là sản phẩm của diễn
ngôn được kiến tạo từ một hệ hình tri thức và những tương quan quyền lực của một
thời đại cụ thể.” [121, tr.22].
1.3. Giới nữ trong văn học như là một vấn đề văn hóa - xã hội
"Đàn ông có thể coi văn chương như một thứ say mê, tạo kỳ đài. Còn đàn bà

viết văn xưa nay phần nhiều là để trải lòng. Viết cho mình. Viết bằng thứ bản năng
mách bảo thần thánh nhiều hơn là viết bằng trí khôn. Thế nên, đàn ông viết văn
nhiều khi viết bằng cái thông minh lồng lộng, còn đàn bà thường viết bằng tình yêu,
bằng trái tim giàu trắc ẩn". Nếu coi văn chương là lĩnh vực của sự sáng tạo, sự độc
đáo, nơi cá tính được tôn vinh thì việc phụ nữ cầm bút làm văn chương xác nhận
nhu cầu khẳng định giới tính của mình. Bởi vậy, dù họ đề cập tới những vấn đề vĩ
mô hay nhỏ bé, xa xôi hay gần gụi thì văn chương vẫn bộc lộ sự tinh tế, những góc
nhìn riêng của đặc trưng giới tính. “Xưa nay bất kỳ nước nào cũng vậy, văn học là
phần đàn ông, đàn ông là trung tâm của văn học” [57, tr.423], văn chương ở xứ ta
bao đời nay dường như vẫn chỉ dành riêng cho vài đấng nam nhi thi thố. Phụ nữ
“như đã bị ruồng đuổi ra ngoài bờ cõi văn học” [57, tr. 432], một vài gương mặt phụ
nữ hiếm hoi xuất hiện được coi là hiện tượng đặc biệt, là hiện tượng của văn
chương. Tác phẩm của họ được xem như là những tiếng nói than thân, phản kháng
chế độ nam quyền, là lời kêu gọi sự ban ơn của nam giới. Nhưng người phụ nữ hiện

11


đại chọn viết văn để “sống một cuộc sống khác” (lời tự bạch của Xuân Quỳnh), họ
viết văn bằng tri thức, bằng thái độ kiêu hãnh tự tin khẳng định bản lĩnh giới mình
và giá trị văn chương của mình. Họ dùng văn chương để “tấn công vào những quan
niệm đầy màu sắc nam quyền, tố cáo tình trạng bị nhào nặn thành phụ nữ theo
những tín điều người khác áp đặt cho giới mình” [57, tr.300].
Gần một thế kỷ trước, Phan Khôi đã dự đoán rằng biết đâu nữ lưu sau này sẽ
“trở nên người chủ trương của văn học”. “Nếu văn học mà quả lấy nữ tánh làm
trung tâm thì đàn bà chủ trương lấy nền văn học là phải, mà như vậy thì văn học có
lẽ lại tấn bộ hơn trước. ” [57, tr. 432,]. Chỉ mấy chục năm sau lời tiên tri của Phan
Khôi đã thành sự thật.
Phan Khôi, người được coi là tiếp nhận văn học từ ánh sáng của nữ quyền,
trong bài viết: Văn học với nữ tánh ông đưa ra những luận giải vì sao nữ giới có

quan hệ với văn học. Ông cho rằng đàn bà có nhiều tính chất thích hợp với văn học
như trầm tĩnh, nhẫn nại, nhiều tình cảm,..vì thế đàn bà lấy những tính đó mà chuyên
theo nghề văn học thì dễ và mau chóng thành công hơn đàn ông. Văn học với nữ
tính có quan hệ, nữ tính choán hết mấy phần trong văn học. Ông đưa ra hai ý kiến.
Thứ nhất, phụ nữ là biểu hiện cho cái đẹp và những gì liên quan đến cái đẹp đều gắn
với họ, còn “cái đẹp là cái cốt của văn học” cho nên “văn học hay tả về đàn bà”; thứ
hai, phụ nữ vốn mang bản chất của nữ tính, sự mềm mại, yếu đuối, thiên về bộc lộ
đời sống tình cảm từ bên trong mà “văn học trọng đường tình cảm”, nên văn học
“nói chuyện đàn bà thì khiến cho người ta dễ cảm, cho nên nói về đàn bà nhiều
hơn” [57, tr.429].
Vậy, điều kiện nào để phụ nữ trở thành chủ thể sáng tạo? Trước hết phải là
học. “Người ta không phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ” (Beauvoir).
Những thuộc tính mà từ trước đến nay người ta vẫn áp đặt cho phụ nữ không phải là
cái vốn có, bản chất phụ nữ, mà do người đàn ông áp đặt cho phụ nữ thông qua văn
hóa, giáo dục. Mặt khác bản thân người phụ nữ cũng luôn cho rằng mình yếu kém
hơn đàn ông, mình là “thứ hai”. Nước ta từ xưa tới nay trọng nam khinh nữ, đàn bà
sinh ra chỉ là cái vật phụ thuộc vào đàn ông nên không cần học hành mà tự đàn bà

12


cũng nghĩ rằng không cần học làm gì, chỉ một mình đàn ông học cũng đủ [57,
tr.421]. Trong xã hội phụ quyền, phụ nữ học chỉ để phục vụ chồng con và những
người thân trong gia đình mà không được thi thố ngoài xã hội, bởi phụ nữ còn phải
tuân theo các quy tắc “Tam tòng”, “Tứ đức”. Quan niệm “phụ nhân nan hóa” ấn
định rất rõ ràng trong đời sống văn hóa, người phụ nữ luôn bị coi và tự coi là “phái
yếu. Chữ “tài”, chữ “trí” chỉ gắn liền với người quân tử, kẻ trượng phu. Phụ nữ bị
xếp chung hàng với hạng tiểu nhân. Họ không có quyền đi học hay tham gia thi cử,
không có mặt trong bộ máy quản lí làng xã hay có bất kì tiếng nói nào trong những
vấn đề “nghị sự”. Khổng Tử cho rằng: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã.

Cận chi, tắc bất tốn, viễn chi tắc oán” (chỉ có đàn bà và bọn tiểu nhân là khó nuôi
dạy. Hễ ta gần gũi thì khinh nhờn, hễ ta xa cách thì oán ghét). Từ đó nảy sinh tư
tưởng trọng nam khinh nữ, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”… Nhưng cho đến
nay thì sự bất bình ấy không còn nữa, sự học thì không ai kém ai và nền văn học
văn học tương lai là chung cho tất cả đàn bà Việt?”
Thời trung đại, dưới ảnh hưởng của diễn ngôn Nho giáo, phạm vi nam - nữ
được phân chia một cách rạch ròi, vị thế chủ yếu thuộc về nam giới, “phu xướng
phụ tùy”, người đàn ông nắm trong tay quyền quyết định và người phụ nữ là người
phục tùng. Những quan niệm đạo đức chuẩn mực “phụ nhân nan hóa”, “Tam tòng,
Tứ đức” của Nho giáo trở thành cái cùm để giam cầm nữ giới, “đẩy vị trí của họ
xuống hàng kẻ nô lệ, nô lệ không chỉ về kinh tế, chính trị, văn hóa, mà nô lệ cả về
tình cảm và tình dục”, là công cụ áp chế tinh thần người phụ nữ, ăn sâu vào tiềm
thức của họ quán tính: tự mình tu dưỡng, tự mình ràng buộc, tự mình nhược hóa
mình, là rào cản vô hình, hà khắc trói buộc tự do và kìm hãm sự phát triển của
người phụ nữ. Bởi vậy, “thế giới văn học thời trung đại Việt Nam là thế giới của
đàn ông,do đàn ông thống trị. Những lời bàn về thơ văn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX còn lưu giữ, truyền lại phổ biến, tuyết đối chỉ có lời nói của đàn ông, không có
tiếng nói phụ nữ, gần như không bàn về giới nữ”, “phụ nữ chỉ đóng vai trò thực
hành, gìn giữ và làm gia tăng quyền lực của những diễn ngôn nam giới” [171].
Trong văn chương, người phụ nữ rơi vào bi kịch “mất tiếng nói” [126, tr.169], hoặc

13


lời nói không có giá trị. Họ trở thành đối tượng thay vì trở thành chủ thể của văn
chương, họ không tồn tại với tư cách là chủ thể của diễn ngôn, của lời nói. Họ
mượn lời nam giới để diễn đạt văn chương của mình. Hầu hết các tác giả nữ trong
văn học trung đại như Lý Ngọc Kiều, Lê Thị Yến (Ỷ Lan), Ngô Chi Lan, Đoàn Thị
Điểm, Phạm Lam Anh, Lê Ngọc Hân, Trương Thị Trong, Nguyễn Trinh Thận,
Nguyễn Thị Hinh (Bà Huyện Thanh Quan), Nguyễn Tĩnh Hòa, Nguyễn Thị Nhược

Bích,…đều nói bằng ngôn ngữ của giới nam.
Thời kì 1945- 1975 dân tộc Việt Nam bước vào cuộc chiến đầy cam go, thử
thách với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Cả dân tộc quyết liệt đấu tranh để chiến đấu
và chiến thắng kẻ thù. Văn học trở thành một thứ vũ khí tham gia trực tiếp vào hai
cuộc kháng chiến nhằm bảo về độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Giọng điệu
sử thi là âm hưởng chính của giai đoạn văn học này. Văn học hướng tới những sự
kiện lịch sử có tính cộng đồng dân tộc, nhân vật thường đại diện cho vẻ đẹp phẩm
chất của con người Việt Nam. Văn học động viên, kêu gọi, khích lệ mỗi cá nhân
phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp chung của dân tộc. Trong văn xuôi của
nhiều tác giả, người phụ nữ được nhìn nhận như những anh hùng mang vẻ đẹp của
thời đại như: chị Sứ (Hòn đất - Anh Đức), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng Nguyễn Thi), Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu), Phương Định
(Những ngôi xao xa xôi - Lê Minh Khuê),… Con người cá nhân nhường chỗ cho
con người cộng đồng. Hình tượng nhân vật được xây dựng trong văn học hầu hết là
những hình tượng phi giới tính. Vì vậy, trong diễn ngôn sử thi, người nữ được khai
thác ở khía cạnh xã hội, mà chưa chú ý nhiều đến những đặc trưng về giới.
Từ 1986, công cuộc Đổi mới đã đem lại nhiều chuyển biến lớn lao trên mọi
phương diện của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh tiếp xúc với
nhiều luồng tư tưởng mới, giao lưu văn hóa đa chiều của nền kinh tế thị trường,
công nghiệp hóa hiện đại hóa, thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin,…nâng cao
học vấn cũng là một thành tựu đáng được ghi nhận. Sự đổi mới toàn diện mọi mặt
từ chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế,…tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học
đương thời. Văn học chuyển từ âm hưởng sử thi sang phản ánh cuộc sống thế sự.

14


Văn học quan tâm đến con người cá nhân, tới nhu cầu và khát vọng đời thường.
Hình tượng người nữ xưa nay được nhìn nhận, đánh giá dưới cái nhìn của nam
quyền thì giờ đây được nhìn bằng con mắt của chính họ. Văn xuôi nữ đương đại đã
thực sự chiếm ưu thế trên văn đàn. Văn xuôi đương đại thực sự đã có những tiếng

nói mới mẻ của giới nữ với sự đóng góp của hàng loạt cây bút nữ tài năng như Lê
Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Lý Lan,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư,…Trong sáng tác của họ, nữ giới
được nhìn như một khách thể thẩm mĩ độc lập, một đối tượng cần được khám phá,
lý giải. Các nhà văn nữ thoải mái phô bày đời sống, tâm tư tình cảm, khát vọng, nhu
cầu của bản thân mà không cần dấu diếm. Phụ nữ sáng tác với vai trò là một chủ thể
- một tác nhân chống lại sự kiến tạo của nam giới về nữ tính và vị thế xã hội của
giới nữ. Văn học nữ là diễn ngôn của giới nữ, là sự tự kiến tạo về giới mình.
Tiểu kết chương
Giới và giới tính, nam tính và nữ tính đều là các kiến tạo văn hóa - xã hội. Sự
khác biệt giữa giới nam và giới nữ không phải do yếu tố sinh học quy định, mà là
do xã hội, văn hóa (ngôn ngữ) tạo nên. Nam tính và nữ tính không tồn tại tự nhiên,
sẵn có, tiên nghiệm mà là những kiến tạo xã hội, có thể thay đổi, uốn nắn; mỗi xã
hội, cộng đồng, mỗi nền văn hóa và từng thời kỳ, … có một cách định nghĩa khác
nhau về nam tính và nữ tính. Không có sự thật nào về nam tính, nữ tính tồn tại bên
ngoài các diễn ngôn văn hóa.
Nói đến diễn ngôn là nói đến ngôn ngữ trong thực hành chức năng của chúng.
Diễn ngôn, tri thức, quyền lực gắn bó với nhau. Diễn ngôn tạo ra các niềm tin, niềm
tin tạo ra tri thức, tri thức tạo ra quyền lực. Đến lượt mình quyền lực chi phối sự
kiến tạo, diễn giải.
Khái niệm diễn ngôn về giới nữ xác định giới nữ như một chủ đề, đối tượng
của sự kiến tạo. Chủ thể của những sự định nghĩa, diễn giải này, trong phạm vi xem
xét của luận văn, là chính giới nữ. Giới nữ định nghĩa, diễn giải về bản sắc nữ tính
của chính họ.

15


Chương 2
SỰ KIẾN TẠO HÌNH ẢNH GIỚI NỮ TRONG TÌNH YÊU

VÀ HÔN NHÂN
Chương này xem vị thế xã hội là một vấn đề quan trọng đối với người nữ, nhìn
nhận những tri thức về vị thế xã hội của người nữ là một thứ quyền lực, một cơ chế
kiếm soát, ràng buộc, định đoạt số phận của người nữ trong xã hội.
Sau khi chỉ ra vị thế xã hội của người nữ chẳng qua cũng là một sự kiến tạo về
mặt xã hội, luận văn đi sâu phân tích các hình thức kiến tạo và sự thực hành duy trì
các vai trò, nhiệm vụ, bổn phận,…. của người nữ trong tình yêu, hôn nhân.
2.1. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong tình yêu
2.1.1.Trinh tiết như là phẩm giá của người nữ
Cho đến nay, diễn ngôn Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến nếp sống,
suy nghĩ, ngôn ngữ của người Việt. Trong phần lớn các cuộc tranh luận về chuẩn
mực, đạo đức, thì tiết hạnh của nữ giới vẫn được đề cao và trinh tiết của người nữ
vẫn được coi là thước đo để đánh giá nhân cách của họ. Xã hội không thể xóa bỏ bất
bình đẳng giới, phụ nữ sẽ không được đối xử công bằng nếu như vẫn quá coi trọng
và đề cao trinh tiết của họ.
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa: “Trinh tiết là người con gái còn
tân, còn trong trắng, chưa chồng và người con gái đó phải giữ được lòng trọn vẹn
thủy chung với chồng” [103, tr.1036]. Xét theo khía cạnh đạo đức thì trinh tiết biểu
trưng cho sự trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình yêu, người phụ nữ có
trinh tiết là người có ý thức tiết chế dục vọng giữ gì thân thể thuần khiết, chung thủy
với người bạn đời. Ở mỗi thời kỳ khác nhau cách giải thích, cách định nghĩa về
trinh tiết có sự thay đổi. Trinh tiết là một kiến tạo văn hóa, khái niệm này biểu hiện
sự kiểm soát của xã hội đối với (một phần) thân thể nữ.
Học giả Phan Khôi khẳng định: “Xưa nay trong đạo đàn bà, chữ trinh làm
trọng, chữ trinh cũng như những chữ đạo đức, nhân, nghĩa, đó là chữ ta hấp thụ
được từ văn hóa Tàu… Chữ trinh như một tín điều của một tôn giáo riêng dành cho
đàn bà…..” Dưới chế độ phụ hệ, con gái thuận Tam tòng, nếu mất trinh sẽ bị cha bỏ,

16



chồng không nhìn thành ra bơ vơ nên phải giữ trinh. Phan Khôi cũng cho rằng chữ
trinh có hai đường: nết và tiết. Cái nết nghĩa là cái nết đoan chính và chính chuyên
của người phụ nữ, đoan chính là có ý giữ mình nghiêm nghị không cho ai được
phạm đến, chính chuyên là buộc mình duy nhất với một người chồng mà thôi. Phụ
nữ vì cái ý chí phẩm giá của mình mà giữ trinh chứ không phải vì chồng hay vì ai
cả. Như thế, trinh là một cái nết, về sau người ta uốn nắn nó thành ra một cái tiết.
“Tiết là một cái dấu tỏ ra mình đã làm hết bổn phận của mình đối với người mà
mình thuộc về”. [57, tr.53]. Luật bắt đàn bà thủ tiết là do lòng ích kỷ của đàn ông
mà sâu xa hơn là do cái thuyết thủ tiết của Tống Nho. Dưới cái trị quyền theo học
thuyết Tống Nho, phụ nữ ta cũng đã bị ngược đãi mà chịu thiệt nhiều bề. Pháp luật
ta không cấm hẳn người đàn bà cải giá nhưng cũng cướp hết quyền lợi của người
đàn bà cải giá. Hạ người đàn bà cải giá xuống, tung người đàn bà thủ tiết lên. Phan
Khôi cho rằng ngày nay trong xã hội ta “cái hay của nết trinh chừng như còn lại
không được bao lăm, mà cái dở của nết trinh vẫn còn đè lên đầu hết một phần nữ
giới. Đó là kết quả của sự chuộng tiết hơn nết” [57,tr.57]. Cuối bài viết “Chữ trinh:
cái tiết với cái nết”, Phan Khôi đặt chữ trinh trong thời buổi cái thói dâm ô tràn
ngập cả thiên hạ, đàn bà con gái muốn giữ lấy nhân cách trên nền tự do độc lập thì
cần phản đối cái tiết trinh, trau dồi lấy cái nết trinh [57, tr.57]. Như thế trinh tiết
trong xã hội được nâng lên thành một chuẩn mực thiêng liêng, một áp lực phẩm
hạnh của riêng người phụ nữ nhưng lại bị biến thành “của cải xã hội” được đặt dưới
“cái nhìn công cộng” và sự phán xét công khai của cả cộng đồng, bị đặt dưới sự
diễn giải, kiến tạo, điều chỉnh và phán xét của diễn ngôn nam giới. Trinh tiết, như
vậy, trở thành một ám ảnh về phẩm tính, một sợi dây trói buộc nữ giới theo đạo đức
nam quyền, một mặc cảm quy thuộc tự biến thân thể mình thành thứ ‘đồ vật’ chịu
quyền sở hữu từ duy nhất một người đàn ông. Ý thức hệ Nho giáo đã định cho
người nữ truyền thống phải có đủ tứ đức “Công - Dung - Ngôn - Hạnh”. Trinh tiết
là một phạm trù đạo đức thuộc phạm vi nghĩa của từ “Hạnh”. Một trong những diễn
ngôn tạo nghĩa cho chữ trinh là: “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng”. Diễn ngôn này đã
xác định vị trí của chữ trinh đối với cuộc sống, cuộc đời người nữ, trinh giữ vai trò


17


làm nên giá trị đầy đủ của một phụ nữ. Trinh không chỉ là một chuẩn mực điểu
chỉnh hành vi của người nữ mà còn là một cơ sở để người nam định giá và lựa chọn
người nữ. Trong diễn ngôn văn học trung đại, việc người nam chọn vợ dựa vào tiêu
chuẩn chữ trinh khá phổ biến. Đối với nam giới, một người phụ nữ đoan trang, đứng
đắn, trong trắng là yêu cầu đầu tiên và mang tính chất quyết định khi chọn vợ.
“Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có đoạn miêu tả: “Vũ Thị
Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình đã “thùy mị, nết na, lại thêm tư
dung tốt đẹp”. Trong làng có chàng Trương Sinh, “mến vì dung hạnh”, xin với mẹ
đem trăm lạng vàng cưới về” [33, tr.176]. Rõ ràng, theo mô tả của Nguyễn Dữ,
Trương Sinh đã thực hành diễn ngôn Nho giáo, chọn Vũ nương vì “hạnh”. Tiết
hạnh ở đây chính là một thứ đảm bảo cho người phụ nữ được lựa chọn, là thước đo
phẩm chất đạo đức, đồng thời là một thử thách đối với người nữ. Trương Sinh trong
“Người con gái Nam Xương” không chỉ là người đề cao đức hạnh của Vũ nương
mà còn là người phát xét tiết hạnh của nhân vật này trong một tình huống thử thách
khác: xa chồng. Cái chết và sự minh oan của Vũ nương trong tác phẩm của Nguyễn
Dữ xoay quanh chủ đề: tiết hạnh. Trương Sinh biến tiết hạnh thành một thứ đạo đức
khắt khe, nghiệt ngã, thành sức mạnh vô hình trói buộc người phụ nữ và dồn người
nữ đến cái chết khi họ bị coi là thất tiết. Nam giới là người làm chủ diễn ngôn đạo
đức, giành được thẩm quyền xét duyệt phẩm chất tiết hạnh và định đoạt giá trị đời
sống của người nữ. Bởi thế lời nói của Vũ Nương không có giá trị. Cho dù Vũ
Nương gắng sức phân trần: “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”, “điều đâu bay buộc
chịu tiếng nhuốc nhơ”, thậm chí thề thốt: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược
bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm
cơm cho diều quạ, và xin khắp mọi người phỉ nhổ” cũng không hóa giải được mối
nghi ngờ về tiết hạnh của Trương Sinh. Cái chết của nàng, không phải là sự minh

oan cho một tấm lòng trinh bạch mà chính là sự thừa nhận vị trí quan trọng của tiết
hạnh, trinh tiết trong đời sống của người nữ, và xét cho cùng là thừa nhận sức mạnh
nam quyền. Người nữ trong xã hội ấy không có ý thức phản kháng, họ thụ động,

18


trông chờ sự minh oan, sự công nhận đức hạnh từ người đàn ông. Cái chết của Vũ
Nương và cả “phần thưởng”, sự hóa thân của nàng dường như củng cố thêm tầm
quan trọng của chuyện tiết hạnh, chứ chưa phải là giải oan. Sự giải oan cho nàng chỉ
có được khi Trương Sinh xuất hiện công nhận tiết hạnh của Vũ Nương lúc sống.
“Chuyện người con gái Nam Xương” thực chất là chuyện về tiết hạnh, đức hạnh
của người nữ trong xã hội phong kiến. Trong gia đình Nho giáo, phụ nữ phải giữ
gìn được sự trinh trắng đến khi về nhà chồng. Khi theo chồng, trinh là biểu hiện của
đạo làm vợ: “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”. Đó là yếu tố tiên quyết cuộc
sống hôn nhân của họ.
Một cô gái mất trinh vì bất cứ lý do gì (chủ quan hay khách quan) đều bị coi là
không có phẩm tiết, không đức hạnh, là “gái hư”. Phải chăng vì nỗi sợ hãi, nỗi ám
ảnh trong tiềm thức này mà trinh tiết đã trở thành một trong những mối quan tâm
đặc biệt trong sáng tác của nữ giới. Trinh tiết được quy chiếu trong diễn ngôn về
văn hóa của cộng đồng đã khiến cho các nhà văn nữ Việt Nam đưa vấn đề trinh tiết
thành một sự kiện quan trọng trong cuộc đời của các nhân vật nữ. Trong văn xuôi
nữ Việt Nam đương đại, các nhà văn Phạm Thị Hoài, Đoàn Lê, Dạ Ngân, Võ Thị
Xuân Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đoàn Minh Phượng,… đều nói về trinh tiết.
Khảo sát hơn 30 tập truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn của 4 nhà văn nữ Dạ
Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy các nhà văn này
dành khá nhiều tâm huyết cho hệ vấn đề trinh tiết của nhân vật nữ như giá trị của
trinh tiết, nỗi sợ hãi đau đớn ám ảnh bị cưỡng đoạt trinh tiết, đặc biệt là sự lên tiếng
của người nữ trước tình trạng bị cưỡng đoạt trinh tiết, thái độ đấu tranh để đạp đổ
quan niệm trinh tiết trong tư tưởng nam quyền. Đồng thời các nhà văn cũng thể hiện

cái nhìn cởi mở về sự đánh giá phẩm tiết của người phụ nữ.
Người nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn chịu ảnh hưởng và giam mình trong
diễn ngôn đạo đức truyền thống, chữ trinh vẫn đáng giá ngàn vàng. Bởi thế, một cô
gái còn trinh nhận thấy cái giá trị đích thực của bản thân mình dù cô thiếu thốn mọi
thứ vật chất khác: “Tôi không nghĩ rằng có người muốn lấy tôi. Tôi. Một đứa con

19


gái trinh tiết nhưng thiếu thốn tất cả mọi thứ chứ không như các cô gái may mắn
khác là có tất cả mọi thứ nhưng lại mất trinh.” [53, tr.268].
Trong “Giới nữ”, khi xác định các huyền thoại về nữ giới, Beauvoir khẳng
định, “Đàn ông mong đợi một điều gì khác ngoài ham muốn thỏa mãn dục tính bản
năng khi sở hữu một người phụ nữ”. Theo nghĩa này, trinh tiết được kiến tạo không
chỉ như một phương tiện đáp ứng nhu cầu nam giới, mà việc cưỡng đoạt trinh tiết
của một người nữ còn cấp cho anh ta bằng chứng của khả năng chinh phục tự nhiên.
Trong hệ huyền thoại ấy, việc lấy đi trinh tiết của người nữ là biểu tượng của sức
mạnh và lòng can đảm. Trinh tiết có giá trị bởi nó ghi dấu sự thống trị của người
đàn ông lên thân thể nữ. Không những thế, nó quyết định sự sở hữu độc quyền, bởi
“cách chắc chắn nhất để khẳng định điều gì thuộc về mình là không để bất kì kẻ nào
khác chiếm dụng nó [173, tr.225]. Người đàn ông cho rằng thân thể phụ nữ phải có
tính chất bất động và thụ động của một đồ vật vì họ sinh ra là để đươc chiếm đoạt.
Nhưng bị cưỡng đoạt trinh tiết trở thành nỗi đau đớn, sợ hãi ám ảnh cả cuộc đời
người nữ bởi mất trinh đồng nghĩa với việc “không có phẩm tiết”, là vết nhơ đạo
đức:
“Năm Tho 11 tuổi, đi học về ngang qua nhà ông Đạo. Ông gọi Tho vào nhà,
đóng cửa hiếp dâm xong, cấm Tho kể cho người khác nghe và dạy Tho nói dối cha
mẹ. Tho về nhà, như đứa câm đứa khờ, tự bản thân cũng không biết chuyện gì đã
xảy ra cho mình, chỉ biết đau đớn, sợ hãi, uất ức…. Nỗi đau đớn sợ hãi không nguôi
đi, nhưng Tho đờ đẫn như không còn cảm xúc hay ký ức nữa. Tho không biết nói

gì, không thể nói gì được. Cha Tho đem Tho vô bệnh viện để khám. Tho cũng
không rõ bằng cách nào, nhưng ông kiếm được một cái giấy chứng nhận Tho bị té,
rách màng trinh. Ông bảo mẹ Tho cất cái giấy đó cho Tho. Nó sẽ là bùa bảo hộ hạnh
phúc của Tho sau này. ” [64, tr.5].
Sự cưỡng đoạt trinh tiết đã gây ra cho người nữ một sự chấn thương tâm lý và
đau đớn thân thể tột cùng. Họ uất nghẹn khi nhớ lại về bản thân mình bị chiếm
dụng, chà đạp, thay vì một tồn tại được yêu và được trân trọng. Điều này khiến cho
họ luôn mang tâm lý “sợ đàn ông”, đề phòng đàn ông, không dám nghĩ đến chuyện

20


yêu đương, thậm chí không dám để người đàn ông nào đụng chạm vào thân thể, hay
để lời tán tỉnh của đàn ông lọt vào tai của họ:
“Từ lâu lắm rồi, Tho không bao giờ để cho bất cứ người đàn ông nào đụng đến
thân thể của mình. Cũng không để bất cứ một lời tán tỉnh nào của đàn ông lọt vào
tai mình.” ” [64, tr.10]
“Tho lại càng không màng chuyện yêu đương. Một lần bị cưỡng hiếp, một lần
bị ruồng rẫy, đủ để Tho ớn đàn ông suốt đời. Hôm nọ, Tho thức giấc giữa khuya,
tiếng thở hỗn hễn như dội ra từ ký ức làm Tho cứng đờ trên giường, rồi như một kẻ
bị dìm dưới đáy nước ngoi lên theo bản năng sinh tồn, Tho vùng vẫy, nhào ra khỏi
giường, chạy xuống cầu thang, mở đèn lên. …. Tho tắt đèn, chạy trở lên lầu, ói òng
ọc vô bồn cầu. Khi điều hòa lại nhịp thở, Tho lên giường nằm, cổ họng vẫn nghèn
nghẹn, nước mắt cứ trào ra. Chuyện hai mươi mấy năm xưa, Tho tưởng không còn
nhớ gì nữa, nhưng hóa ra cái tiếng thở hỗn hễn dồn dập ấy vẫn còn ám Tho khiếp sợ
và uất ức đến đờ đẩn như ngày còn thơ.” [64, tr.9].
Dưới ảnh hưởng của diễn ngôn truyền thống về trinh tiết, không chỉ người nữ
mà đàn ông trong văn xuôi đương đại cũng quan niệm trinh tiết là “bảo bối” đảm
bảo hạnh phúc gia đình: “Anh yêu em nhưng anh không thể hôn em. Chẳng để làm
gì khi xảy ra chuyện đó. Rồi mình sẽ ân hận. Em còn lấy chồng, em phải giữ

nguyên vẹn trinh tiết cho chồng em. Đó là bảo bối của em trong cuộc sống vợ
chồng. Anh yêu em và thèm muốn em nhưng em bé tý và tội nghiệp lắm…” [53,
tr.280].
Một biểu hiện khác của việc đề cao trinh tiết là ca ngợi sự dâng hiến trọn vẹn
thân thể của người nữ. Nếu như mất trinh trở thành nỗi đau, nỗi ám ảnh nặng nề của
phụ nữ thì khoảnh khắc hiến dâng hiến trinh tiết thân thể cho chồng là một niềm
vui, niềm hạnh phúc, tự hào của người phụ nữ trước chồng, bởi nó là một thứ “bảo
hiểm suốt đời” cho cuộc hôn nhân của họ. Người nữ trong sác tác của Y Ban đắm
chìm trong cảm xúc đê mê hòa trộn thân thể với chồng: “Không còn vướng nữa,
một cái gì đó đã thông qua nhưng rất đau. Để anh xem, ôi máu, em chảy máu. Xuân
nhổm dậy, một vài giọt máu vương trên đá. Xuân nhìn mặt Tuấn đang nghệt ra sợ

21


×