Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.58 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế thị trường của nước ta có những
chuyển biến rõ rệt, hoạt động thương mại ngày càng phát triển, số lượng giao dịch
thông qua hợp đồng trong lĩnh vực thương mại ngày càng phổ biến. Những sự cố
nằm ngoài khả năng dự đoán có thể xảy ra khiến cho một hoặc cả hai bên không thể
thực hiện được nghĩa vụ của mình dẫn đến việc vi phạm hợp đồng. Trong một số điều
kiện nhất định, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm, không phải chịu các
chế tài do hành vi vi phạm gây ra. Vậy những điều kiện đó được pháp luật quy định
như thế nào? Ý nghĩa của nó trong hoạt động thương mại ra sao? Em xin chọn đề tài
“Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với
hành vi vi phạm” để làm rõ hơn vấn đề này.
NỘI DUNG CHÍNH
I.Khái quát chung về miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
Miễn trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là việc bên vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh, thương mại không phải chịu các hình thức
chế tài do vi phạm hợp đồng. Các bên trong hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
có quyền thoả thuận về giới hạn trách nhiệm và miễn trách nhiệm hợp đồng trong
những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, việc
miễn trách nhiệm hợp đồng còn được áp dụng theo các trường hợp khác do pháp luật
quy định. Theo Điều 294 Luật Thương mại về miễn trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm:
“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
2



c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách
nhiệm.”
Về bản chất, các trường hợp trách nhiệm hợp đồng là những trường hợp loại trừ
yếu tố lỗi của bên vi phạm.Cơ sở để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng
chính là ở chỗ họ không có lỗi khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp
đồng. Pháp luật dựa trên nguyên tắc suy đoán để xác định các trường hợp miễn trách
nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng, nếu bên vi phạm hợp đồng có khả năng lựa
chọn xử sự nào khác ngoài xử sự gây thiệt hại mà không lựa chọn thì bị coi là có lỗi,
ngược lại nếu không có khả năng lựa chọn xử sự nào khác thì được coi là không có
lỗi và không phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình.
Các bên trong hợp đồng thương mại có quyền thỏa thuận về giới hạn trách nhiệm
và miễn trách nhiệm hợp đồng trong những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi
giao kết hợp đồng. Việc cho phép các bên thỏa thuận trước về các trường hợp miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc tự do
hợp đồng, tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại.
Khi áp dụng quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng, việc chứng
minh các trường hợp được miễn trách nhiệm thuộc nghĩa vụ của bên có hành vi vi
phạm hợp đồng. Bên vi phạm nếu muốn được miễn trách nhiệm hợp đồng thì phải có
đầy đủ chứng cứ để chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng theo quy
định của pháp luật.
Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm
hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được
3



miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo
hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Quy định
này được nêu rõ trong Điều 295, Luật thương mại 2005 về thông báo và xác nhận
trường hợp miễn trách nhiệm:
“1. Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường
hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.
2. Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo
ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp
thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
3. Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách
nhiệm của mình”
II. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Miễn trách nhiệm theo thoả thuận
Xét điểm a khoản 1 điều 294 Luật thương mại 2005. Bên vi phạm hợp đồng được
miễn trách nhiệm nếu : “Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả
thuận” Theo quy định này thì bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng được miễn trừ trách
nhiệm nếu tại thời điểm ký kết hợp đồng các bên có thỏa thuận về sự miễn trừ đó.
Có thể thấy, pháp luật thương mại đề cao tính tự do trong hợp đồng. Do vậy, các
bên được quyền tự thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm khi giao kết hợp
đồng thương mại. Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn
tại trước khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế
tài. Khi hợp đồng được giao kết bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách nhiệm được
ghi nhận trong nội dung hợp đồng hoặc trong phụ lục hợp đồng. Nhưng kể cả khi hợp
đồng đã ký kết các bên vẫn có thể thỏa thuận bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc
sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng các trường hợp miễn trách nhiệm. Khi hợp đồng được
giao kết bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể thì thỏa thuận miễn trách nhiệm cũng có thể
4


được thể hiện bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, việc chứng minh sự tồn tại

một thỏa thuận không bằng văn bản sẽ gặp những khó khăn nhất định.
Do bởi, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam không có sự phân định rõ ràng về
lỗi cố ý và lỗi vô ý nên quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 294 nêu trên được hiểu và
áp dụng cho mọi trường hợp: vi phạm cố ý và vi phạm vô ý. Với cách quy định này
có thể xảy ra trường hợp, bên không trung thực sẽ lợi dụng sự tồn tại của thỏa thuận
miễn trừ để vi phạm hợp đồng.
Ví dụ : Trong hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa người bán A và người
mua B, các bên thoả thuận thời điểm giao hàng là 1/1/2012. Cũng trong hợp đồng,
các bên thỏa thuận một điều khoản cho phép bên bán sẽ không phải chịu trách nhiệm
trước người mua nếu việc giao hàng chậm không quá 15 ngày, (trước ngày 16/10).
Ngày 30/9, bên A chuẩn bị đủ hàng để giao cho bên B theo thoả thuận của hợp đồng.
Tuy nhiên, cùng ngày 30/9, một người khác (người mua C), là đối thủ cạnh tranh trực
tiếp của người mua B, đã tìm đến A và đề nghị người bán A bán số hàng đó cho họ
với giá cao hơn 20% giá trong hợp đồng giữa A và B. Người bán A lợi dụng thoả
thuận giữa họ với người mua B, đồng ý bán cho người mua C số hàng lẽ ra phải giao
cho người mua B, bởi vì họ nghĩ rằng trong thời hạn 15 ngày, họ có thừa khả năng
chuẩn bị đủ hàng để giao cho người mua B. Ngày 15/10 người mua B nhận hàng theo
hợp đồng, thế nhưng lúc này do hàng hóa đã đến tay của đối thủ cạnh tranh C trước
nên nhu cầu mua của thị trường đã bão hòa . Vì thế, người mua B buộc phải bán rẻ
hàng hóa và phải chịu những thiệt hại nhất định. Tuy nhiên, nếu căn cứ theo điểm a,
khoản 1 điều 294, Luật thương mại hiện hành, rõ ràng người mua B không có quyền
yêu cầu người bán yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trong ví dụ này B đã bị thiệt hại bởi hành vi không thiện chí của A (vì
số tiền lời được tăng thêm nên đã bán hàng cho C). Có thể dễ dàng thấy được hành vi
đó của A là lợi dụng điều kiện thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng để vi

5


phạm hợp đồng. Và với ví dụ trên, chứng tỏ pháp luật chưa có chế tài đối với kẻ

không thiện chí trung thực.
Thực tiễn trong giao kết hợp đồng thương mại cho thấy ít khi các bên chấp nhận
việc thỏa thuận trực tiếp và rõ ràng về các trường hợp miễn trách nhiệm, vì có thể bên
vi phạm sẽ vin vào điều này để không tuân thủ hợp đồng. Do đó, các bên có thể thỏa
thuận gián tiếp miễn trách nhiệm ở một chừng mực nhất định. Tuy vậy, để hạn chế tối
đa khả năng “mượn luật” để “chơi xấu” trong kinh doanh của các bên trong hợp đồng
thương mại, nên bổ sung vào điểm a khoản 1 điều 294 của Luật thương mại 2005 như
sau: “thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm không có giá trị pháp lý nếu hành vi vi phạm
là cố ý”. Và đương nhiên lúc này, bên bị vi phạm sẽ phải có trách nhiệm chứng minh
hành vi vi phạm của bên vi phạm là cố ý để đòi lại quyền lợi của mình trước pháp
luật.
2.Miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 294 của pháp luật thương mại, thì bên
vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp “xảy ra sự kiện bất khả
kháng”. Điều này có nghĩa dù hợp đồng có quy định hay không thì khi xảy ra sự kiện
bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn trách
nhiệm.
Theo khoản 1 Điều 161 Bộ luật dân sự, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa là
là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Ví dụ: Ngày 10/10/2008, Công ty A ( trụ sở Nghệ An) ký hợp đồng xuất khẩu dưa
chuột cho công ty B (trụ sở Hà Nội), thời hạn giao hàng là 30 ngày kể từ ngày mở
L/C không huỷ ngang. Ngày 20/10/2008, Ngân hàng công ty B mở L/C không huỷ
ngang cho người thụ hưởng là Công ty A. Nhưng mãi đến tận 15/01/2009, Công ty A
vẫn không giao hàng cho Công ty B. Công ty B khiếu nại thì Công ty A trả lời rằng
do trong thời gian tháng 11/2008, lũ lụt xảy ra ở khu vực miền Trung, ảnh hưởng đến
6


vụ mùa dưa chuột của người dân các tỉnh nơi đây, nên không thể gom đủ hàng giao

cho Công ty B, vì vậy Công ty A đề xuất hoàn trả lại tiền cho Công ty B và đề nghị
được miễn trách nhiệm vì lý do bất khả kháng. Trong tình huống này, yếu tố lũ lụt
được coi là căn cứ chứng minh miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả kháng cho
phía công ty A.
Như vậy, "Sự kiện bất khả kháng" xảy ra sau khi ký hợp đồng, không phải do lỗi
của bất kỳ bên tham gia hợp đồng nào, mà xảy ra ngoài ý muốn và các bên không thể
dự đoán trước, cũng như không thể tránh và khắc phục được, dẫn đến không thể thực
hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ nghĩa vụ, bên chịu sự cố này có thể
được miễn trừ trách nhiệm của hợp đồng hoặc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng.
Theo đó, để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện cần thỏa mãn 3 nội dung
sau:
Thứ nhất, là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng. Tức là sự kiện nằm
ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiện tượng tự nhiên: bão,
lũ lụt, sóng thần… các sự kiện chính trị, xã hội: đình công, bạo loạn, chiến tranh…,
ngoài ra còn có các trường hợp như hỏa hoạn phát sinh từ khu vực bên ngoài lan sang
và thiêu rụi nhà máy…
Thứ hai, là sự kiện xảy ra không thể dự đoán trước được. Năng lực đánh giá xem
xét một sự kiện có xảy ra hay không được xét từ vị trí của một thương nhân bình
thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu. Ví dụ khu vực nhà máy của bên
vi phạm thường xuyên có bão vào mùa mưa nhưng do tính bất ngờ và khó kiểm soát
của bão nên việc dự đoán bão có xảy ra hay không đối với một thương nhân là không
thể lường trước được. (chiến tranh, bạo loạn, đình công… hay các thảm họa thiên
nhiên khác).
Thứ ba, là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không thể khắc phục được dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, là sự kiện xảy ra mà chúng ta
7


không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết những vẫn không khắc phục được hậu quả thì mới đáp ứng điều

kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để
khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vẫn không thể
khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.
Liên quan đến việc miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả
kháng, còn có ý kiến tranh luận về vấn đề một bên vi phạm hợp đồng do lỗi của
nguời thứ ba (người thứ ba không thực hiện được nghĩa vụ của mình do gặp bất khả
kháng) thì có được coi là căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm không. Theo tác
giả Quách Thúy Quỳnh trong luận văn thạc sỹ về vấn đề: “Pháp luật về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – Thực trạng và phương hướng hoàn
thiện” cho rằng: coi đây là căn cứ miễn trách nhiệm là “chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế và thực tiễn doanh thương. Do “xét về bản chất, căn cứ miễn trách nhiệm này
hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp giữa các
bên trong quan hệ hợp đồng. Các bên tham gia quan hệ phải tự mình gánh chịu các
nghĩa vụ cũng như lợi ích về mặt tài sản phát dinh từ quan hệ đó. Nếu bên thứ ba
được miễn trách nhiệm trước bên có hành vi vi phạm thì đó là vấn đề nằm trong
khuôn khổ hợp đồng của hai bên đó và họ phải tự giải quyết. Hợp đồng đó được xác
lập vì lợi ích của họ nên đương nhiên trách nhiệm cũng do họ gánh chịu, không thể
yêu cầu bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu (hoặc chia sẻ) gánh nặng đó”.
Trên thực tế, sự kiện bất khả kháng không áp dụng đối với một số loại hợp đồng
đặc thù. Ví dụ như Hợp đồng vay vốn ngân hàng. Khi đã vay được tiền thì doanh
nghiệp phải có trách nhiệm trả nợ và tất cả các hợp đồng vay vốn đều buộc bên vay
phải trả nợ trong mọi trường hợp chứ không được miễn trách nhiệm trả nợ trong
trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Nếu bên vay lợi dụng Điều 294 để đòi miễn
trách nhiệm trả nợ khi có sự kiện bất khả kháng thì chắc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hệ thống ngân hàng .Ngoài ra, thông thường, mỗi hợp đồng mua bán hàng hóa
đều có điều khoản qui định về bất khả kháng, và các bên trong quan hệ hợp đồng còn
8


đưa những sự kiện xảy ra cho chính bản thân mình là sự kiện bất khả kháng như:

thiếu nguyên liệu, mất điện, lỗi mạng vi tính, bên cung cấp chậm trễ giao hàng,… là
sự kiện bất khả kháng để hưởng chế độ miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng.
Về mặt lý luận thì các sự kiện này không đương nhiên được coi là sự kiện bất khả
kháng nếu các bên không thỏa thuận.
Luật thương mại 2005 dành riêng Điều 296 quy định về việc kéo dài thời hạn, từ
chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng. Theo đó, khi xảy ra trường
hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng; trừ các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về
giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Nếu các bên không có thoả thuận hoặc không
thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời
gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để
khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:


05 tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ



được thoả thuận không quá 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
08 tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ
được thoả thuận trên 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.

Tuy nhiên, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài quá thời hạn nêu trên thì các bên có
quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi
thường thiệt hại. Bên từ chối thực hiện hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết
trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn 10 ngày.
Đây là một quy định cần chú ý bởi lẽ trong thực tế, không ít những doanh nghiệp
khi rơi vào trường hợp bất khả kháng thì vẫn đinh ninh mình được miễn trừ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại mà không có sự thông báo kịp thời cho bên đối tác, để rồi
xảy ra những hậu quả không đáng có.


9


3.Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm
Luật Thương mại năm 1997 không quy định lỗi của bên bị thiệt hại là căn cứ
miễn trừ trách nhiệm do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ hợp
đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế, Luật Thương mại
năm 2005, tại điểm c, Khoản 1, Điều 294 đã ghi nhận điều này. Theo đó, bên vi
phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm nếu“ Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn
do lỗi của bên kia”. Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi
phạm. Ngoài ra, cũng có thể là một hành vi vi phạm hợp đồng của bên bị vi phạm,
tức là cả hai bên đều có hành vi vi phạm hợp đồng.
Ví dụ: Công ty A kí kết với công ty B hợp đồng mua bán 100 tấn xi măng. Theo
đó, công ty A phải thanh toán đúng hạn khoản tiền bằng 30% giá trị hợp đồng để
công ty B mua nguyên vật liệu sản xuất. Tuy nhiên, công ty A đã không thanh toán
đúng hạn dẫn đến việc đình trệ sản xuất khiến cho việc giao hàng của công ty B bị
chậm trễ.
Trong trường hợp này, nếu như trong hợp đồng không có thỏa thuận khác về việc
chậm thanh toán và việc chậm thanh toán của công ty A không phải do bất khả kháng
hoặc do quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì xem như công ty A đã có lỗi khiến
cho công ty B không thể thực hiện đúng hợp đồng nên công ty B được miễn trách
nhiệm.
Điều 80 Công ước Viên năm 1980 cũng có quy định tương tự điểm c, khoản 1,
Điều 294 kể trên: “Một bên không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa vụ
của bên kia trong chừng mực mà sự không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành vi
hay sơ suất của chính họ”. Như vậy, quy định của Luật thương mại 2005 về trường
hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm trong trường hợp hành vi đó hoàn toàn
do lỗi của bên kia là phù hợp và theo kịp sự nhạy bén của pháp luật quốc tế.


1
0


4.Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước
Điểm d khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 quy định trường hợp
“Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng”là một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại.
Theo đó, miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm do thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết
được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp
đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm.
Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm,
tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành
vi vi phạm hợp đồng.
Ví dụ: Công ty M chuyên sản xuất và cung cấp trứng gà cho nhà phân phối K. Tuy
nhiên, cơ sở sản xuất của công ty M bị tuyên bố thuộc vùng dịch bệnh. Theo quyết
định của Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, công ty M phải hủy toàn bộ cơ sở sản xuất để
tránh lây lan bệnh dịch. Thực hiện quyết định này khiến cho công ty M không thể
cung cấp trứng gà cho nhà phân phối K theo hợp đồng đã giao kết. Trong trường hợp
này, công ty M được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng của mình.
Trong thực tiễn, không chỉ những hiện tượng như: động đất, núi lửa…tác động
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội mà ngay cả các yếu tố chính trị xã hội
do con người tạo nên cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của mình như: chiến
tranh, bạo loạn, mệnh lệnh hay lệnh cấm của chính phủ, thi hành lệnh khẩn cấp, quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Các yếu tố
này xảy ra bất ngời đối với các bên ký kết hợp đồng và hậu quả của nó cũng thường

đưa tới sự vi phạm hợp đồng của các bên tham gia hợp đồng. Như vậy, khi một bên
1
1


do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà khi giao kết hợp
đồng các bên không thể biết trước sẽ dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng thì cũng có
thể được miễn trách nhiệm hợp đồng.
Tuy nhiên, quy định này của Luật thương mại 2005 cũng cần được bàn định, bởi
không phải trong mọi trường hợp hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà khi giao kết hợp đồng các bên không
thể biết trước đều được miễn trách nhiệm hợp đồng. Có ý kiến cho rằng quy định này
của Luật Thương mại là chưa thực sự rõ ràng. Thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền ở đây là cơ quan cấp nào; Thứ hai, cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định đó nhằm mục đích gì? Việc pháp luật
không có quy định rõ ràng cũng không có văn bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề
nói trên chắc chắn sẽ gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định một quyết định nào
đó của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có phải là trường hợp miễn trách
nhiệm hay không.
Mặt khác, có ý kiến cho rằng: “khi bên vi phạm được miễn trách nhiệm theo
căn cứ này, thì để bảo vệ lợi ích cho bên bị vi phạm, nên sử dụng ngân sách nhà nước
để bồi thường các thiệt hại mà họ phải gánh chịu”… “quy định như vậy sẽ vừa đảm
bảo lợi ích của các bên trong hợp đồng, vừa tạo ra những đảm bảo về mặt pháp lý để
các bên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân khi được yêu cầu”.
Ý kiến trên mới chỉ đứng ở góc độ người bị thiệt hại, tức bên bị vi phạm hợp
đồng hoặc có thể là cả 2 bên trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở
trên, các quyết định có thể là căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm là rất nhiều,
hơn nữa đối tượng bị áp dụng của mỗi quyết định không giống nhau, có thể có trường
hợp hàng nghìn doanh nghiệp bị thiệt hại, nhưng thi hành quyết định đó là cần thiết vì
múc đích bảo đảm an ninh xã hội, an ninh lương thực…như vậy, không thể lấy ngân

sách nhà nước bồi thường cho từng bên vi phạm hợp đồng. Căn cứ miễn trách nhiệm
này cần được hiểu như một trường hợp bất khả kháng và là rủi ro trong kinh doanh
1
2


của các doanh nghiệp. Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần cân nhắc rất thận
trọng trước khi ra quyết định, cần thấy được hậu quả cảu những thiệt hại có thể xảy
ra.
III- Hoàn thiện quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng thương mại.
Các quy định hiện hành về căn cứ miễn trách nhiệm không thống nhất giữa Bộ
luật Dân sự và Luật Thương mại. Bộ luật Dân sự 2005 quy định hai căn cứ để miễn
trách nhiệm là: sự kiện bất khả kháng và lỗi của bên bị vi phạm (còn lại là trường hợp
miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng) còn Luật Thương mại 2005
lại quy định bốn căn cứ để miễn trách nhiệm bao gồm: các trường hợp miễn trách
nhiệm do các bên thỏa thuận, sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên
hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào
thời điểm giao kết hợp đồng.
Để hạn chế sự mâu thuẫn này, cần hoàn thiện các quy định về căn cứ miễn trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh theo hướng sau:
Thứ nhất, quy định cụ thể về các điều kiện để xác định một sự kiện là căn cứ miễn
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Các quy định pháp luật hiện hành chỉ đi vào liệt kê các sự kiện là căn cứ miễn
trách nhiệm mà không đưa ra một khái niệm thống nhất cũng như các điều kiện áp
dụng cụ thể, điều này gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật và giải quyết
tranh chấp hợp đồng. Do đó, bên cạnh các quy định về các trường hợp miễn trừ trách
nhiệm, cần quy định tất cả các sự kiện là căn cứ miễn trách nhiệm đều phải thỏa mãn
một số điều kiện nhất định. Những điều kiện cần và đủ để một sự kiện được coi là

căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng bao gồm:


Một, sự kiện này phải xảy ra sau khi các bên đã ký kết hợp đồng;
1
3




Hai, ở thời điểm ký kết hợp đồng các bên không biết và không thể biết sự kiện



đó sẽ xảy ra;
Ba, sự kiện đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng.
Bốn, khi các sự kiện này xảy ra, các bên đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết



trong khả năng nhưng không thể khắc phục được.
Việc ghi nhận những điều kiện này vừa đảm bảo nguyên lý về mối quan hệ nhân
quả và nguyên tắc xác định lỗi, vừa tạo điều kiện cho các cơ quan tài phán vận dụng
một cách linh hoạt khi đánh giá các sự kiện là căn cứ miễn trách nhiệm hợp đồng.
Thứ hai, bổ sung quy định điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách
nhiệm hợp đồng giữa các bên.
Theo kinh nghiệm của một số nước, việc áp dụng căn cứ miễn trách nhiệm đối
với hành vi vi phạm trong hợp đồng thương mại phải có những điều kiện nhất định
để vừa đảm bảo tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên, vừa hạn chế việc một bên
lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm hợp đồng. Theo đó một thỏa thuận về

căn cứ miễn trừ trách nhiệm chỉ có giá trị pháp lý nếu như nó không phải là vi phạm
do cố ý; và ngoài ra, khi đánh giá tính hợp lý của thỏa thuận, Tòa án phải phân tích sự
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, phân tích nội dung hợp đồng (khoản 7 Điều 11 Luật về
điều kiện giao dịch chung của Đức; khoản 4 Điều 1 Bộ luật Dân sự Cộng hòa liên
bang Nga...). Trong pháp luật Việt Nam, mặc dù Bộ Luật dân sự và Luật Thương mại
chưa quy định cụ thể các điều kiện này, nhưng một số văn bản pháp luật chuyên
ngành đã có quy định đó( ví dụ :khoản 3 Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm). Cần bổ
sung quy định mang tích chất nguyên tắc này vào Bộ luật Dân sự để đảm bảo hiệu
quả áp dụng cho mọi quan hệ bồi thường thiệt hại.
Từ những phân tích và so sánh với pháp luật một số nước về trường hợp miễn
trừ trách nhiệm hợp đồng theo thỏa thuận của các bên, việc áo dụng căn cứ này phải
có điều kiện nhất định để vừa đảm bảo tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên,
vừa hạn chế một bên lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm hợp đồng. Theo
1
4


đó, một thỏa thuận về căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng chỉ có giá trị
pháp lý nếu như nó không phải là vi phạm do cố ý. Ngoài ra, khi giải quyết tranh
chấp hợp đồng, cơ quan tài phán cũng cần đánh giá tình hợp lý của thảo thuận này,
cần phải phân tích sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, phân tích nội dung của hợp đồng.
Luật Thương mại năm 2005 cũng như các văn bản quy định chi tiết thi hành
chưa có quy định cụ thể về điều kiện công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng, cần bổ sung quy định mang tính chất nguyên tắc này để đảm bảo
hiệu quả áp dụng trong các quan hệ hợp đồng.
Thứ ba, quy định rõ về trường hợp miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả
kháng.
Cần có quy định làm rõ sự kiện bất khả kháng sẽ được thừa nhận là căn cứ
miễn trách nhiệm nếu nó xảy ra chỉ đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay
đối với cả bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng.

Có thể thừa nhận việc xảy ra sự kiện bất khả kháng đối với bên vi phạm hợp
đồng hoặc đối với bên thứ ba là căn cứ miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, sự kiện bất khả
kháng này phải đáp ứng đủ các điều kiện như đã phân tích về sự kiện bất khả kháng.
Mặt khác, cần quy định cụ thể về điều kiện để sự kiện bất khả kháng là căn cứ miễn
trách nhiệm với bên thứ ba trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho một bên trong hợp
đồng thương mại, chỉ khi hợp đồng của bên vi phạm với bên thứ ba có quan hệ mật
thiết với hợp đồng thương mại giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm và việc bên thứ ba
vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng của bên
vi phạm và bên vi phạm không thể khắc phục được. Ngoài ra, để hạn chế việc trốn
tránh trách nhiệm của bên có hành vi vi phạm hợp đồng, cần quy định rõ giới hạn của
việc áp dụng căn cứ này, nếu không có thể dẫn chiếu đến nhiều bên trong quan hệ
hợp đồng, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của bên bị vi phạm.

1
5


Thứ tư, quy định cụ thể về trường hợp thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Cần có quy định hướng dẫn cụ thể cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp
này ra quyết định nhằm mục đích gì, những điều kiện cụ thể để một quyết định có thể
trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Nếu việc thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mang lại lợi ích cho bên vi phạm và gây
thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng thì cần có cơ chế phù hợp đảm bảo lợi ích của
cả hai bên trong quan hệ hợp đồng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ
thương mại, đặc biệt là trong quan hệ thương mại quốc tế.
Để đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế, cần có
quy định trong trường hợp bên có hành vi vi phạm được hưởng căn cứ miễn trách
nhiệm do thi hành mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì khoản thiệt
hại của bên có quyền lợi bị vi phạm sẽ được đền bù một phần hoặc toàn bộ từ ngân

sách nhà nước. Quy định như vậy vừa đảm bảo quyền tự do kinh doanh của chủ thế,
vừa tạo ra một cơ chế để các chủ thể sẵn sang hợp tác với các cơ quan nhà nước vì lợi
ích cộng đồng.
KẾT LUẬN
Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm trong hợp đồng thương mại là một
quy định được rất nhiều chủ thể quan tâm. Không chỉ các bên trực tiếp tham gia hợp
đồng mà còn có cả các cơ quan nhà nước. Việc làm sao cân bằng lợi ích giữa các bên
trong quan hệ hợp đồng, tránh những tối đa những vi phạm là điều mà pháp luật luôn
hướng tới. Tuy đã có những dự liệu nhất định, nhưng do xã hội ngày một phát triển,
các tình huống xoay quanh hợp đồng diễn ra ngày càng đa dạng nên pháp luật vẫn
cần có những bổ sung, sửa đổi kịp thời hơn nữa để cho ra những quy định phù hợp tối
ưu nhất với điều kiện kinh tế-xã hội.

1
6


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Bộ luật Dân sự 2005
Bộ luật thương mại 2005
Giáo trình Luật thương mại tập II ( Nxb. Công an nhân dân-trường
Đại học Luật Hà Nội).

4.

Quách Thúy Quỳnh-luận văn thạc sỹ về vấn đề: “Pháp luật về bồi thường thiệt

hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – Thực trạng và phương hướng

5.

hoàn thiện”
/>
6.

vi-hanh-vi-vi-phm.html
/>
7.

thuc-tien-ap-dung.Detail.668.aspx
/>option=com_content&view=article&catid=118:ctc20075&id=336:blbaskbkk&

8.

Itemid=110
/>
MỤC LỤC
1
7


LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………………2
NỘI DUNG CHÍNH…..............................................................................................2
I.Khái quát chung về miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm……………….2
II.Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm…………………..4
1.
2.

3.
4.

Miễn trách nhiệm theo thoả thuận……………………………………..........4
Miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng………...6
Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm………10
Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước …………………………………………………………11

III- Hoàn thiện quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng thương mại…………………………………………………………………...13
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..16

1
8



×