Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may việt nam thời kỳ hậu khủng hoảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.99 KB, 39 trang )

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM 2008-2011
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM:
Ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức được đối xử bình đẳng như các thành viên
khác của Tổ chức Thương mại thế giới WTO . Từ 2005, ngành dệt may Việt Nam đã
được EU và Canada xoá bỏ chế độ hạn ngạch khi xuất khẩu vào những thị trường này,
nhưng vẫn bị bó buộc bởi cơ chế hạn ngạch khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Khi chính thức
trở thành thành viên WTO, ngành dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tốt để phát triển.
Các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng mà không lo về hạn ngạch tại
bất kỳ thị trường nào. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh hơn vào
thị trường nước ngoài, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu.
Tính đến cuối năm 2007, riêng ngành dệt may Việt Nam có khoảng hơn 2000 doanh
nghiệp với trên 2 triệu lao động. Kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 7,8 tỷ USD, tăng gấp 2,2
lần so với năm 2004 và xếp thứ 9 trong các nước xuất khẩu ngành hàng may mặc trên thế
giới.
Trong 11 tháng đầu năm 2008, Ngành dệt, may Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất
khẩu là 8,287941 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 7,440365 tỷ USD.Trong đó, kim
ngạch xuất khẩu lớn nhất sang thị trường Hoa Kỳ là 4,665010 tỷ USD (chiếm 56,29%);
sang Nhật Bản là 740,924 triệu USD (chiếm 8,94%) và sang Đức là 351,937 triệu USD
(chiếm 4,25%). Kim ngạch nhập khẩu lớn nhất từ thị trường Trung quốc là 1,875059 tỷ
USD (chiếm 25,20%); từ Asean 525,065 triệu USD (chiếm 7,06%) và từ Nhật Bản là
444,444 triệu USD (chiếm 5,97%).
Nhưng đến năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mà dệt
may Việt Nam đã có những ảnh hưởng không nhỏ. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam trong tháng 12/2009 đạt 881,13 triệu USD, đưa tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may cả năm 2009 lên gần 9,07 tỷ USD (giảm nhẹ 0,6% so năm 2008).
Thị trường Hoa Kỳ, Nhật bản vẫn là thị trường chủ đạo cho xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam. Hoa Kỳ vẫn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu tháng 12 là 490,4 triệu USD, cả
năm đạt gần 5 tỷ USD, chiếm 55,1% tổng kim ngạch; đứng thứ 2 là kim ngạch xuất khẩu
sang Nhật Bản tháng 12 đạt gần 96 triệu USD, tính chung cả năm đạt 954,1 triệu USD,



chiếm 10,52%.

Năm 2010, ngành Dệt May Việt Nam đã có những bước tăng trưởng khả quan: Kim
ngạch xuất khẩu đạt 11,2 tỷ USD, tăng 23,2% so với năm 2009. Trong đó, thị trường Mỹ
đạt hơn 6 tỷ USD, tăng 22%; EU đạt 1,8 tỷ USD, tăng 14%; Nhật Bản 1,2 tỷ USD, tăng
20%. Riêng Tập đoàn Dệt May Việt Nam, trong năm 2010 đã đánh dấu những bước phát
triển mới với các chỉ tiêu tăng trưởng đạt và vượt kế hoạch đề ra, như: Doanh thu đạt
30.600,2 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2009, vượt 17% so với kế hoạch; kim ngạch xuất
khẩu đạt 2,1 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2009, vượt 12% so với kế hoạch; lợi nhuận
đạt 911,2 tỷ USD, tăng 36% so với năm 2009, vượt 10% so với kế hoạch; doanh thu nội
địa đạt 15.364,6 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2009, vượt 8% so với kế hoạch. Đặc biệt,
tỷ lệ nội địa hóa năm 2010 đạt 49%, tăng 2% so với năm 2009.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
những tháng cuối năm có sự sụt giảm về đơn hàng, nhưng với nỗ lực vươn lên toàn ngành
đã đạt được những kết quả đáng mừng. Trong cả năm 2011, toàn ngành dệt may đạt trên
14,04 tỷ USD
1.1. Về kim ngạch xuất khẩu:
Ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong những năm vừa qua. Xuất
khẩu hàng dệt may cũng đạt được những kết quả tăng trưởng khá ấn tượng. Tổng giá trị
xuất khẩu hàng dệt may đã tăng liên tục từ mức 9,1 tỷ USD vào năm 2008 lên hơn 14 tỷ
USD vào năm 2011. Tính chung 10 tháng đầu năm 2008, dệt may của các nước trên thế
giới đều có chỉ số xuất khẩu âm, duy nhất Việt Nam duy trì được ở mức 21%.
Tuy nhiên, bước vào năm 2009, do ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới
nên hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam càng gặp khó khăn. Việt Nam tuy
không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng với một nền kinh tế đã hội nhập thì những tác
động gián tiếp là không thể tránh khỏi. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 giảm 16
triệu USD tương ứng với mức giảm 0,18% so với năm 2008. Đúng như cảnh báo của
nhiều chuyên gia, xuất khẩu Việt Nam đang bắt đầu gánh chịu những khó khăn bắt nguồn
từ khủng hoảng tài chính thế giới. Xu hướng thị trường xuất khẩu dệt may bị thu hẹp

ngày càng rõ nét, các đơn hàng xuất khẩu bắt đầu bị cắt giảm và tiếp tục giảm tới đầu
năm 2010.


Bảng
Tình

Năm

Kim ngạch

2008
2009
2010
2011

9,082
9,066
11,209
14,043

Mức tăng (giảm) xuất khẩu
Tuyệt đối
Tương đối (%)
-16
-0.18
+2,143
+23.64
+2,834
+25.28


1:
hình

kim ngạch và tốc độ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2008-2011
Đơn vị: Triệu USD

(Tổng hợp từ Hiệp Hội Dệt May Việt Nam)

Tuy nhiên trong năm 2010, ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu 11,2 tỷ USD, tăng
23,64% so với năm 2009, trong bối cảnh số lượng đơn hàng xuất khẩu cũng như giá bán
được cải thiện rõ rệt, đồng thời lần đầu tiên lọt vào top 5 thế giới về kim ngạch xuất khẩu .
Bước sang năm 2011 mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu ngành
dệt may Việt Nam vẫn duy trì sự tăng trưởng đạt hơn 14 tỷ USD tương ứng với mức tăng
25,28% so với năm 2010. Thành công xuất khẩu của ngành dệt may năm 2011 bao gồm
cả yếu tố chủ quan là phát triển thị trường tốt, tăng được sản lượng. Còn yếu tố khách
quan nữa là đơn giá chung của toàn thế giới có sự điều chỉnh. Năm nay, tăng trưởng kim


ngạch của Việt Nam đạt tới 30%. Kể từ khi trở thành thành viên của WTO,Việt Nam mới
có lại mức tăng trưởng như vậy. Nhưng khi đã vào WTO thì đó là tăng trưởng do thị
trường, đó là yếu tố khách quan. Vì thế có thể nói yếu tố khách quan đã dồn vào năm
2011 tương đối thuận lợi.
Bảng 2: Tình hình kim ngạch và tốc độ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2009-2011 tính theo quý.
Đơn vị: Triệu USD,%

Năm


Quý

Kim ngạch

2009

I
II
III
IV
I
II
III
IV
I
II
III
IV

1,925
2,176
4,486
4,579
2,186
2,573
5,444
5,765
2,794
3,428
6,954

7,089

2010

2011

Mức tăng (giảm) xuất khẩu
Tuyệt đối
Tương đối (%)
261
13.56
397
18.24
958
21.36
1,186
25.90
608
27.81
855
33.23
1,510
27.74
1,324
22.97
(Tổng hợp từ Cục Hải Quan Việt Nam)

Thông thường kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam bắt đầu tăng từ cuối quýI,
đầu Quý II và tăng trưởng một cách mạnh mẽ vào quý III.
Quý I/2009, hàng loạt xí nghiệp may đóng cửa vì không có đơn hàng, công nhân bị nợ

lương rồi thất nghiệp. Đây có lẽ là những hình ảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế mà
người Việt nhìn thấy tận mắt. Trong bối cảnh đó, ngành dệt may đã có những quyết sách


đúng đắn để vượt qua khó khăn và cán đích thành công: Năm 2009 toàn ngành xuất khẩu
9,2 tỷ USD sản phẩm, tăng hơn 2% so với năm 2008 và trở thành ngành hàng có kim
ngạch xuất khẩu lớn nhất, vượt qua cả dầu thô.
Tính đến hết tháng 3/2010, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp
trong nước đạt khoảng 2,2 tỷ USD, tăng gần 90 triệu USD so với kế hoạch năm, với mức
tăng trưởng bình quân 18% so với cùng kỳ năm trước.Theo đánh giá của Hiệp hội Dệt
May Việt Nam, tín hiệu khả quan không chỉ riêng ở kết quả giá trị tăng trưởng về kim
ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt được trong quý I, mà nhiều doanh
nghiệp dệt may đã có đơn hàng xuất khẩu ổn định. Theo đó, các doanh nghiệp thuộc tập
đoàn dệt may Việt Nam đã có đơn hàng sản xuất và xuất khẩu đến hết quý II, nhiều doanh
nghiệp đã ký được hợp đồng sản xuất và xuất khẩu đến hết quý III và cả năm 2010. Với
đơn hàng xuất khẩu dệt may ổn định, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2010 là
11,2 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong tháng 1 và 2 năm 2011 đã đạt hơn 2,2
tỷ USD tăng 54,2% so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu từ Hiệp Hội Dệt May Việt
Nam, trong quý III xuất khẩu hàng dệt may đã thu về 3,43 tỷ USD, tăng 33,23% so với
cùng kỳ năm trước. Bên cạnh tăng về lượng ( trên 30%), giá xuất khẩu cũng đã tăng
khoảng 20%. Trong vòng bốn năm qua, đây là mức trưởng xuất khẩu cao nhất vào những
tháng đầu năm. Thời điểm này, các doanh nghiệp lớn trong ngành như Việt Tiến, May 10,
Nhà Bè… đều đã ký được đơn hàng sản xuất đến hết quý 3 năm nay. Năm 2011, cũng là
năm lượng công nhân trở lại làm việc sau nghỉ Tết tại các khu công nghiệp thuộc các tỉnh
Nam Trung Bộ và Nam Bộ đạt tới mức 98- 100%, cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây.
Nguyên nhân được cho là do đời sống của người lao động gần đây đã được cải thiện đáng
kể. Trước và sau Tết, các doanh nghiệp đều có xe đưa đón công nhân ở các địa phương về
tới thị xã hoặc thị trấn để tạo thuận lợi cho người lao động. Tuy nhiên, thời điểm này điều
làm các doanh nghiệp không khỏi lo lắng đó là tỷ giá niêm yết trên thị trường tự do và tỷ

giá quy định của Ngân hàng Nhà nước vẫn có sự chênh lệch. Giá của nhiều nguyên liệu
đầu vào gần đây cũng tăng mạnh, giá bông chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng tới 300%
lên mức 5,2 USD/ kg, rồi lại giảm xuống 4,8 USD/kg, khiến doanh nghiệp đẩy mạnh mua


vào ở mức giá cao sẽ bị lỗ nặng. Thêm vào đó, mặc dù đơn hàng hiện nay “đổ” về Việt
Nam khá nhiều nhưng các doanh nghiệp cũng rất khó khăn trong việc tiếp tục mở rộng
các xí nghiệp sản xuất. Ngoài ra, việc đưa các cơ sở sản xuất về nông thôn lại khiến
doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng bị cắt điện nhiều hơn vào mùa khô, so với việc
đặt cơ sở sản xuất tại các thành phố lớn. Kết thúc năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của
ngành dệt may tiếp tục tăng 23%, so với năm trước, khi đạt trên 11 tỷ USD, đưa Việt
Nam lên vị trí thứ 5 trong các nước xuất khẩu hàng dệt may toàn thế giới. Trong năm
2011, toàn ngành đặt chỉ tiêu phấn đấu là thu về kim ngạch từ 12,7- 13 tỷ USD.
1.2. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu:
Sản phẩm ngành dệt may không chỉ biết đến đơn thuần là các sản phẩm quần áo mà còn
bao gồm những sản phẩm dùng trong các ngành và sinh hoạt như: lều, buồm, chăn, màn,
rèm.... Với ngành may mặc Việt Nam sản phẩm của ngành cũng rất đa dạng nhằm đáp
ứng yêu cầu xuất khẩu. Những sản phẩm may mặc phổ biến thường được xuất khẩu sang
các thị trường chính của Việt Nam như: Mỹ, EU, Nhật Bản là quần dài, quần short, áo sơ
mi, áo bông, áo thun...
Bảng 3: Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
2008-2011
ĐVT: Triệu USD; (%)
Năm 2008
Chủng
loại
Áo
thun
Áo sơ
mi

Quần
Quần
short
Áo
Jacket
Áo
khoác
Váy

Năm 2009
Tỷ
Giá
trọn
trị
g

Giá
trị

Tỷ
trọng

210
2

23

1,963

500


6

149
4

Năm 2010

Năm 2011

2009/2008

2010/2009

2011

Giá
trị

Tỷ
trọng

Giá
trị

Tỷ
trọng

Giá
trị


Tỷ
trọng

Giá
trị

Tỷ
trọng

Giá
trị

22

2320

21

2631

18.74

-139

-6.61

357

18.17


311

530

6

620

6

780

5.55

30

6.08

90

16.95

160

16

1,458

16


1729

15

2184

15.55

-36

-2.43

271

18.55

455

401

4

338

4

367

3


469

3.34

-63

15.67

29

08.45

102

119
8

13

1,095

12

2140

19

2979


21.21

-103

-8.59

1045

95.41

839

475

5

559

6

84

17.79

-559

363

4


411

5

48

13.12

96

23.28

142

507

5

649

4.62


Đồ lót
Đồ bơi
Quần
áo thể
thao
Quần
áo ngủ

Quần
áo trẻ
em
Vải
Các
loại
khác
Tổng

251
63

3
1

313
68

3
1

123

1

101

1

104


1

109

1

109

1

119

309

3

339

4

443

4

359

4

429


5

612

134
1

15

1,353

15

1851

908
2

9,066

424
89

4
1

62
5


24.74
08.10

111
21

-22

17.78

-101

0.85

5

5.25

0

582

4.14

30

9.79

5


853

6.07

70

17

2174

15.48

12

1120
9

515
108

1404
3

3.67
0.77

-16

35.35
31.03


91
19

0.1

10

104

30.66

139

19.37

183

42.77

241

0.89

498

36.80

323


0.18

2143

(Tổng hợp từ Hiệp Hội Dệt May Việt Nam)

Nhìn chung, trong 5 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các chủng
loại mặt hàng dệt may của Việt Nam đều có mức tăng trưởng khá. Có một vài mặt hàng
chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu của nước ta giảm như mặt
hàng màn, khăn bông, khăn lông, hàng may mặc (chăn, ga giường, gối, vỏ gối…) và mặt
hàng quần có mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thấp. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
quần trong 5 tháng năm 2008 chỉ tăng 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn nhiều so
với mức tăng trưởng 20% của cùng kỳ năm ngoái.
Các mặt hàng tiếp tục duy trì được tiến độ xuất khẩu và sẽ tăng trưởng mạnh trong
những tháng cuối năm là áo khoác, áo Jacket. Trong 8 tháng năm 2009, xuất khẩu các
mặt hàng áo khoác, áo sơ mi, quần áo trẻ em, vải, đồ lót... đạt được mức tăng trưởng khá.
Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm thấp như áo thun, quần dài, áo jacket là do
giá xuất khẩu giảm. Kim ngạch xuất khẩu giảm nhưng lượng hàng xuất khẩu tăng không
làm ảnh hưởng tới tiến độ phát triển cũng như tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may

2834


nước ta trong những năm tới.Còn trong tháng 11 năm 2009, xuất khẩu hầu hết các chủng
loại hàng truyền thống của nước ta đều giảm so với tháng trước, chủ yếu do thời
vụ.Trong tháng này, xuất khẩu mặt hàng vải của ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá,
tăng 20% so với tháng trước và tăng 70% so với tháng 11 năm 2008, đạt kim ngạch 49
triệu USD, trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 6 trong số các chủng loại
hàng dệt may. Bên cạnh đó, xuất khẩu mặt hàng quần short cũng tăng mạnh trở lại, tăng
97% so với tháng trước.

Tính chung 11 tháng, có 3 mặt hàng áo thun, quần, áo Jacket đạt kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên do giá xuất khẩu giảm, kim ngạch XK của 3 mặt hàng chủ
chốt này đều giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái.
Như vậy, tiến độ xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam có chậm lại so với dự kiến,
do nền kinh tế thế giới suy giảm, nhưng vẫn tăng trưởng khá. Các diễn biến trên thị
trường tiền tệ hiện nay đang có lợi cho hoạt động xuất khẩu chung của Việt Nam và xuất
khẩu hàng dệt may nói riêng. Các doanh nghiệp nên tận dụng các lợi thế về tỷ giá để đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu sang thị trường EU.
1.3. Về cơ cấu hình thức xuất khẩu:
Hai hình thức xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam là: gia công xuất khẩu, chiếm
tới 70%; xuất khẩu trực tiếp theo giá FOB, chỉ mới chiếm 30%. Hình thức gia công là
xuất khẩu qua một nước trung gian, chủ yếu là qua các nước NICs có nền công nghiệp
dệt may phát triển - với vị trí là nhà đặt hàng. Với hàng dệt may, nếu chỉ gia công, phần
giá trị gia tăng dành cho các nhà sản xuất VN rất thấp. Từ khởi điểm gia công thuần túy
(nhà sản xuất được cung cấp nguyên phụ liệu và chỉ làm một việc là ráp cho ra sản
phẩm), sau đó có thể tiến lên một bước sản xuất theo mẫu (phương thức FOB) Xuất khẩu
trọn gói theo FOB là doanh nghiệp sản xuất Việt Nam có thể thoả thuận tự cung ứng
nguồn nguyên phụ liệu trong và ngoài nước có giá thành rẻ, hình thức này mang lại lợi
nhuận thực tế cao hơn, giúp doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với thị trường và xu hướng thế
giới.
Nếu hiểu đúng nghĩa của sản xuất FOB thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng mới
dừng lại ở dạng sản xuất FOB “cấp 2” (một hình thức gia công thông qua hợp đồng trung


gian). Do không đủ năng lực để tự thiết kế mẫu, chủ động lựa chọn NPL, tự chào bán sản
phẩm, nên các DN Việt Nam phải nhận sản xuất lại hàng theo chỉ định của nhà sản xuất
FOB “cấp 1”.Trên thực tế, các DN sản xuất FOB của Việt Nam tự mua NPL, nhưng phải
mua theo mẫu của FOB “cấp 1” đưa ra (với đơn hàng FOB này DN được hưởng thêm 5%
- 10% trên giá trị NPL).
Việc tăng tỷ lệ làm hàng FOB của DN trong thời gian gần đây, không hẳn do năng

lực cũng như sự chủ động chuyển cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam mà đây là
cách làm mới của các nhà nhập khẩu nhằm giảm trách nhiệm cũng như chi phí. Nếu làm
hàng gia công, nhà nhập khẩu phải chịu tất cả mọi khâu trong sản xuất và tốn chi phí
thuê chuyên gia để giám sát.
Trong quá trình sản xuất, nếu thiếu chút vải, hột nút, hư hao thì nhà nhập khẩu cũng
phải lo mua và gởi cho doanh nghiệp gia công. Khi chuyển qua làm FOB, nhà nhập khẩu
sẽ chuyển trách nhiệm lo toan việc thiếu hụt nguyên phụ liệu cho nhà sản xuất, cắt giảm
bớt chi phí thuê chuyên gia giám sát. Bù vào đó, nhà sản xuất có thêm mức lời cao hơn so
với mức gia công trên sản phẩm. Đó là tình trạng chung của việc sản xuất hàng FOB tại
Việt Nam hiện nay.
Thực tế, có rất ít doanh nghiệp có thể thương thảo để có thể chủ động tự tìm mua
nguồn nguyên phụ liệu để sản xuất vì việc này sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lợi
nhuận. Hiện tại, phần lớn đơn hàng sản xuất FOB, nguồn nguyên phụ liệu sản xuất đều
do nhà nhập khẩu chỉ định. Điều này cũng có nghĩa rằng, nhà nhập khẩu chắc chắn biết
được giá bán nguyên phụ liệu sát nhất để đưa ra giá mua sát nút với doanh nghiệp Việt
Nam khi đàm phán và cũng có thể nhà nhập khẩu hưởng phần trăm lợi nhuận từ nhà cung
cấp nguyên phụ liệu khi chỉ định mua hàng, hoặc nhà nhập khẩu là công ty mẹ, công ty
thành viên với nhà cung cấp nguyên phụ liệu.
Tại TPHCM hiện nay, chính mối quan hệ “dây mơ, rễ má” giữa các công ty mẹ ở
nước ngoài – công ty con ở Việt Nam đã dẫn đến các trường hợp gian lận thương mại,
trốn thuế. Cục Thuế TPHCM đã phát hiện nhiều Doanh Nghiệp dệt may FDI báo cáo lỗ,
có dấu hiệu trốn thuế. Việc chuẩn hóa các số liệu xuất - nhập khẩu giữa đầu vào và đầu ra
giữa các công ty mẹ - con là kẽ hở tạo điều kiện để các Doanh Nghiệp FDI báo lỗ, trốn
thuế. Trong hơn 2.000 Doanh Nghiệp dệt may tại VN, Doanh Nghiệp FDI chiếm khoảng


40%.
Trong khi đó, ở thời điểm này, khi Trung Quốc đã chào hàng cho thị trường năm
2009 - 2010 thông qua những catalogue về mẫu mã, chất liệu vải may, xu hướng thời
trang, thì các DN Việt Nam đang phải tìm mua lại các tài liệu này để… nghiên cứu thị

trường!
Các DN dệt may Việt Nam đang thiếu tính liên minh, liên kết. Mà đang tồn tại theo
kiểu “ mạnh ai nấy làm”. Việc cạnh tranh lẫn nhau giữa các DN trong nước, đã tạo điều
kiện cho các nhà nhập khẩu ép giá, thậm chí chuyển từ đơn hàng sản xuất FOB trước đây
sang gia công. Hiện nay mỗi DN tự đưa ra một mức giá riêng, nên nhà nhập khẩu
“chảnh”, ép giá, sẵn sàng chuyển đơn hàng sang công ty khác nếu DN không chịu mức
giá thỏa thuận. Vì nhà nhập khẩu đã nắm được điểm yếu này và cũng biết rõ là đang có
nhiều DN xếp hàng để nhận làm với giá thấp hơn. Và dù bị ép giá, nhưng vì sự sống còn
của DN và để có việc làm cho công nhân, DN đành phải chấp nhận gia công với cái giá
không mong muốn. Đó là nỗi bức xúc rất lớn, nhưng tự một vài DN không thể làm thay
đổi được điều này. Thực tế đó cho thấy, rõ ràng, các DN trong nước đang tự giết nhau,
nhận phần thiệt về mình, còn cái lợi thì để cho nhà nhập khẩu hưởng.
DN dệt may phải hướng đến việc sản xuất hàng FOB, bởi ngoài lợi nhuận cao, các
nhà nhập khẩu còn thích hàng FOB và nhận được nhiều chia sẻ của nhà sản xuất như các
công đoạn thiết kế mẫu, chỉ định nguyên phụ liệu... Hiện chưa có đến 50% DN ngành dệt
may sản xuất theo đơn hàng FOB nên dù kim ngạch xuất khẩu của VN tương đối cao
nhưng cơ cấu hàng FOB chỉ chiếm khoảng 20 - 30% giá trị đơn hàng, do đó tỷ suất lợi
nhuận thu về rất thấp. Mục tiêu đối với ngành dệt may là nâng tỷ lệ xuất khẩu hàng FOB
lên 50% trong hai năm tới.
Hiện nhiều DN VN đang đẩy mạnh hoạt động xúc tiến nghiên cứu thị trường và làm
tốt công tác chăm sóc khách hàng cũng như tổ chức mời gọi khách hàng tiềm năng. Có
nhiều mặt hàng FOB đă vào các thị trường mới như vải lụa tơ tằm của Công ty Dệt may
Thái Tuấn xuất khẩu sang thị trường Trung Đông, khăn cao cấp của Tổng công ty Phong
Phú xuất sang Nhật Bản, EU; các sản phẩm may mặc của Tổng công ty cổ phần may Việt
Tiến không chỉ có mặt tại Mỹ, EU mà còn hiện diện tại thị trường châu Á...
1.4. Về cơ cấu thị trường:


Thị trường xuất khẩu là thị trường tiêu thụ lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam,có
tới 90% doanh thu của ngành là từ xuất khẩu.

Bảng 4: Thị trường và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 2008-2011
ĐVT: Triệu USD; (%)

Năm 2008
Giá
trị
Hoa
Kỳ
EU
Nhật
Khác
Tổng
cộng

Tỷ
trọng

Năm 2009
Giá
trị

5,116
1,704
820
1,442

56 4,995
19 1,700
9
955

16 1,416

9,082

9,066

Tỷ
trọng
55
19
11
16

Năm 2010
Giá
trị
6,117
1,883
1,154
2,055
11,209

Tỷ
trọng
55
17
10
18

Năm 2011

Giá
trị
6,872
2,506
1,684
2,981
14,043

Tỷ
trọng
48.94
17.85
11.99
21.23

2009/2008
Tuyệt
đối

Tươn
g
Tuyệt
đối
đối

-121 -2.37
-4 -0.23
135 16.46
-26
-1.8

-16

2010/2009

1,122
183
199
639

2011/2
Tuyệt

Tương
đối
đối
22.46
10.76
20.84
45.13

2,143

(Tổng hợp từ Cục Hải Quan)
Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt 9,108 tỷ đô la Mỹ, tăng
17,5% so với năm 2007, đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế và giải quyết
công ăn việc làm của một lực lượng lớn lao động. Hiện Hoa Kỳ đang là thị trường xuất
khẩu của Việt Nam, chiếm tới 57% thị phần xuất khẩu, vượt xa so với thị trường tiềm
năng khác là EU chiếm 18%, Nhật Bản 9%. Hoạt động mở rộng thị trường sang khu vực
Châu Phi và các nước Châu Á khác cũng khá tốt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
sang các thị trường này đều có mức tăng trưởng cao.


Hình 2:Thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2008
Bước vào năm 2009, do ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới nên
hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam càng gặp khó khăn. Xu hướng thị
trường xuất khẩu dệt may bị thu hẹp ngày càng rõ nét, các đơn hàng xuất khẩu bắt đầu bị

755
623
530
926
2,834

T


cắt giảm và dự kiến sẽ có thể tiếp tục giảm tới đầu năm 2010. Sức tiêu thụ hàng dệt may
cao cấp suy giảm mạnh mà đây lại chính là phân khúc thị trường mà doanh nghiệp (DN)
Việt Nam có nhiều ưu thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhiều hệ thống phân phối, siêu thị tại
các nước như Mỹ, EU, Nhật Bản đóng cửa, gây khó khăn cho việc đẩy mạnh hàng hóa
Việt Nam ra thị trường ngoài nước. Không chỉ vậy, sản phẩm dệt may của Việt Nam còn
bị cạnh tranh ngày càng gay gắt với các sản phẩm của các nhà xuất khẩu lớn như Trung
Quốc, Ấn Ðộ, Bangladesh, Indonesia.

1.4.1. Thị trường EU:
Là một trong ba thị trường xuất khẩu lớn của dệt may Việt Nam, năm 2005 việc EU
không áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Theo Bộ Công thương,
trong 3 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu dệt may sang EU chỉ tăng 7-8% so với cùng kỳ
năm 2007. Riêng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU tháng 2 đạt 73 triệu USD, nâng
tổng kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 240 triệu USD, tăng 26,8% so cùng kỳ

2007.
Kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU tăng gần 40% giữa năm 2006 và 2008, với
tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm gần 20%. Vào năm 2008, Việt Nam xuất khẩu
hàng dệt và may mặc sang EU trị giá trên 2 tỷ USD và đứng thứ 10 trong các nước xuất
khẩu dệt may vào thị trường EU sau các quốc gia xuất khẩu chủ yếu khác như Trung
quốc, Ấn độ, Bangladesh, Pakistan hay Indonesia. Việc xóa bỏ chế độ hạn ngạch xuất
khẩu đã giúp khôi phục lại tăng trưởng xuất khẩu dệt may sang EU sau khi đã chững lại
trong năm 2005. Mức tăng trưởng xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường EU
trong những năm gần đây thấp hơn mức tăng trưởng chung của ngành dệt may. Cụ thể
năm 2010 tăng 183 triệu USD tương ứng với mức tăng 10,76%. Trong khi đó Hoa Kỳ có
mức tăng 22,46%, Nhật Bản tăng 20,84%, các thị trường khác tăng 45,13%. Tăng trưởng
tương đối chậm của hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam sang thị trường EU phản ánh
sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường EU đặc biệt là sau khi xóa bỏ quota xuất
khẩu vào năm 2005. Việc kết nạp các thành viên mới ở Đông Âu đã tạo thuận lợi cho các
quốc gia này trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may cũng như các sản phẩm có


hàm lượng lao động cao. EU cũng có nhiều Hiệp định thương mại tự do và các ưu đãi
thương mại dành cho các nước đang phát triển, và tạo lợi thế cho các quốc gia này trong
việc xuất khẩu hàng hóa sang EU.
Trong số các nước EU thì Đức là nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt
Nam với kim ngạch 19,4 triệu USD, nâng tổng kim ngạch 2 tháng đạt 59,2 triệu USD,
tăng 6,4% so cùng kỳ. Tiếp đến là Anh, xuất khẩu tháng 2 đạt 12 triệu USD, nâng tổng
kim ngạch 2 tháng đạt 44,2 triệu USD, tăng 31,4% so cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu sang
Pháp 2 tháng đầu năm đạt 22,4 triệu USD, tăng 17,8%; sang Hà Lan 22,35 triệu USD,
tăng 40%; sang Tây Ban Nha đạt 20,8 triệu USD, tăng 24,6%...Nhưng tốc độ xuất khẩu
của ngành dệt may trong tháng 3/2008 đã chững lại, khi tổng kim ngạch xuất khẩu trong
tháng này chỉ xấp xỉ mức tháng 2/2008.
Tại thị trường EU, các doanh nghiệp đã cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ hỗ
trợ cho nhà nhập khẩu cũng như tuân thủ quy chế mới về an toàn cho người tiêu dùng. Do

đó dù chịu ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế nhưng giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm
2009 đạt xấp xỉ 1,25 tỷ USD, chỉ giảm 3,5% trong điều kiện nhập khẩu chung vào thị
trường này giảm hơn 11% so với cùng kỳ năm trước.
1.4.2. Thị trường Nhật Bản:
Hiện nay, sáu nước trong khu vực Đông Nam Á gồm Singapore, Malaysia,
Philippines, Indonesia, Brunei và Thái Lan đã được hạ mức thuế quan xuống còn 0% khi
xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản. Trong khi đó, hàng dệt may của Việt Nam vào thị
trường này vẫn đang phải chịu mức thuế khoảng 10%, điều này cũng sẽ tiếp tục đẩy các
doanh nghiệp trong nước vào thế cạnh tranh khá căng thẳng với các nước trong khu vực
khi xuất hàng sang thị trường này.Tuy nhiên ngày 1/4/2008 Việt Nam đã kí với Nhật Bản
hiệp định đối tác toàn diện AJCEP.Theo hiệp định này,ta cam kết loại bỏ 82% giá trị nhập
khẩu từ Nhật Bản trong 16 năm và 69% giá trị nhập khẩu trong vòng 10 năm. Đổi lại,
Nhật Bản sẽ xoá bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị nhập khẩu từ Việt Nam trong vòng
10 năm. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh Nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất
khẩu sang Nhật Bản thời gian tới.
Tại thị trường Nhật Bản,các doanh nghiệp đã tăng cường hoạt động xúc tiến hợp tác


đầu tư, thương mại với đối tác Nhật Bản.Đồng thời,các nhà nhập khẩu Nhật Bản đánh giá
cao tính ổn định, trình độ tay nghề của công nhân, cũng như chất lượng, mẫu mã phong
phú, đa dạng của hàng dệt may Việt Nam.Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này
không ngừng tăng trưởng (năm 2008 tăng 12% và trong năm 2009, XK hàng dệt may vào
thị trường Nhật Bản tăng từ 23% đến 25%). Đây là kết quả đáng ghi nhận trong điều kiện
nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm nghiêm trọng.
Xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật Bản năm 2009 đạt gần 1 tỷ USD, tăng đến
16,46% so với năm trước và năm 2010 đạt 1,2 tỷ USD tương ứng với mức tăng 20,84%,
năm 2011 đạt 1,7 tỷ USD. Theo các doanh nghiệp dệt may trong nước, việc tăng kim
ngạch xuất khẩu có tác động kể từ ngày 1 – 10 - 2009, khi Hiệp định Đối tác kinh tế Việt
- Nhật (VJEPA) chính thức có hiệu lực, thuế suất của hàng dệt may từ Việt Nam vào Nhật
Bản được cắt giảm. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nguyên liệu vải có xuất xứ

từ Nhật Bản sẽ được hưởng thuế suất 0% thay vì 5% đến 10% như trước đây. Việc có
nguồn nguyên liệu hưởng thuế ưu đãi sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành. Thêm vào đó, các nhà nhập khẩu Nhật Bản đánh giá cao tính ổn định
cũng như trình độ tay nghề của công nhân Việt Nam.
Cũng theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, hiện Nhật Bản là thị trường lớn thứ hai trên
thế giới về tiêu thụ hàng dệt may, trong đó thị trường thời trang hàng ngày cho tầng lớp
phụ nữ trẻ chiếm khoảng 60% trong tổng thể thị trường quần áo và có trị giá khoảng 28
tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp dệt, may đã làm ăn khá thành công với thị trường Nhật Bản
như: Dệt kim Đông Xuân, May Nhà Bè, May 10, Dệt May Nam Định, Phong Phú...
Do đó, để tạo dựng thành công thương hiệu của mình, trong thời gian tới các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của người dân Nhật, nắm được xu
hướng thời trang của người tiêu dùng Nhật, đồng thời hàng hóa cũng phải thể hiện được
cá tính riêng. Vì nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản ngày nay đã có sự thay đổi, từ
nhập số lượng lớn sang nhập nhiều chủng loại hàng với số lượng nhỏ hơn để đáp ứng sở
thích cá nhân.
1.4.3. Thị trường Mỹ:
Là thị trường lớn nhất với tỷ trọng trên 55% trong giá trị xuất khẩu dệt may đồng
thời cũng là thị trường có yêu cầu khắt khe về mẫu mã,chất lượng sản phẩm và thời gian


giao hàng. Các doanh nghiệp dệt may khi xuất khẩu vào thị trường này đã nỗ lực phối
hợp với các nhà nhập khẩu trong việc xác định lại cơ cấu giá cả hợp lý trên cơ sở vẫn giữ
vững chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Nhờ đó trong năm 2008, hàng dệt may Việt Nam
đạt kim ngạch vào Hoa Kỳ trên 5,1 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2007. Trong 9 tháng
đầu năm 2009, nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ giảm đến 12,7% và hàng nhập từ
hầu hết các nước sản xuất chính đều giảm (từ Hồng Kông giảm 21%, từ Indonesia giảm
2,9%, từ Thái Lan giảm 25,6% và từ Ấn Độ giảm 7,7%). Tuy nhiên, hàng dệt may Việt
Nam xuất vào thị trường này vẫn tăng 18% về lượng và chỉ giảm 4,5% về giá trị. Kim
ngạch XK trong năm 2009 chỉ đạt gần 5 tỷ USD, giảm 2,37% so với năm 2008.Trên thực
tế, do đơn giá trung bình giảm 10% - 15%, nên tổng kim ngạch XK giảm nhưng khối

lượng XK vẫn tăng so với năm 2008.
Bên cạnh đó, ngành Dệt may VN đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật
mới trong việc bảo vệ môi trường cho người tiêu dùng Mỹ, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
Theo đạo luật này, các lô hàng xuất khẩu vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3
xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Nhà sản
xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Theo rào
cản kỹ thuật này, VN phải có 1 phòng thí nghiệm hiện đại đủ tiêu chuẩn để được phía Mỹ
công nhận và cấp giấy chứng nhận. Bên cạnh đó phải tiếp tục tăng tỷ lệ sản xuất nguyên
vật liệu trong nước, giảm nhập siêu.
Ngành Dệt may VN cũng được một số doanh nghiệp Mỹ cảnh báo rằng nếu không
sớm nâng năng lực làm hàng chất lượng cao, sẽ khó cạnh tranh được với các đối tác khác
đến từ các nước Châu Á. Áp lực này khiến ngành Dệt may phải xây dựng hệ thống các
tiêu chuẩn sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời
đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật.
1.4.4. Các thị trường khác:
Ngoài các thị trường trọng điểm xuất khẩu dệt may nêu trên, dệt may VN cũng
nhấn mạnh đến các thị trường khác như: Canada, Hàn Quốc, Australia và các thị trường
nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng Kông,
Singapore, Thụy Sĩ, Anh…Theo số liệu thống kê, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của dệt


may Việt Nam sang Hà Lan đạt 151.250.780 USD, sang Hy Lạp đạt 8.615.154 USD,sang
Ba Lan đạt trị giá 25.075.264 USD, sang Đức đạt 395.473.082 USD. Trong tháng
12/2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hồng Kông đạt trị giá 3.523.013 USD. Tính
chung năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 38.476.224 USD.
Trong 9 tháng đầu năm 2009, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc đã
tăng 50%, Ảrập Xêut tăng 23%, Thụy Sĩ tăng 12,7% và các nước ASEAN tăng 7,8%.
Ngoài ra, Ngành Dệt may Việt Nam cũng đã tiếp cận được thị trường Trung Đông, xuất
khẩu vải, khăn bông và phụ liệu sang một số nước như Tiểu vương quốc Arập, Ai Cập,

Nam Phi. Đặc biệt, Thổ Nhĩ Kỳ- vốn là một cường quốc về dệt may, năm nay cũng đã
nhập khẩu của Việt Nam số lượng khá lớn, nhất là mặt hàng sợi. Các nước Đông Âu cũ
cũng nhập khẩu khá lớn hàng dệt may Việt Nam. Đáng chú ý, nhiều nước trước đây từng
giúp Việt Nam về kỹ thuật, giờ rất muốn hợp tác với Việt Nam để phát triển ngành dệt
may, điển hình như Nga, hiện đang có chương trình hợp tác với Việt Nam để phát triển
ngành dệt may của họ.
1.5. Cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường:
Các đối thủ cạnh tranh chính của dệt may Việt Nam trên thị trường có thể kể đến là:
1.5.1. Bắc Phi:
Tunisia, Ai Cập và Ma-rốc, nhờ Hiệp định Thương mại tự do (FTA), đã chuyển
hướng chú trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong 3 năm gần đây. Mặc dù trước đó họ
có xu hướng sản xuất hàng may mặc chất lượng cao có thương hiệu cho thị trường châu
Âu, thì mới đây họ đã tập trung vào các đơn hàng số lượng lớn, sản xuất hàng đại trà
phục vụ thị trường Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ thường trả trung bình cao hơn từ 10-14%
cho một sản phẩm so với người tiêu dùng Châu Âu. Sự khác biệt này là do ảnh hưởng bởi
bề dày lịch sử của ngành sản xuất đồ may mặc Châu Âu và nhận thức về giá cả tương đối
tốt trong của người dân Châu Âu.
Thị trường Châu Âu cần những đơn hàng số lượng nhỏ và cần các sản phẩm đáp
ứng tính thời trang theo mùa vụ, do vậy đây cũng là một thị trường khá "khó tính" với các
nhà cung cấp. Mặc dù thị trường châu Âu có 456 triệu người tiêu dùng, lớn hơn thị
trường Mỹ, nhưng lại bị phân mảnh, bao gồm một số lớn các nước thành viên, trong đó
mỗi nước có đặc tính riêng biệt và có yêu cầu sản phẩm khác nhau.


Theo một báo cáo của IMC, xuất khẩu hàng may mặc sẵn (RMG) của Ai Cập đã
giảm 25% từ giữa tháng 9 năm 2008 và tháng 2 năm 2009 trong đó trên 60% được cập
cảng vào thị trường Mỹ. Cũng trong mấy năm gần đây, ngành công nghiệp dệt may của
Ma-rốc đã giảm 12% và nhiều nhà máy phải đóng cửa. Nhiều đơn hàng lớn với Châu Âu
đã bị trì hoãn hay hủy bỏ là yếu tố chính tác động mạnh đến ngành công nghiệp Bắc Phi.
1.5.2. Châu Mỹ Latinh :

Trong số các quốc gia châu Mỹ Latinh, Peru và Colombia vẫn là 2 nước từ trước
tới nay phụ thuộc vào thị trường Mỹ với 80% lượng hàng may mặc xuất khẩu là dành cho
thị trường Mỹ. Ngành công nghiệp may mặc ở hai nước này cũng chiếm được vị trí ưu
thế trong thị trường nội địa. Tuy nhiên, cả hai nước, trong những tháng đầu năm 2009 đều
phải đối mặt với tình trạng không có các đơn hàng. Vì vậy, việc tìm kiếm và tiếp cận đến
các thị trường xuất khẩu mới, như Châu Âu chẳng hạn, sẽ là những bước ưu tiên trước
hết. Bên cạnh đó, họ lại chưa quen với những yêu cầu "thắt chặt" về chất lượng dịch vụ
và chính sách giá cả ở Châu Âu nên những thiệt hại cho các doanh nghiệp XK tại khu
vực này là khó tránh khỏi.
1.5.3. Bangladesh :

Từ trước tới nay Bangladesh luôn là một nhà cung cấp quan trọng của Anh. Sáu
chủ nhà máy trong cuộc khảo sát của CBI cho biết xuất khẩu của họ đã giảm 17% về
lượng và 23% về giá trị. Với lợi nhuận xuất khẩu trung bình là 20%, các nhà máy đang
phải 'gồng mình' để duy trì hòa vốn hay là giảm thiệt hại về lỗ đến mức tối đa. Vấn đề trở
nên tồi tệ hơn khi mà theo thông lệ Bangladesh vẫn phụ thuộc vào các đơn hàng dài hạn.
Người mua phải đặt hàng sản xuất trước 4-5 tháng, điều này có nghĩa là các nhà xuất
khẩu nước này thường từ chối nhận các đơn hàng quá mức công suất lớn nhất của họ.
Hiện nay, những người mua hàng châu Âu đã đặt đơn hàng cho đến tháng Sáu năm 2009
nói rằng họ sẽ không đặt hàng quá tháng 3. Kết quả là hàng loạt doanh nghiệp
Bangladesh không còn nhận được đơn hàng. Các nhà xuất khẩu nước này cho hay tình
trạng suy giảm trong số lượng đặt hàng hiện tại đã được hạn chế, tuy nhiên áp lực về giá
cả khiến cho họ không còn khả năng đáp ứng.
1.5.4. Indonesia:


Trong các nước sản xuất hàng may mặc ở châu Á thì Indonesia là nước đã xây
dựng được mối liên kết bền chặt giữa các công đoạn sản xuất theo chiều dọc, từ khâu sản
xuất chỉ sợi may đến sản xuất quần áo. Ngành công nghiệp hàng dệt kim của Indonesia
xếp thứ 4 trên thế giới về năng lực sản xuất. Thành công này nhờ việc lựa chọn phân

đoạn thị trường hạng trung ở Châu Âu. Nước này đã giành vị thế là nhà cung cấp sản
phẩm mang lại thặng dư giá trị cao, không chỉ bởi các công đoạn gắn kết chặt chẽ mà bởi
vì khâu thiết kế sản phẩm cũng rất mạnh. Sự liên kết của các nhà thiết kế trong quá trình
phát triển sản phẩm đã đưa Indonesia trở thành nhà cung cấp được ưa chuộng. Tuy nhiên
trong năm 2008, khi bảo hộ nhập khẩu chống lại các sản phẩm Trung Quốc bị dỡ bỏ,
Indonesia lại phải đối mặt với đối thủ cạnh tranh đáng nể là Trung Quốc.
1.5.5.Trung Quốc:
Trung quốc là nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, hiện
chiếm tới 1 phần tư khối lượng thương mại dệt may thế giới, cung cấp khoảng 30 triệu
tấn xơ ( 40% của thế giới) và nhà cung cấp hàng đầu thế giới về xơ hoá học, sợi, vải, tơ
tằm và hàng may mặc. Tuy nhiên, nhìn chung Trung quốc chỉ là nhà cung cấp các sản
phẩm có giá trị thấp và trung bình. Nhiều nhà cung cấp Trung quốc hướng về xuất khẩu,
gia công các sản phẩm cần nhiều lao động, phần lớn giành được lợi thế về giá do có qui
mô sản xuất lớn. Tuy nhiên,tình hình này đang thay đổi. Do các nhà sản xuất thu được
nhiều kinh nghiệm và bí quyết trong quá trình gia công sử dụng thiết bị của mình (OEM=
original equipment manufacturing), các doanh nghiệp mạnh ở Trung quốc đang từng
bước cải thiện sức mạnh của mình nhằm xây dựng thương hiệu trong tương lai. Điểm bắt
đầu là ODM (original design manufacturing), các nhà cung cấp không chỉ cung cấp dịch
vụ sản xuất mà còn cả dịch vụ thiết kế nữa. Khả năng thiết kế cho thấy trình độ cao hơn
về tri thức của nhà cung cấp, không những cung cấp tay nghề may khéo léo mà còn cả trí
tuệ sáng tạo.
 Có thể thấy,các đối thủ cạnh tranh của dệt may Việt Nam đều là những đối thủ mạnh. Do

đó để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải
có những chính sách và chiến lược hợp lý mới có thể cạnh tranh và hoàn thành mục tiêu.


CHƯƠNG II
CƠ SỞ CHO VIỆC ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM

2.1 Cơ hội và thách thức:
2.1.1 Cơ hội:


Theo thống kê của Tổng cục thống kê, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc sang một
số thị trường đang giảm, thị phần của Trung Quốc đang bị thu hẹp, tạo cơ hội cho các sản
phẩm dệt may đến từ Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Có thể nói đây là cơ hội tốt cho
việc xuất khẩu dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong thời kỳ
hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các doanh
nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may.
Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi
nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định
đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khung khổ của
ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v).
Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác
mới. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa có dân số 84 triệu dân với mức sống ngày càng
được nâng cao thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và các doanh nhân.
Trong chiến lược phát triển ngành dệt may của Việt Nam, Chính phủ đã có định
hướng phát triển các lĩnh vực phụ trợ, phát triển các nguồn nguyên liệu phục vụ cho
ngành may. Những kế hoạch này nếu thực hiện tốt sẽ giúp cung cấp những nguyên liệu
có chất lượng cao, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu vốn đang là vấn đề
lớn của ngành may xuất khẩu hiện nay. Khi đó, các doanh nghiệp may trong nước sẽ có
điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Triển vọng xuất khẩu của các doanh nghiệp may Việt Nam cũng rất lớn. Với thị

trường EU, triển vọng tăng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất lớn
khi các doanh nghiệp Việt Nam thoả mãn được những yêu cầu về môi trường của thị
trường này. Đây là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may Việt
Nam trong thời gian tới.


Nếu biết tận dụng tốt những cơ hội cũng như có sự chuẩn bị phù hợp và đúng
hướng thì trong tương lai, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đạt được những kết
quả phát triển ấn tượng.
2.1.2 Thách thức:

Ngành dệt may của Việt Nam cũng đang phải đương đầu với những thách thức
không nhỏ. Một mặt, xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ
chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực
cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới... là thách thức khi hội
nhập kinh tế toàn cầu.
Mặt khác, môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý
của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây
dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu,
đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng.
Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật, vệ
sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất trong
nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa, không đủ tiềm lực để
theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương
mại. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn,
đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó còn là các hạn chế trong khâu sản xuất vải và nguyên phụ liệu cho may
xuất khẩu, yếu về mẫu mã, chủng loại nhãn mác, phần lớn DN chưa có thương hiệu sản
phẩm, năng suất lao động thấp, chi phí giao dịch lớn.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng chung của ngành là rất ấn tượng, nhưng sự phát triển của

từng doanh nghiệp trong ngành lại không hề dễ dàng, đặc biệt khi giá vật liệu đầu vào và
chi phí nhân công tăng nhanh chóng.
Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc Trung Quốc với giá thành rẻ và kiểu
dáng mẫu mã đa dạng, phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam và các nước trên
thế giới.


Các quốc gia nhập khẩu thường có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với chất lượng
của hàng may mặc nhập khẩu vào, bao gồm cả hàng hóa của Việt Nam
2.2 Dự báo nhu cầu về hàng dệt may Việt Nam trên thế giới:
Năm 2010 được dự báo kinh tế thế giới sẽ phục hồi, nhưng chứa đựng nhiều rủi ro
khó lường, vì thế doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phải tiếp tục bảo vệ lợi thế cạnh
tranh của mình, chủ động đón cơ hội kinh doanh sau khủng hoảng. Để đạt được mục tiêu
tăng trưởng bền vững, ngành dệt may Việt Nam sẽ tập trung chú trọng đến công tác đào
tạo nguồn nhân lực, nhất là những người làm thiết kế thời trang. Thời gian qua, đội ngũ
cán bộ quản lý, kỹ thuật ngành dệt may đã ngày càng tăng về chất lượng, đặc biệt là đội
ngũ thiết kế thời trang đã có sự lớn mạnh, chuyển về chất. Sản phẩm dệt may Việt Nam
đã khẳng định được đẳng cấp. Vị thế và uy tín của ngành dệt may Việt Nam đang ngày
càng tăng cao.
Giai đoạn 2011-2015, ngành dệt may Việt Nam chủ trương tăng cường XK, xác
định lại chiến lược về thị trường nhằm thiết lập thị trường XK ổn định. Đặc biệt, trong
giai đoạn mới, ngành dệt may không chỉ phải cạnh tranh về chất lượng, về giá cả mà phải
cạnh tranh ngay từ khâu đấu giá trên mạng. Bây giờ, kiểu đặt hàng mang mẫu đến rồi bảo
anh làm cho tôi mẫu mã như thế này, giá cả thế kia… đã quá lạc hậu, mà phải đấu giá
trực tiếp trên mạng. Chẳng hạn một công ty thời trang ở Pháp ra một mẫu thiết kế mới,
mời đấu giá ngay trên mạng internet. Hàng loạt đối thủ từ các nước có thế mạnh trong
làng dệt may trên thế giới cùng đấu giá. Do vậy, phải có nguồn nhân lực đáp ứng được
những yêu cầu này. Phải có những chuyên gia tính toán được ngay trong thời gian ngắn,
với mẫu mã như vậy thì cần những nguyên phụ liệu gì, thời gian thực hiện bao lâu và đưa
ra giá hợp lý, có như vậy mới có thể giành được những hợp đồng may giá trị cao. Do vậy,

khâu quan trọng nhất đối với ngành dệt may trong thời gian tới vẫn là tạo được nguồn
nhân lực chất lượng cao.

2.2.1.Đối với ngành Dệt:
Do ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế thế giới, ngành dệt may Việt Nam tiếp tục hứng
chịu nhiều rủi ro. Nếu như trong khoảng thời gian đầu năm 2008, ngành dệt may đã đạt
được những bước tăng trưởng khá mạnh thì cuối năm 2008, đầu năm 2009, dệt may Việt


Nam lại vấp phải những khó khăn, thách thức do phụ thuộc khá nhiều vào các đơn hàng
từ nước ngoài. Đi kèm theo đó là tình trạng nhiều công nhân mất việc, nhà xưởng giảm
ca, và kéo dài ngày nghỉ cho người lao động. Bên cạnh đó, 70% nguyên phụ liệu dệt may
Việt Nam phải nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp gần như hoàn toàn phụ thuộc vào
nước ngoài. Vì vậy, dao động tỷ giá ngoại tệ và sự bất ổn của thị trường quốc tế sẽ là
những bất lợi cho sự phát triển của cả ngành. Tuy vậy, BMI vẫn lạc quan cho rằng dệt
may Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua sóng gió và đạt được kết quả ấn tượng. Giá trị
gia tăng mà ngành dệt mang lại đã tăng 9,2% trong năm 2008 thì nay năm 2009 sẽ giảm
chỉ còn 8% và 5,9% vào năm 2010 nhưng năm 2011 sẽ phục hồi và tăng trở lại lên 9,3%
2.2.2.Đối với ngành May Mặc
Ngành công nghiệp may mặc sẽ bớt ảm đạm và có nhiều khả năng phục hồi hơn
ngành dệt vì quy mô ngành hàng này lớn hơn, linh hoạt hơn và có nhiều lựa chọn để bù
đắp trong thời kỳ suy thoái (ví dụ như phát triển thị trường xuất khẩu mới). Vì vậy, BMI
dự báo cho dù giá trị gia tăng hàng may mặc năm 2009 giảm xuống chỉ còn 3% và năm
2010 sẽ giảm mạnh hơn chỉ còn 0,9% thì đến năm 2011 sẽ phục hồi với tốc độ tăng
trưởng là 10,3%. Từ năm 2003 đến 2008 tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của giá
trị gia tăng mà ngành dệt may mang lại đạt 11,9% vượt tốc độ tăng trưởng GDP tới 7,8%.
Nhưng trong vòng năm năm tới, tốc độ này chỉ còn 4,8% thấp hơn so với tốc độ GDP ở
mức 7%. BMI dự báo tốc độ xuất khẩu hàng dệt may sẽ giảm 18,6% (tương đương
khoảng 8,74 tỉ đô-la Mỹ) trong năm 2009; còn nhập khẩu giảm 20,4% (tương đương
khoảng 5,04 tỉ đô-la Mỹ). Tăng trưởng xuất khẩu bình quân ở mức 22,4%/năm giai đoạn

2003 - 2008 có thể giảm xuống chỉ còn 1,8% trong giai đoạn 2008 - 2013.

Bảng 3: Số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam


giai đoạn 2006-2013

Sản xuất

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Giá trị gia tăng, triệu
3.205,5 3.899,6 5.136,8 4.789,3 4.764,5 5.721,1 6.847,6 7.759,3
đô la Mỹ
Giá trị gia tăng, %
trong GDP


5,3

5,5

5,7

5,2

4,9

5,0

5,0

5,1

Tốc độ tăng trưởng
13,2
giá trị gia tăng, %

13,5

9,2

-3,0

-0,9

9,8


9,2

9,0

Giá trị gia tăng
ngành dệt, triệu đô 325,0
la Mỹ

368,9

402,8

390,7

387,2

423,2

460,0

499,2

Thương mại quốc tế
Kim ngạch XK hàng
1.058,0 1.352,0 1.690,0 1.318,2 1.453,5 1.598,8 1.742,7 1.912,7
dệt, triệu USD
Kim ngạch NK hàng
3.988,0 4.940,0 5.874,8 4.699,8 5.056,9 5.166,8 4.990,7 5.096,5
dệt, triệu USD

Cán cân thương mại
ngành dệt, triệu -2.930,0 -3.588,0 -4.184,8 -3.381,6 -3.603,4 -3.568,0 -3.247,9 -3.183,8
USD
Kim ngạch XK hàng
5.579,0 7.186,0 9.054,4 7.424,6 8.335,4 8.898,6 8.929,0 9.505,3
may mặc, triệu USD


Kim ngạch NK hàng
271,0
may mặc, triệu USD

426,0

449,8

337,3

379,8

414,0

451,3

497,3

Cán cân thương mại
ngành may mặc, 5.308,0 6.760,0 8.604,6 7.087,2 7.955,6 8.484,6 8.477,7 9.008,0
triệu USD
Nguồn: BMI (tháng 7/2009)

Theo đó, triển vọng của ngành may mặc sẽ là sáng sủa hơn một chút so với ngành
dệt, do có quy mô lớn hơn, mức độ linh hoạt cao hơn, và có nhiều lựa chọn thay thế ngay cả
trong thời kỳ suy thoái (chẳng hạn, phát triển thị trường xuất khẩu mới)
Giá trị gia tăng của ngành hàng may mặc được dự báo sẽ tăng liên tục trong giai
đoạn 2011-2013, mặc dù có giảm lần lượt 3,0% và 0,9% vào các năm 2009 và 2010. Đây
là triển vọng khá tích cực, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2011-2013 còn
thấp hơn so với mức trung bình trong các năm 2003-2008 (11,9%). Cũng do tốc độ tăng
trưởng chậm hơn so với GDP mà tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành may mặc trong GDP
trong giai đoạn 2009-2013 sẽ thấp hơn so với mức trong giai đoạn 2006-2008.
Tương tự, giá trị gia tăng của ngành dệt cũng giảm nhẹ từ mức gần 403 triệu USD
vào năm 2008 xuống còn xấp xỉ 391 triệu USD và hơn 387 triệu USD lần lượt vào các
năm 2009-2010, trước khi tăng liên tục lên khoảng 500 triệu USD vào năm 2013.
Tuy giá trị gia tăng có giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may chỉ giảm
trong năm 2009, và sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2010-2013. Theo BMI (2009), kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt tăng liên tục từ mức hơn 1,3 tỷ USD vào năm 2009 lên hơn 1,9
tỷ USD vào năm 2013, với tốc độ tăng trung bình khoảng 9,8%/năm trong 2010-2013.
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cũng tăng từ mức hơn 7,4 tỷ USD lên
hơn 9,5 tỷ USD trong giai đoạn 2009-2013.
Mặc dù vậy, triển vọng xuất khẩu này cũng đi kèm những diễn biến đáng lo ngại.
Trước hết, cán cân thương mại ngành dệt vẫn có mức thâm hụt lớn, mặc dù mức thâm hụt
đã giảm mạnh trong năm 2009 và trong giai đoạn 2011-2013. Điều này cho thấy ngành


×