Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận hải châu, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.55 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ CÔNG THUẤN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐẢM BẢO AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018

1


VIỆN HÀN
HÀN LÂM
LÂM KHOA
KHOA HỌC
HỌC XÃ
XÃ HỘI
HỘI VIỆT
VIỆT NAM
NAM
VIỆN
HỌC VIỆN
VIỆN KHOA
KHOA HỌC
HỌC XÃ
XÃ HỘI


HỘI
HỌC

LÊ CÔNG
CÔNG THUẤN
THUẤN


THỰC HIỆN
HIỆN CHÍNH
CHÍNH SÁCH
SÁCH
THỰC
ĐẢM BẢO AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2018

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực phẩm là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng và năng lượng chủ

yếu để con người duy trì sự sống và các hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Thực
phẩm an toàn đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khoẻ con người, nâng
cao chất lượng cuộc sống và chất lượng giống nòi. Bên cạnh đó, thực phẩm
cũng chính là nguồn truyền bệnh nguy hiểm, nếu như không bảo đảm được vệ
sinh và an toàn. Ngộ độc thực phẩm và các bệnh do thực phẩm gây ra không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ và cuộc sống của mỗi người, mà còn gây
thiệt hại lớn về kinh tế, là gánh nặng chi phí cho chăm sóc sức khoẻ của mỗi
quốc gia. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện có hơn 400
các bệnh lây truyền qua thực phẩm không an toàn, hơn 1/3 dân số các nước
phát triển bị ảnh hưởng của các bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm.
Vì vậy, việc tiếp cận với thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ
bản đối với mỗi con người và an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề
đang rất được quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong thời gian qua, các vấn
đề liên quan đến đảm bảo ATTP đã được đặt lên hàng đầu tại nhiều hội nghị
quốc tế về y tế, chăm sóc sức khỏe, các diễn đàn về lương thực, thực phẩm
xanh, an toàn. Ở nước ta hiện nay, chất lượng vệ sinh ATTP là một hiện
tượng đáng báo động, điều này đã được các phương tiện thông tin đại chúng
liên tục phản ánh với nhiều kênh thông tin và nội dung phức tạp, những mối
nguy hại từ thực phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đời sống của người
dân. Việc sử dụng các sản phẩm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tăng
trọng, kháng sinh, hóa chất không an toàn, không đúng quy định trong các
lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, thủy hải sản trên cả nước chưa được quản lý
chặt chẽ, một số nơi còn buông lỏng quản lý nhà nước trên lĩnh vực an toàn

3


thực phẩm; các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc, có chứa các hóa chất,
phụ gia, chất bảo quản, phẩm màu công nghiệp có hại cho sức khỏe vẫn còn
lưu hành rất nhiều trên thị trường… đang là vấn nạn thật sự nhức nhối, nguy

hại trực tiếp đến sức khỏe của mỗi người dân. Cùng với tình trạng vi phạm
các quy định về an toàn thực phẩm đang tăng cao thì các bệnh lây truyền qua
thực phẩm và ngộ độc thực phẩm đang có nhiều diễn biến phức tạp về cả tính
chất, mức độ và phạm vi ảnh huởng. Theo báo cáo kết quả công tác đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm của Ban Chỉ đạo liên ngành vệ sinh an toàn thực
phẩm Trung ương, riêng năm 2017, các ngành chức năng tiến hành kiểm tra
625.060 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, qua đó phát hiện 123.914 cơ
sở vi phạm, chiếm tỷ lệ 19,8%, xử lý hành chính 35.759 cơ sở với số tiền trên
61 tỷ đồng. Cả nước ghi nhận 139 vụ ngộ độc thực phẩm với 3.869 người
mắc; số người tử vong do ngộ độc thực phẩm là 24 người.
Trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng hiện nay có hơn 5.000
cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm và dịch vụ ăn uống phục vụ
cho dân cư của quận, thành phố và khách du lịch. Vì vậy, vấn đề ATTP là mối
quan tâm hàng đầu, luôn được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo thực
hiện thường xuyên, liên tục, trong đó nhấn mạnh vai trò của mỗi tổ chức, cá
nhân liên quan là hết sức quan trọng. Để góp phần làm giảm nguy cơ mất vệ
sinh ATTP thì mỗi tổ chức, mỗi gia đình, mỗi cá nhân trên địa bàn quận cần
tích cực tham gia thực hiện chính sách đảm bảo ATTP, chấp hành các quy
định của pháp luật về đảm bảo ATTP nhằm góp phần bảo vệ sức khoẻ cho
bản thân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Một trong những yếu tố tác
động trực tiếp đến kết quả đảm bảo ATTP đó là công tác quản lý nhà nước
của quận trên lĩnh vực ATTP và nâng cao ý thức của người dân trong tham
gia công tác đảm bảo ATTP, đây là những nhiệm vụ hết sức cấp bách và cần
thiết trong giai đoạn hiện nay.

4


Nhằm đánh giá đúng tình hình thực hiện chính sách đảm bảo ATTP
trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, để từ đó đưa ra giải pháp

đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn quận, tôi nhận thấy việc nghiên cứu
đề tài “Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng” thực sự có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Bởi
lẽ, việc nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách
đảm bảo ATTP, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trọng tâm
của quận, đặc biệt là công tác an sinh xã hội hướng đến mục tiêu cuối cùng là
bảo vệ và nâng cao chất lượng đời sống của người dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ATTP là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, địa phương
bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Cho đến nay đã có
nhiều đề tài, nội dung nghiên cứu liên quan đến thực phẩm và vấn đề ATTP
được công bố, có thể kể đến một số công trình cụ thể như:
- Tiến sĩ Trần Thị Phúc Nguyệt - Đại học Y Hà Nội với công trình
nghiên cứu "Điều tra ngộ độc thực phẩm".
- PGS.TS. Đỗ Thị Hà - Giảng viên chính Viện Đào tạo Y học Dự phòng
và Y tế công cộng, Cục An toàn thực phẩm với công trình "Điều tra vệ sinh
an toàn thực phẩm".
- Tác giả Lê Thị Linh với Luận văn Thạc sĩ Luật học "Thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực ATTP trên địa bàn Hà Nội", năm 2016.
- Tác giả Nguyễn Văn Tân với Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và các
giải pháp quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Long Biên”, Hà Nội
năm 2015.
- Nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Minh Huân và cộng sự với Đề tài

5


"An toàn thực phẩm ở Thành phố Hồ Chí Minh", năm 2012.
- Tác giả Đặng Công Hiển với Luận văn Thạc sĩ "Pháp luật về kiểm soát
an toàn vệ sinh thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam", năm 2010.

- Tác giả Hoàng Trí Ngọc với Luận văn Thạc sĩ “Tội vi phạm quy định
về vệ sinh an toàn thực phẩm trong Luật Hình sự Việt Nam, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, năm 2009.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu, công trình khoa học nào
liên quan đến việc thực hiện chính sách ATTP từ thực tiễn các quận huyện tại
thành phố Đà Nẵng từ góc độ chuyên ngành chính sách công, vì thế, đây cũng
là lý do để tôi lựa chọn đề tài Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực
phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng làm vấn đề nghiên
cứu cho bản luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện chính sách an toàn thực
phẩm; phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo an toàn
thực phẩm trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảm bảo an
toàn thực phẩm ở quận Hải Châu trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận, lý thuyết về an toàn thực phẩm và thực hiện
chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm ở Việt Nam, qua đó thống nhất về mặt
lý thuyết phục vụ công tác nghiên cứu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo ATTP
trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

6


- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách đảm bảo ATTP của nước
ta hiện nay từ thực tiễn của quận Hải Châu và nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đảm bảo ATTP của quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách đảm bảo ATTP, trọng tâm là các giải pháp và công cụ thực
hiện chính sách đảm bảo ATTP nhìn từ góc độ khoa học chính sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã
hội và vận dụng triệt để phương pháp luận nghiên cứu chính sách công, đó
là cách tiếp cận quy phạm về quy trình thực hiện chính sách công.
5.2. Các phương pháp cụ thể
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính sách công kết
hợp với các phương pháp như: so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích đánh giá
chính sách để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ đặt ra.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
- Góp phần làm rõ hơn, minh chứng cũng như hoàn thiện các lý thuyết
liên quan đến chính sách công nói chung và lý luận về chính sách đảm bảo
ATTP nói riêng.

7


- Góp phần cung cấp những căn cứ cho lý luận từ thực tiễn vận dụng
các lý thuyết chính sách công trong thực hiện chính sách đảm bảo ATTP
nói chung và trường hợp quận Hải Châu nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho các cơ quan,
ban ngành hữu quan của quận Hải Châu trong quá trình thực thi chính sách
đảm bảo ATTP trên địa bàn quận nhằm thực hiện một cách hiệu quả công tác
này trong thời gian tới, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững
của quận.
- Luận văn có thể được sử dung làm tài liệu tham khảo cho những tổ
chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề đảm bảo ATTP và thực hiện chính sách
đảm bảo an toàn thực phẩm hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đảm bảo an
toàn thực phẩm.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực
phẩm trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp thực hiện hiệu quả chính
sách đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Hải Châu giai đoạn 20182020.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Thực phẩm
Thực phẩm hay còn được gọi là thức ăn là bất kỳ vật phẩm nào, bao
gồm chủ yếu các chất: đường bột (cacbohydrat), chất béo (lipid), chất đạm
(protein), hoặc nước, mà con người hay động vật có thể ăn hay uống được,

với mục đích cơ bản là thu nạp các chất dinh dưỡng nhằm nuôi dưỡng cơ thể
hay vì sở thích ăn uống [1].
Theo Điều 2, Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 được Quốc
hội (khóa XII) thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 định nghĩa: “Thực phẩm
là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế
biến, bảo quản”, thực phẩm bao gồm các loại:
- Thực phẩm tươi sống là thực phẩm chưa qua chế biến bao gồm thịt,
trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi và các thực phẩm khác chưa qua
chế biến.
- Thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là thực phẩm được bổ sung
vitamin, chất khoáng, chất vi lượng nhằm phòng ngừa, khắc phục sự thiếu hụt
các chất đó đối với sức khỏe cộng đồng hay nhóm đối tượng cụ thể trong
cộng đồng.
- Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ
thể con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm
bớt nguy cơ mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức
khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học.

9


Luật cũng định nghĩa một số loại thực phẩm đặc biệt và cụ thể trong
một số trường hợp như sau:
- Thực phẩm biến đổi gen là thực phẩm có một hoặc nhiều thành phần
nguyên liệu có gen bị biến đổi bằng công nghệ gen.
- Thực phẩm đã qua chiếu xạ là thực phẩm đã được chiếu xạ bằng
nguồn phóng xạ để xử lý, ngăn ngừa sự biến chất của thực phẩm.
- Thức ăn đường phố là thực phẩm được chế biến dùng để ăn, uống
ngay, trong thực tế được thực hiện thông qua hình thức bán rong, bày bán trên
đường phố, nơi công cộng hoặc những nơi tương tự.

- Thực phẩm bao gói sẵn là thực phẩm được bao gói và ghi nhãn hoàn
chỉnh, sẵn sàng để bán trực tiếp cho mục đích chế biến tiếp hoặc sử dụng để
ăn ngay.
Bên cạnh việc xác định rõ thế nào là thực phẩm thì khái niệm liên quan
đến ATTP cũng được đưa ra.
1.1.2. An toàn thực phẩm
ATTP hiểu theo nghĩa hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử
lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp mang
tính phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. ATTP cũng bao
gồm một số thói quen, thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để
tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng,
ATTP là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh
đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. [2]
Ở Việt Nam, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 hiện nay quy định:
“ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng
con người”.

10


1.1.3. Chính sách của Nhà nước về ATTP
Chính sách của Nhà nước về ATTP là chính sách công bao gồm tập
hợp các quyết định quản lý của Nhà nước về bảo đảm ATTP nhằm đưa ra các
mục tiêu, giải pháp và công cụ thực hiện chính sách để giải quyết các vấn đề
về ATTP, đảm bảo chất lượng của thực phẩm theo đúng quy chuẩn quy định
với mục đích cuối cùng là thực phẩm không gây hại đến sự an toàn cho người
tiêu dùng.
Chính sách của Nhà nước về ATTP được cụ thể hóa tại Luật An toàn
thực phẩm năm 2010, trong đó, Điều 4 của Luật xác định rõ chính sách của
Nhà nước về ATTP bao gồm các nội dung sau:

- Xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về bảo đảm ATTP, quy
hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm được
xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên.
- Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu
khoa học, ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với ATTP;
xây dựng mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực,
quốc tế; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có; hỗ trợ đầu
tư xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu thực phẩm an toàn, chợ đầu mối
nông sản thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp.
- Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất thực phẩm chất lượng cao, bảo đảm
an toàn; bổ sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây dựng
thương hiệu và phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn.
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp
dụng hệ thống Thực hành sản xuất tốt (GMP), Thực hành nông nghiệp tốt
(GAP), Thực hành vệ sinh tốt (GHP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm

11


tới hạn (HACCP) và các hệ thống quản lý ATTP tiên tiến khác trong quá trình
sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ký kết điều ước, thoả thuận quốc
tế về công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực thực phẩm.
- Khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực
phẩm an toàn.
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong
nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào các hoạt động xây
dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm ATTP.
- Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo

dục nâng cao nhận thức người dân về tiêu dùng thực phẩm an toàn, ý thức
trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
thực phẩm đối với cộng đồng.
1.2. Quy trình thực hiện chính sách đảm bảo ATTP
Thực hiện chính sách ATTP là một trong những giai đoạn quan trọng
trong chu trình chính sách ATTP. Đây là giai đoạn vận dụng những giải pháp
định trước để đạt được các mục tiêu chính sách ATTP đã đề ra; chính trong
giai đoạn này, chính sách được biến thành kết quả trên thực tế. Giai đoạn thực
hiện chính sách ATTP tập hợp các hoạt động triển khai, phối hợp thực hiện,
kiểm tra đôn đốc và theo dõi, đánh giá hiệu quả của các biện pháp tổ chức
thực hiện chính sách ATTP nhằm phát huy tác dụng của mục tiêu chính sách
ATTP trong đời sống.
Thực hiện chính sách đảm bảo ATTP bao gồm các bước sau: [19]
1.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách ATTP
Để chính sách đảm bảo ATTP được thực hiện hiệu quả thì việc xây

12


dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách là bước đầu tiên trong quá trình
tổ chức thực hiện chính sách. Đây là một quá trình phức tạp, cần một thời
gian dài để thực hiện, vì thế việc lập kế hoạch cụ thể, chi tiết trước khi áp
dụng chính sách vào thực tiễn sẽ giúp các cơ quan nhà nước triển khai thực
hiện chính sách một cách chủ động theo lộ trình, mục tiêu cụ thể. Các cơ quan
nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương
trình thực hiện với các nội dung sau:
Một là, lập kế hoạch tổ chức điều hành: Căn cứ vào các văn bản quy
định của Nhà nước về việc phân công, phân cấp thẩm quyền quản lý về ATTP
thì các Bộ, ngành có liên quan như: Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông
nghiệp phát triển và Nông thôn… xây dựng kế hoạch quản lý, thực hiện các

công tác liên quan đến ATTP thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách và chỉ
đạo thực hiện xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Theo đó, căn cứ
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và tình hình thực tế thì từng địa
phương sẽ xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện công tác đảm bảo ATTP trên
địa bàn.
Hai là, lập kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực: các đơn vị căn cứ kế
hoạch tổ chức điều hành và các nội dung công việc cần thực hiện để xây dựng
kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực dự kiến đảm bảo việc thực hiện kế
hoạch gồm các nội dung về: cơ sở vật chất, trang thiết bị kĩ thuật, nguồn lực
tài chính, và quan trọng nhất là nguồn nhân lực… Việc dự kiến đúng và đầy
đủ các nguồn lực tham gia quá trình thực hiện chính sách sẽ giúp chính sách
đạt được hiệu quả và kết quả cao hơn.
Ba là, đề xuất thời gian triển khai thực hiện: Khi xây dựng chính sách
thì cần xác định thời gian thực hiện chính sách cụ thể để đạt được mục tiêu
chính sách đảm bảo ATTP đề ra trong kế hoạch tổ chức điều hành. Và khi dự

13


kiến thời gian thực hiện chính sách thì việc thực hiện chính sách được chia
thành nhiều giai đoạn thực hiện, mỗi giai đoạn sẽ dựa trên tình hình thực tế tại
từng thời điểm để xây dựng kế hoạch cho phù hợp với một chương trình cụ
thể của chính sách đảm bảo ATTP, thời gian dự kiến hoàn thành của từng giai
đoạn để đạt được mục tiêu nhất định đều được xác định rõ ràng, cụ thể từ việc
thực hiện tuyên truyền chính sách đến tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm
chính sách ATTP.
Bốn là, lập kế hoạch kiểm tra việc thực hiện chính sách: sau khi dự kiến
thời gian triển khai thực hiện thì cần xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực
hiện chính sách ATTP, đảm bảo chính sách được thực hiện đúng tiến độ theo
kế hoạch đề ra. Việc xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực hiện chính sách

ngoài mục đích đặt ra là kiểm tra về tiến độ thì còn xác định hình thức,
phương pháp kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ thực
hiện chính sách nhằm kịp thời phát hiện những tồn tại hạn chế, khó khăn
vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách, từ đó điều chỉnh phương
pháp thực hiện chính sách đảm bảo hoàn thành mục tiêu chính sách đề ra;
đồng thời phục vụ việc theo dõi, đánh giá, tổng kết việc triển khai thực hiện
chính sách.
Năm là, dự kiến nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách đảm bảo
ATTP bao gồm các nội quy, quy chế về: tổ chức, điều hành; trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước có liên
quan tham gia thực hiện chính sách; các biện pháp về thi đua, khen thưởng,
kỷ luật…
Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách ATTP đóng vai trò quan
trọng trong việc định hướng và xác định những nội dung cần thiết cho quá
trình thực hiện chính sách ATTP. Sau khi áp dụng vào thực tiễn cuộc sống,

14


những nội dung phù hợp cần tăng cường áp dụng triển khai, những điểm
không phù hợp trong chính sách cần phải được điều chỉnh hoặc loại bỏ khỏi
mục tiêu chính sách. Và chính cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch sẽ thực
hiện điều chỉnh kế hoạch thực hiện để chính sách ngày càng hoàn thiện và
phù hợp với thực tiễn hơn.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Chính sách đảm bảo ATTP là một chính sách quan trọng và hết sức cần
thiết trong bối cảnh tình hình ATTP hiện nay. Đối tượng chính mà chính sách
ATTP hướng đến là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến thực
phẩm, dịch vụ ăn uống và toàn thể nhân dân - những người tiêu dùng thực
phẩm. Một khi kế hoạch triển khai thực hiện chính sách được ban hành thì

việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền nội dung chính
sách đến các đối tượng mà chính sách ATTP tác động, từ đó vận động các đối
tượng cùng tham gia thực hiện tốt các nội dung chính sách đề ra. Đây là một
bước hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn, tác động trực tiếp đến kết quả thực
hiện chính sách đảm bảo ATTP.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách đảm bảo ATTP nhằm hai
mục đích cơ bản:
Một là, giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia
thực hiện hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của
chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhiều vấn nạn về ATTP đang xảy ra
hiện nay; về tính hiệu quả, tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực hiện
theo yêu cầu quản lý của nhà nước.
Hai là, giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực
hiện chính sách nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô, ý nghĩa,
vai trò của chính sách ATTP đối với đời sống xã hội để chủ động triển khai

15


thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách ATTP theo
nhiệm vụ, chức trách được giao và tích cực tìm kiếm và đề xuất các giải pháp
thích hợp để thực hiện tốt mục tiêu chính sách.
Việc tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách đảm bảo ATTP cần
được thực hiện thường xuyên, liên tục, xuyên suốt trong cả quá trình thi hành
chính sách, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền luôn củng cố lòng tin vào
chính sách và tích cực tham gia thực hiện chính sách. Phụ thuộc vào từng giai
đoạn khác nhau của kế hoạch thực hiện chính sách thì tần suất và hình thức
tuyên truyền sẽ được lựa chọn và điều chỉnh sao cho phù hợp nhất.
Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách được thực hiện bằng nhiều hình
thức như:

- Trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận: đối với việc
tuyên truyền chính sách đảm bảo ATTP thì có thể áp dụng hình thức tuyên
truyền tại các chợ truyền thống, qua đó có thể trao đổi trực tiếp với các tiểu
thương kinh doanh thực phẩm, hướng dẫn, phổ biến những điều nên làm và
không nên làm trong việc kinh doanh mặt hàng thực phẩm. Ngoài ra, có thể
tuyên truyền, phổ biến thông qua các cuộc họp cử tri, các buổi họp tại tổ dân
phố; thông qua hình thức này có thể tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chính
sách đến người dân - người tiêu dùng thực phẩm. Bên cạnh đó, có thể tổ chức
các buổi hội nghị với thành phần tham dự là các đơn vị chuyên sản xuất, kinh
doanh, chế biến thực phẩm trên địa bàn, tại hội nghị có thể phổ biến những
quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm và
cũng như phổ biến đến các chủ thể này ý thức việc tham gia thực hiện chính
sách đảm bảo ATTP; đồng thời, tổ chức việc ký cam kết thực hiện các quy
định về đảm bảo ATTP trên địa bàn quản lý.
- Phát tờ rơi, treo banner, áp phích tại các khu vực công cộng, dễ quan

16


sát với các nội dung cơ bản về thực hiện chính sách ATTP, dễ hiểu, dễ nhớ,
dễ thực hiện để đảm bảo các đối tượng tiếp cận nhanh chóng nắm bắt được
những nội dung cần truyền đạt, từ đó hình thành ý thức tham gia thực hiện các
nội dung chính sách ATTP.
- Tuyên truyền, phố biến gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại
chúng như truyền hình, loa phát thanh…
- Ngoài những hình thức tuyên truyền, phổ biến theo hình thức truyền
thống như trên, với sự bùng nổ công nghệ thông tin trong thời đại hiện nay thì
việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách qua mạng internet có rất nhiều
mặt thuận lợi: hình thức tuyên truyền phong phú hơn, tốc độ truyền đạt thông
tin nhanh chóng hơn, sự lan tỏa thông tin được phổ biến sâu rộng hơn dẫn đến

hiệu quả tuyên truyền chính sách ATTP được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt thuận lợi thì việc bùng nổ công nghệ thông tin cũng mang lại
nhiều sự khó khăn, trở ngại trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách.
Việc có quá nhiều thông tin đa chiều sẽ gây hiện tượng nhiễu thông tin, khiến
cho những thông tin chính thống về chính sách ATTP cần truyền đạt đến các
đối tượng ít được chú ý hơn, độ chính xác và tin cậy của thông tin không đảm
bảo…; cùng với đó, việc bị thu hút quá nhiều bởi các thông tin trên mạng
internet sẽ làm hạn chế hiệu quả các hình thức tuyên truyền truyền thống. Đặc
biệt nghiêm trọng đó là sự tác động, chống phá của các thế lực thù địch, phản
động trong và ngoài nước sử dụng công nghệ thông tin để chống phá, công
kích chính sách, làm cho chính sách bị biến dạng, làm cho lòng tin của người
dân về tính đúng đắn, tính hiệu quả và tính khả thi của chính sách bị giảm sút,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả thực hiện chính sách ATTP. Do đó,
trong giai đoạn tuyên truyền, phổ biến chính sách cần chú trọng tăng cường
đầu tư về hình thức và nội dung tuyên truyền, phổ biến chính sách, duy trì
thường xuyên việc tuyên truyền, phổ biến chính sách trong suốt quá trình thực

17


hiện chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Bước tiếp theo trong quá trình thực hiện chính sách đó là khâu tổ chức
thực hiện chính sách. Đây là khâu quan trọng nhất, có tác động trực tiếp và
quyết định đến sự thành công của chính sách. Để tổ chức thực hiện chính sách
đạt hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cấp chính
quyền, các cơ quan quản lý liên quan đến lĩnh vực ATTP, các đối tượng tham
gia thực hiện chính sách và tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện mục
tiêu chính sách.
Việc thực hiện chính sách ATTP được triển khai trên phạm vi rộng lớn,

do đó đảm bảo tính khả thi của chính sách thì cần số lượng lớn cá nhân và tổ
chức tham gia thực hiện chính sách như:
- Các đối tượng tác động của chính sách: gồm các tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm, chủ cơ sở dịch vụ ăn uống.
- Nhân dân: những người trực tiếp tiêu dùng thực phẩm.
- Bộ máy tổ chức thực hiện của nhà nước: cơ quan chỉ đạo và các cơ
quan quản lý nhà nước liên quan đến ATTP.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, là cơ quan đóng
vai trò tổ chức, chỉ đạo, quy định chức năng và phân công nhiệm vụ cho các
Bộ, ngành liên quan trong việc tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.
Vấn đề ATTP hiện đang là vấn đề “nhức nhối”, một vấn đề “nóng” của xã
hội, do đó việc quản lý ATTP cần sự phối hợp của nhiều Bộ, Ban, Ngành
như: Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Ban chỉ đạo liên ngành VSATTP Trung ương… trong đó, Bộ Y tế thường
được phân công làm cơ quan chủ trì, các Bộ, Ngành còn lại thực hiện phối

18


hợp quản lý ATTP trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được phân công. Ngoài ra,
xuất phát từ thực trạng thực phẩm bẩn, kém chất lượng đang diễn ra trên
phạm vi cả nước, các địa phương có sự phối hợp, hợp tác trong việc thực hiện
chính sách ATTP nhằm nghiên cứu, trao đổi và lựa chọn phương pháp, công
cụ chính sách và vận dụng phù hợp với tình hình thực tiễn về ATTP hiện nay.
1.2.4. Theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách
Việc tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP diễn ra trong một
thời gian dài nhất định với nhiều giai đoạn khác nhau, là một quá trình có tính
chất thường xuyên, liên tục, xuyên suốt trong đời sống xã hội. Để đảm bảo
việc thực hiện chính sách ATTP theo đúng các phương hướng, nhiệm vụ của
chính sách đã đề ra ngay từ khi ban hành và lập kế hoạch thực hiện thì cần có

sự theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách. Đây là công tác
được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm theo dõi, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện chính sách của các chủ thể thực thi, cụ thể như:
cán bộ, công chức - những người trực tiếp thực hiện chính sách; các tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm,…; từ đó, nêu cao tinh
thần, ý thức trách nhiệm của các đối tượng tham gia thực hiện đảm bảo theo
đúng định hướng mục tiêu chính sách đã đề ra.
Thông qua hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát, đơn vị chỉ đạo việc
triển khai chính sách có thể kịp thời phát hiện những vấn đề còn thiếu sót
trong quá trình thực hiện chính sách để kịp thời bổ sung, điều chỉnh; phát hiện
ra những động thái tiêu cực, các sai phạm của các chủ thể thực hiện chính
sách như sự chểnh mảng, không sát sao của các cơ quan nhà nước, cụ thể là
các cán bộ, công chức trực tiếp được phân công nhiệm vụ; việc không tuân
theo các quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, chế
biến thực phẩm của các tổ chức, cá nhân… Trên cơ sở đó, đơn vị chỉ đạo sẽ

19


kịp thời xử lý, giải quyết những tồn đọng, đôn đốc các chủ thể nỗ lực nhiều
hơn để hoàn thành nhiệm vụ như trong chính sách đã đề ra; phòng, chống các
hành vi vi phạm các quy định trong thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.
Đồng thời, việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách còn giúp
phát hiện ra những ưu điểm, những mặt tích cực trong chính sách để tiếp tục
phổ biến, nhân rộng; phát hiện những chủ thể đang thực hiện tốt nhiệm vụ để
kịp thời khen thưởng, khuyến khích, tiếp tục tăng cường phát huy để hoàn
thành tốt mục tiêu của chính sách.
Mục đích cuối cùng của hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chính sách đảm bảo ATTP là giúp kịp thời bổ sung, hoàn thiện
chính sách để đảm bảo chính sách bám sát thực tiễn, giải quyết được các vấn

đề chính sách đặt ra một cách triệt để. Qua hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám
sát, đơn vị chỉ đạo có các biện pháp để chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện mục tiêu chính sách.
1.2.5. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
Đây là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành
chính sách của các đối tượng thực hiện chính sách. Như đã xác định từ những
bước đầu xây dựng kế hoạch, việc tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo
ATTP được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách, đồng thời
được tổ chức thành nhiều gian đoạn khác nhau với thời gian được xác định cụ
thể. Trong quá trình đó, các chủ thể xây dựng, ban hành chính sách có thể
đánh giá từng giai đoạn của chính sách, hoặc đánh giá toàn bộ kết quả thực
hiện khi kết thúc chính sách.
Đối tượng được xem xét đánh giá, tổng kết về công tác chỉ đạo, điều
hành việc thực hiện chính sách đảm bảo ATTP là các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến các địa phương được phân công phụ trách lĩnh vực ATTP.

20


Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí như tiến độ thực hiện kế hoạch được giao,
thời gian triển khai của từng giai đoạn và của toàn bộ quá trình tổ chức thực
hiện chính sách, có đạt được mục tiêu chính sách đã đề ra; mức độ phổ biến
của chính sách đến các chủ thể thực hiện chính sách và các chủ thể khác có
liên quan; đánh giá việc triển khai ý kiến chỉ đạo, cũng như ý thức chấp hành
nội quy, quy chế, quy định về thực hiện chính sách của các chủ thể thực hiện
chính sách.
Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ
quan nhà nước, còn xem xét, đánh giá việc thực hiện của các đối tượng tham
gia thực hiện chính sách đảm bảo ATTP bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi
ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách như: các cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm, người tiêu dùng thực phẩm… Để đánh giá kết quả thực hiện của
các đối tượng này cần xét đến các yếu tố là tinh thần hưởng ứng các mục tiêu
của chính sách đề ra và ý thức chấp hành những quy định về ATTP do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách
trong từng điều kiện về không gian và thời gian nhất định.
Nói tóm lại, việc đánh giá, tổng kết chính sách cần phải đáp ứng yêu
cầu vừa là thước đo cụ thể của vấn đề chính sách được đề cập, vừa phản ánh
được lợi ích của đa số thành viên xã hội và được họ chấp nhận. Các tiêu chí
đánh giá phương án chính sách phải đáp ứng được một số yêu cầu về: mức độ
thỏa đáng; độ tin cậy; có thể hiểu được, rõ ràng, tránh phát sinh hiểu lầm; kịp
thời; phù hợp với mục đích; mức độ ảnh hưởng của chính sách; độ bao quát…
1.3. Điều kiện để thực hiện chính sách ATTP
- Chính sách phải khoa học, hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương.
- Bộ máy quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo năng lực về

21


quản lý, điều hành thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.
- Sự quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo trong chỉ đạo, tổ chức thực
hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ATTP.
- Sự phối hợp chặt chẽ, kiên quyết của các cơ quan, đơn vị chức năng
tỏng tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.
- Sự đồng tình ủng hộ và tích tham gia thực hiện chính sách của các
tầng lớp nhân dân.
1.4. Nguyên tắc quản lý ATTP
Tại Điều 3 của Luật an toàn thực phẩm năm 2010 quy định rõ việc quản
lý ATTP cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm ATTP là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất,

kinh doanh thực phẩm.
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện; tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm về an toàn đối với
thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh.
- Quản lý ATTP phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, quy
định do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do
tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng.
- Quản lý ATTP phải được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, kinh
doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với ATTP.
- Quản lý ATTP phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp
liên ngành.
- Quản lý ATTP phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.5. Tiêu chí đánh giá việc thực hiện chính sách ATTP

22


- Nhóm tiêu chí thứ nhất: Công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý về
ATTP.
- Nhóm tiêu chí thứ hai: Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông
- Nhóm tiêu chí thứ ba: Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
pháp luật về ATTP.
- Nhóm tiêu chí thứ tư: Bảo đảm an toàn thực phẩm tại các chợ, cửa
hàng hàng kinh doanh thực phẩm, các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.
- Nhóm tiêu chí thứ năm: Công tác tổng kết, đánh giá, điều chỉnh
phương pháp thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.
1.6. Những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách
đảm bảo ATTP
1.6.1. Các quy định của pháp luật về thực hiện đảm bảo ATTP
Xác định tầm quan trọng của chính sách đảm bảo ATTP đối với đời

sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, sự phát triển giống
nòi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng đã ban hành nhiều Chỉ
thị, Kết luận chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ ATTP trong từng giai đoạn cụ thể.
Nổi bật là Chỉ thị 08-CT/TW ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Ban Bí thư
(khóa XI) và Kết luận số 11-KL/TW ngày 19 tháng 01 năm 2017 của Ban Bí
thư (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW.
Trên cơ sở đó, ngày 04 tháng 01 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 20/QĐ-TTg về việc Phê duyệt "Chiến lược quốc gia
ATTP giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030", trong đó nêu rõ quan điểm chỉ
đạo về công tác đảm bảo ATTP:
- Bảo đảm ATTP chính là bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng và sức
khỏe nhân dân, là một nhiệm vụ thường xuyên cần tập trung chỉ đạo của các

23


cấp ủy đảng, chính quyền, là trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm và của mỗi người dân.
- Tổ chức thực hiện đồng bộ các quy định pháp luật về ATTP, chú
trọng công tác thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp tiên
tiến trong quản lý ATTP.
- Tăng cường công tác thông tin, truyền thông nhằm tạo sự chuyển biến
sâu sắc trong nhận thức của người sản xuất, người tiêu dùng và toàn xã hội về
giữ gìn vệ sinh, bảo đảm ATTP.
- Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ATTP:
+ Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII
thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010.
+ Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09 tháng 5 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP.
+ Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 chủa

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP.
+ Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP (trước đây là Nghị
định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012).
+ Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 09
tháng 4 năm 2014 của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Công Thương hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về
an toàn thực phẩm.
+ Thông tư số 15/2012/TT-BYT ngày 12 tháng 9 năm 2012 của Bộ
trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện chung bảo đảm ATTP đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh thực phẩm.

24


+ Thông tư số 16/2012/TT-BYT ngày 22 tháng 10 năm 2012 của Bộ
trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh
doanh thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc
phạm vi quản lý của Bộ Y tế.
+ Thông tư số 17/2016/TT-BYT ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Bộ Y
tế quy định việc thu hồi và xử lý thực phẩm không đảm bảo an toàn thuộc
thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế.
+ Thông tư số 30/2012/TT-BYT ngày 05 tháng 12 năm 2012 của Bộ
trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện ATTP đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ
ăn uống, kinh doanh thức ăn đường phố.
+ Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 11856:2017 về Chợ kinh doanh thực phẩm.
+ Công văn số 2129/BCT-KHCN ngày 21 tháng 3 năm 2018 về triển
khai thực hiện Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP và Công văn số
3109/BCT-KHCN ngày 20 tháng 4 năm 2018 về việc hướng dẫn thực hiện

công tác quản lý ATTP của Bộ Công Thương.
+ Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 04 tháng 10 năm 2016 của BTV Thành ủy
Đà Nẵng về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công
tác ATTP trong tình hình mới.
1.6.2. Môi trường kinh tế
Với điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay là một nước thu nhập
trung bình thấp thì khả năng phát triển và xây dựng các nông trại, cơ sở nông
nghiệp trồng trọt, chăn nuôi đạt các tiêu chuẩn quốc gia về ATTP còn rất hạn
chế do thiếu về nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học, kỹ thuật canh tác,
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ ngành nông nghiệp… vì vậy giá thành
của các loại thực phẩm đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế về ATTP rất cao so

25


×