Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.21 KB, 65 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ PHÚ MƯỜI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ PHÚ MƯỜI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. BÙI NHẬT QUANG

HÀ NỘI, năm 2018



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ ta luôn quan tâm đến phát triển
du lịch, đã có những chính sách đột phá để tạo động lực cho các địa phương
phát triển về du lịch. Từ đó, chất lượng du lịch ở mỗi địa phương nói riêng và
du lịch Việt Nam nói chung phát triển mạnh mẽ, hình ảnh du lịch ngày càng
được nâng cao. Nhiều điểm du lịch được đầu tư nâng cấp, mở rộng trở thành
điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và Quốc tế. Ngành Du lịch đang
được Chính phủ và Lãnh đạo thành phố quan tâm.
Từ năm 1997 tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia tách ra làm hai đơn vị
hành chính, đó là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung
ương. Đến nay, Đảng bộ và chính quyền thành phố Đà Nẵng luôn quan tâm đến
phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch biển. Bên cạnh những khó khăn thách thức,
thì ngành du lịch cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển, đó là Việt
Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO),
Thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc… Ban chỉ đạo du lịch từ Trung
ương đến địa phương được củng cố và chương trình kích cầu du lịch được
Chính phủ tiếp tục đầu tư.
Có thể thấy, ngành du lịch thành phố Đà Nẵng nói chung và du lịch biển
nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu nổ bật, đã góp phần đáng kể vào sự phát
triển chung của thành phố. Đảng bộ và chính quyền thành phố xác định du lịch
biển là một ngành có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch cũng
như kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng, phù hợp với vị trí địa lý, thiên
nhiên ưu đãi và xu thế phát triển của đất nước.

Do vậy, phát triển du lịch, trong đó phát triển du lịch biển đã được thành
phố Đà Nẵng đặc biệt quan tâm và để thực hiện các mục tiêu phát triển, hàng

1


loạt chương trình, chính sách đã được ban hành.
Thành phố Đà Nẵng được biết đến là một thành phố xanh, sạch, đẹp, văn
minh và thân thiện. Thành phố Đà Nẵng được mệnh danh là thành phố đáng
sống; thêm vào đó là một thành phố trẻ, năng động, sáng tạo, tạo dựng được
nhiều lợi thế về vị trí địa lý, thiên nhiên so sánh đối với các tỉnh Duyên hải miền
Trung. Với những đặc điểm vốn có, Đà Nẵng có nhiều điều kiện thuận lợi cho
phát triển du lịch, đặt biệt những thế mạnh hấp dẫn về du lịch biển với nhiều
danh lam thắng cảnh du lịch nổi tiếng, bờ biển với tổng chiều dài khoản 60km
kéo dài từ chân đèo Hải Vân cho đến Non Nước. Biển Đà Nẵng không chỉ
chinh phục được du khách trong và quốc tế với nhiều cảnh quan thiên nhiên
tuyệt đẹp mà còn là một trong những bãi biển thuộc diện sạch và an toàn thu hút
được một lượng khách du lịch hằng năm kéo đến đây.
Cùng với những lợi thế đó, trong nhiều năm qua trên cơ sở thực hiện 03
đột phá về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI Đảng
bộ thành phố Đà Nẵng cùng với Nghị quyết 03 của Thành ủy về đẩy mạnh phát
triển du lịch trong tình hình mới và chương trình hành động của UBND thành
phố thực hiện Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị, và gần đây là Nghị quyết
92/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt
Nam trong thời kỳ mới; Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị về phát triển
ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; ngành du lịch của thành phố
Đà Nẵng đang từng bước khẳng định vị thế của mình trên bản đồ du lịch chung
của Việt Nam, trong khu vực và quốc tế. Sự phát triển toàn diện của ngành du
lịch đã giúp kinh tế xã hội của thành phố Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ trong
thời gian qua, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, Đà

Nẵng tự hào khi trở thành thành phố biển nổi tiếng về du lịch. Tuy nhiên, đi đôi
với sự phát triển vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức cần khắc phục, cụ thể:
Chưa có được những sản phẩm du lịch chủ lực đặc thù; chất lượng sản

2


phẩm du lịch chưa cao, khả năng cạnh tranh hạn chế; nhiều khu du lịch, điểm
du lịch phát triển tự phát, chưa được đầu tư đúng tầm gây ảnh hưởng, ô nhiễm
môi trường tự nhiên; thiếu các khu vui chơi giải trí có quy mô lớn và sức hấp
dẫn đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của du khách; nhiều chương
trình du lịch còn đơn điệu, trùng lặp, đội ngũ nhân lực còn thiếu; sức hấp dẫn
của du lịch Đà Nẵng trên thị trường du lịch quốc tế còn hạn chế.
Tuy sở hữu một trong sáu bãi biển đẹp nhất thế giới, nhưng hiện nay tiềm
năng du lịch biển Đà Nẵng chưa được khai thác phù hợp để đủ sức thu hút
khách du lịch. Vấn đề làm cản trở sức hấp dẫn của du lịch biển Đà Nẵng đã
được không ̣ ít du khách cho rằng: các dịch vụ vui chơi giải trí ở các khu du lịch
biển dường như quá thiếu và nghèo nàn; đồng thời với chất lượng giá cả các
loại hình kinh doanh dịch vụ tại các khu du lịch biển còn quá nhiều bất cập.
Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm môi trường do sự thiếu ý thức của người dân,
của khách du lịch, của việc xử lý nước thải, rác thải của các dịch vụ phục vụ du
lịch đã và đang trở thành yếu tố cản trở sự phát triển du lịch biển Đà Nẵng. Vào
mùa du lịch biển, các bãi biển Đà Nẵng luôn đông khách, nhưng phần lớn là
người dân thành phố, khách nội địa chiếm vị trí thứ hai. Khách du lịch nước
ngoài có chăng chỉ tập trung ở khu vực bãi biển các khách sạn 5 sao như:
Furama, Premier, Crowne plaza… Những hạn chế nêu trên đã làm cho ngành
du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng của thành phố Đà Nẵng đang đứng
trước thách thức về sự phát triển.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài: "Thực hiện chính sách
phát triển du lịch biển từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" để làm luận văn Thạc

sỹ tốt nghiệp chuyên ngành chính sách công góp phần nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện chính sách nầy là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Phát triển du lịch nói chung hay phát triển du lịch biển nói riêng, ngày nay

3


đang được Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương quan tâm, hiện đã có
nhiều tác giả nghiên cứu và viết bài trên các tạp chí, sách báo về chính sách phát
triển du lịch biển như:
“Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển du lịch thành phố Đà
Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Như Lâm – Hoàng Thanh Hiền (2010)
“Thực trạng sản phẩm du lịch thành phố Đà Nẵng với khả năng liên kết
phát triển du lịch vùng Duyên hải miền Trung” của tác giả Phùng Tấn Viết
(2013)
“Phát triển ngành du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” của tác giả
Hồ Kỳ Minh (2011)
Các đề tài tập trung nghiên cứu vào các nội dung: Đánh giá tiềm năng và
thực trạng phát triển du lịch nói chung hay du lịch biển thành phố Đà Nẵng
trong những năm qua; phân tích về du lịch Đà Nẵng trong bối cảnh cạnh tranh
và hội nhập quốc tế; phân tích và dự báo nguồn khách du lịch đến Đà Nẵng; Đề
xuất các nhóm giải pháp dự báo phát triển du lịch biển trên địa bàn thành phố
Đà Nằng đến năm 2020 về kinh tế, văn hóa - xã hội, cùng các kiến nghị đối với
các cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó có một số đề tài nghiên cứu về phát triển du lịch khác như:
''Xây dựng chiến lược thương hiệu du lịch thành phố Đà Nẵng” của tác giả
Nguyễn Xuân Vinh (2010).
“Phát triển loại hình dịch vụ sinh thái tại khu du lịch bán đảo Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiệp (2012)

Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu đều quan tâm đến vấn đề về lý luận và
thực tiễn về thực trạng phát triển du lịch biển tại thành phố Đà Nẵng. Tuy
nhiên, vấn đề phát triển du lịch biển ở Đà Nẵng mới chỉ được quan tâm đến một
số khía, chủ yếu tập trung quan tâm các nội dung để phát triển du lịch biển nói
riêng và ngành du lịch nói chung trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành

4


phố Đà Nẵng, như tăng cường khả năng cạnh tranh lành mạnh của các doanh
nghiệp du lịch tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, nâng cao chất lượng phục vụ, sản phẩm du lịch, quản lý nhà nước
về du lịch, phát triển mạnh kinh doanh lưu trú trong du lịch... Để phát triển du
lịch biển ở thành phố Đà Nẵng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhưng đảm bảo
về bảo vệ môi trường và nghiên cứu các yếu tố tác động khác có thể tác động
đến phát triển du lịch của thành phố Đà Nẵng; chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, có hệ thống, đề xuất giải pháp và cơ chế chính sách.
Thành phố Đà nẵng có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đặc biệt là du lịch
biển, nhưng việc nghiên cứu các giải pháp để phát triển chưa được đề cập
nhiều. Do đó, đề tài luận văn về Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển qua đó
phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch biển, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm phát triển du lịch biển tại thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án có các nhiệm vụ như sau:
Nhiệm vụ thứ nhất: Làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển du lịch biển
là gì?

Nhiệm vụ thứ hai: Làm rõ việc thực hiện chính sách phát triển du lịch biển
của thành phố Đà Nẵng như thế nào? Từ đó thấy được những thành tựu và hạn
chế chính sách phát triển du lịch biển của thành phố.
Nhiệm vụ thứ ba: Thực hiện những giải pháp để tăng cường việc thực hiện
chính sách phát triển du lịch biển ở thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
5


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách phát triển du lịch
biển từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu lĩnh vực du lịch biển tại thành phố
Đà Nẵng.
Các số liệu được phân tích lấy từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phưong pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu về thực hiện chính sách công một cách khoa học và
áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính sách công từ lý luận đến thực tiễn
và rút ra các bài học kinh nghiệm và giải pháp thực tiễn nhằm tăng cường việc
thực hiện chính sách. Các quy phạm chính sách công về chương trình chính
sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự
tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được áp dụng
vào thực tiễn của chính sách công nhằm giúp hình thành lý luận về chính sách
chuyên ngành chính sách phát triển du lịch.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chính sách công dựa trên phương pháp kết hợp
nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính:
5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin

Phân tích và tổng hợp, thống kê và so sách được sử dụng để thu thập, phân
tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,
bao gồm các văn kiện, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, tài liệu của Đảng, Nhà
nước, Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các
báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban, ngành, đoàn thế, tổ chức, cá
nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề thực hiện chính sách phát triển
du lịch cho các cơ quan nhà nước ở nước ta nói chung và thực tế tại thành phố

6


Đà Nẵng nói riêng. Đồng thời, thu thập thông tin từ các tài liệu của các tổ chức
và học giả trong nước liên quan đến đề tài trong thời gian qua.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là phương pháp được dùng khá phổ biến trong nghiên cứu
xã hội học, đó là phương pháp đối thoại trực tiếp với đối tượng nhằm thu thập
thông tin. Ngoài các thông tin thu thập được qua các số liệu thứ cấp tác giả đã
thực hiện thêm phương pháp phỏng vấn đối với một số đối tượng để làm rõ thêm
thông tin mà các phương pháp thu thập thông tin nêu trên chưa đáp ứng được.
Tham khảo, nghiên cứu và sử dụng các tài liệu trong sách, báo, tạp chí nói
về du lịch và du lịch biển, các trang thông tin điện tử của thành phố Đà Nẵng;
các nghị quyết, chỉ thị và quy hoạch tổng thể về phát triển du lịch biển của
thành phố Đà Nằng; Kết quả phóng vấn, điều tra khách du lịch tại một số điểm
du lịch cũng như du lịch biển.
Ý kiến của các chuyên gia. nhà quản lý, doanh nhân…..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này một phần nào đã cung cấp lý luận về chính sách công cho việc
nghiên cứu các vấn đề chính sách phát triển du lịch biển cho các cơ quan ban
hành chính sách công về phát triển du lịch.

Hệ thống hóa một số lý luận và đánh giá thực tiễn từ thành phố Đà Nằng,
từ đó đề xuất giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển du lịch biển
cho các cơ quan nhà nước nhằm phát huy tối đa hiệu quả chính sách đã ban
hành và đề xuất đổi mới chính sách.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn việc nghiên cứu chính sách phát triển du lịch cũng như du
lịch biển của thành phố Đà Nằng, luận văn đã chỉ ra được những khó khăn và
hạn chế trong việc ban hành và thực hiện chính sách, đồng thời đưa ra những

7


kết quả nghiên cứu giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp,
các sở, ban, ngành có liên quan đến việc ban hành chính sách công, các nhà
hoạch định chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh,
sửa đổi chính sách và tổ chức thực hiện phát triển chính sách du lịch biển một
cách có hiệu quả và thiết thực hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Phần mở đầu, tiểu kết luận, mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cho nghiên cứu về chính sách phát
triển du lịch biển tại Đà Nẵng.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch biển tại
thành phố Đà Nằng.
Chương 3: Phương hướng và Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách phát triển du lịch biển tại thành phố Đà Nẵng.

8



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHO NGHIÊN CỨU
VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN TẠI ĐÀ NẴNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Du lịch biển
Du lịch biển là một ngành kinh doanh các hoạt động như hướng dẫn du
lịch, trao đổi hàng hóa và các dịch vụ của các doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các
nhu cầu thăm quan, nghỉ dưỡng, ăn uống, vui chơi, tìm hiểu và các nhu cầu
khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế thiết thực
cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp (định nghĩa của Khoa quản
trị Kinh doanh Du lịch và Khách sạn, Đại học Kinh tế Quốc dân). Các nhà
nghiên cứu về du lịch đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc
hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên
của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến thăm quan, nghỉ
dưỡng không phải là nơi ở và là nơi làm việc của họ. Ngoài ra, còn có nhiều nhà
nghiên cứu định nghĩa khác: “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm
nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng
dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền địa phương nơi đón khách du
lịch”. Trong đó khách du lịch là khách hàng rời khỏi nơi cư trú thường xuyên đi
đến các nơi khác và quay trở lại nhằm thỏa mãn các mục đích khác nhau, nhà
cung ứng là các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính sự nghiệp cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ cần thiết cho hoạt động du lịch; dân cư sở tại là những người
dân ở tại địa phương diễn ra hoạt động du lịch; chính quyền địa phương là cơ
quan quản lý nhà nước cấp địa phương tại điểm du lịch.
9



Du lịch biển là loại hình du lịch gắn liền với việc sử dụng tài nguyên biển
(tài nguyên biển trong du lịch bao gồm: bãi biển, các loại sinh vật biển như tôm,
cá, san hô,…) gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng
đồng nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, ăn uống, khám phá, thăm quan,… của
khách du lịch.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu thiết yếu của con người để
nghỉ dưỡng sau thời gian làm việc căng thẳng cũng như có nhu cầu thăm quan
tăng thêm sự hiểu biết về phong cảnh, con người xung quanh. Tuy nhiên, hiện
nay quan điểm nhận xét về du lịch của người làm du lịch và các nhà nghiên cứu
về du lịch vẫn còn có sự khác nhau trong lĩnh vực này.
Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ
phục vụ cho nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với
các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Như vậy, chúng ta thấy được du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù,
bao gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp.
Nó vừa mang đặc điểm của ngành kinh tế vừa có đặc điểm của ngành văn hóa xã hội.
1.1.1.2. Chính sách công và Chính sách phát triển du lịch biển
Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm
quyền lực công, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục
tiêu đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.
Từ cách hiểu như trên ta có thể thấy chính sách công có những đặc trưng
cơ bản sau:
- Chính sách công là sản phẩm của chủ thể nắm giử quyền lực công
nên bất cứ chủ thể nào nắm quyền lực công đều có khả năng ban hành chính
sách công.

10



- Với đặc trưng đặc biệt của mình nên Nhà nước luôn là chủ thể chủ yếu
ban hành chính sách công. Nhà nước là cơ quan có thẩm quyền bao gồm: Quốc
hội, chính phủ, các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các tỉnh,
thành.
- Chính sách công không chỉ thể hiện dự định của chủ thể hoạch định
chính sách về một vấn đề nào đó trên các lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn
bao gồm những hoạt động tổ chức thực hiện các dự định nói trên.
- Chính sách công là định hướng hành động được thể hiện bằng một tập
hợp bao gồm nhiều quyết định có liên quan với nhau do Nhà nước ban hành,
gồm các mục tiêu và giải pháp, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lãnh
đạo thể hiện trong lời nói và hành động của họ. Đó là một chuỗi các quyết định
cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp
khác nhau trong bộ máy Nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài
và mang tính lịch sử, cụ thể nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng
nhất định.
- Tính hợp pháp là điểm khác biệt giữa chính sách công với các chính sách
của các tổ chức trong khu vực tư nhân hay của các đoàn thể xã hội…
- Chính sách công là sản phẩm của quá trình thực thi quyền lực chính trị
của giai cấp cầm quyền, cho nên chính sách đó trước hết phải mang tính giai
cấp. Song bên cạnh tính giai cấp, chính sách công còn đòi hỏi phải mang tính
dân tộc và tính nhân loại.
- Quá trình hoạch định chính sách công luôn chịu ảnh hưởng của các yếu
tố thể chế, tổ chức, các nhóm lợi ích và các yếu tố văn hóa - xã hội.
- Giữa quyết sách chính trị và chính sách công có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau: chính sách công là một dạng biểu hiện cụ thể của quyết sách chính trị của
đảng, nó thể hiện ý chí của nhà nước trong việc tổ chức, quản lý, điều hành một
lĩnh vực hoạt động nào đó của đời sống xã hội.

11



- Quyết sách chính trị của đảng cầm quyền và chính sách công có điểm
chung đó là sự thể hiện ý chí giai cấp cầm quyền, giai cấp thống trị xã hội trong
đó được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau do Nhà
nước ban hành, gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công.
Chính sách phát triển du lịch:
Muốn thu hút khách du lịch không chỉ đến một lần mà có thể nhiều lần
hoặc chí ít là tạo ấn tượng tốt đến với khách du lịch. Thì từ tầm vĩ mô đến vi mô
cần phải có những định hướng chiến lược nhằm tạo một môi trường phát triển
du lịch biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn nhưng phải phù hợp với tình hình
khai thác cũng như phát triển du lịch của từng địa phương.[21]
Thứ nhất, cần thường xuyên đa dạng hóa các sản phẩm du lịch phải phù
hợp với từng địa phương. Đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện các sản phẩm sẵn
có để có thể đáp ứng nhu cầu của khách du lịch như du lịch biển kết hợp với
nghỉ dưỡng, thám hiểm đại dương, đảo, xây dựng các trung tâm mua sắm,…
Thứ hai, công tác an ninh – trật tự ở các khu vực bãi biển cần phải tăng
cường cao độ nhằm tạo cho khách tham quan du lịch cảm giác an toàn và thoải
mái nghỉ ngơi khi đến đây; xây dựng các đội bảo vệ ven bờ biển cũng như tăng
cường công tác phòng hộ trên biển.
Thứ ba, cải thiện môi trường sinh thái: giải quyết vấn đề rác thải sinh hoạt,
cũng như các loại thủy hải sản của ngư dân để lại. Vì thế, cần phải nâng cao ý
thức bảo vệ môi trường của du khách và cả người dân địa phương. Đồng thời,
trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất - kĩ thuật đi kèm với việc bảo
vệ môi trường xung quanh, không gây ảnh hưởng, thiệt hại về nguồn tài nguyên
biển hay ô nhiễm môi trường nước, dẫn đến những thiệt hại đáng kể cho việc
phát triển du lịch và mỹ quan nơi đây.
Thứ tư, đẩy mạnh chương trình quảng cáo, tiếp thị nhằm thu hút khách du
lịch. Đồng thời tổ chức các sự kiện, lễ hội, các hội nghị, tọa đàm cũng mời các

12



chuyên gia, doanh nghiệp nước ngoài…nhằm quảng bá hình ảnh. Để họ có thể
đẩu tư hoặc đưa địa điểm vào chương trình tour của mình. Nhằm tăng lượng
khách đến tham quan, du lịch nhất là những thời điểm hết mùa du lịch.
Từ những phân tích trên có thể thấy, muốn phát triển du lịch biển cũng
như các hoạt động du lịch khác cần phải kết hợp bởi nhiều yếu tố với nhau
nhằm tạo nên một hiệu quả tốt nhất. Trước hết, chính quyền cần phải triển khai
một số biện pháp cứng rắn hơn như: xử lý, phạt nặng đối với những hành vi làm
ô nhiễm môi trường nhất là môi trường biển; mở các lớp giáo dục đào tạo
nguồn nhân lực có đủ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
1.1.2. Lý thuyết về thực hiện chính sách phát triển du lịch biển
1.1.2.1 Sự cần thiết của chính sách phát triển du lịch biển dưới góc độ
chính sách công
Trong quản lý xã hội, các nhà nước đã sử dụng chính sách làm công cụ
chủ yếu để giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng nhằm thúc đẩy nền
kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng. Vai trò của chính sách công được
thể hiện trên những lĩnh vực sau đây:
- Định hướng các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế - xã hội: Chính sách
công phản ánh trực tiếp các thái độ và việc ứng xử của nhà nước trước một vấn
đề công, nên chính sách công thể hiện rõ những xu thế tác động của nhà nước
lên các đối tượng xã hội để các đối tượng nầy vận động đạt được những giá trị
đổi mới tốt đẹp mà nhà nước đang theo đuổi. Giá trí đó chính là mục tiêu của
chính sách công phù hợp với những nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội. Nếu
các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động theo chiều hướng tác động của chính sách
thì không những đạt được mục tiêu phát triển, mà còn được hưởng những ưu
đãi của nhà nước. Như vậy, cùng với mục tiêu, các biện pháp chính sách công
cũng có vai trò định hướng cho hành động của các chủ thể kinh tế - xã hội.
- Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội theo định hướng:


13


Để đạt được các mục tiêu chính sách, Nhà nước phải ban hành nhiều giải pháp,
trong đó có những giải pháp mang tính khuyến khích sự tham gia của các chủ
thể trong xã hội như miễn giảm thuế, tiếp cận với nguồn vốn có lãi suất thấp,
chấp hành những thủ tục hành chính đơn giản, thụ hưỡng những khoản trợ cấp,
trợ giá,… Sự tác động nầy không mang tính bắt buộc, mà chỉ mang tính khuyến
khích các chủ thể thực hiện những hành động theo chủ ý của Nhà nước. Chẳng
hạn, chính sách về đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài của Nhà
nước ta có nhiều cách thức khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào các ngành,
lĩnh vực hay những vùng cần được ưu tiên phát triển.
- Phát huy những mặt ưu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất
cập của nền kinh tế thị trường: Trong kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh và
các quy luật thị trường khác đã thúc đẩy các chủ thể xã hội đầu tư vào sản xuất
kinh doanh, không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhờ
đó, mà toàn xã hội và từng cá nhân, tổ chức đều được hưởng lợi từ kinh tế thị
trường như: hàng hóa và dịch vụ nhiều về số lượng, đa dạng, phong phú về
chủng loại, chất lượng ngày càng được nâng cao với giá tiêu dùng ngày càng rẻ.
Tuy nhiên, sự vận hành của nền kinh tế thị trường cũng gây ra những tác động
tiêu cực không nhỏ mà các nhà nghiên cứu kinh tế gọi là mặt trái thị trường
như; độc quyền tự nhiên, cung ứng không đầy đủ hàng hóa công cộng, ngoại
ứng, sự bất công bằng, thông tin bất đối xứng, bất ổn kinh tế vĩ mô, hàng hóa
khuyến dụng và hàng hóa không khuyến dụng,…gây ảnh hưởng không tốt lên
toàn xã hội và mỗi thành viên xã hội. Chính vì vậy, nhà nước phải sử dụng các
công cụ chính sách để giải quyết những vấn đề tiêu cực do kinh tế thị trường
gây ra, tức là khắc phục những thấy bại của thị trường như là trợ cấp, cung ứng
dịch vụ công thông qua các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công
và chống độc quyền…


14


- Tạo lập các cân đối trong phát triển: Để kinh tế - xã hội phát triển một
cách ổn định, Nhà nước phải sử dụng các chính sách để bảo đảm các cân đổi vĩ
môi chính yếu như cân đối giữa hàng - tiền, cung - cầu, xuất - nhập khẩu, tiết
kiệm - tiêu dùng,… Đồng thời, Nhà nước còn sử dụng chính sách để đảm bảo
sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền của đất nước.
- Kiểm soát, quản lý và phân bổ các nguồn lực trong xã hội: Nhà nước
luôn quan tâm đến khai thác và sử dụng các nguồn lực cho phát triển xã hội.
Mục tiêu phát triển bao gồm về số lượng và chất lượng trong hiện tại và tương
lai, nên tài nguyên tự nhiên và xã hội của một quốc gia luôn trở thành một vấn
đề quan tâm chính yếu của các nhà nước. Để sử dụng tài nguyên theo hướng ổn
định, bền vững và có hiệu quả, nhà nước dùng chính sách để kiểm soát quá
trình khai thác, sử dụng tài nguyên và phân bổ, tái phân bổ hợp lý các nguồn lục
trong xã hội. Ví dụ: chính sách xây dựng vùng kinh tế mới, chính sách đất đai,
chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước…
- Tạo môi trường phù hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội: Thông qua
các chính sách công, nhà nước tạo ra những điều kiện cần thiết để tạo một môi
trường thuận lợi cho các chủ thể xã hội hoạt động, thị trường vốn, thị trường
khoa học và công nghệ, thị trường bất động sản, phát triển kết cấu hạ tầng,
chính sách hội nhập…
- Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành: Việc thực hiện
các giai đoạn trong chu trình chính sách không chỉ và không thể do một cơ quan
Nhà nước đảm nhiệm, mà đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc
các cấp, các ngành khác nhau, của nhiều tổ chức, cá nhân. Chính vì vậy, thông
qua quá trình chính sách thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên sự
nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động thực hiện mục tiêu quản lý Nhà nước.

Mục tiêu và biện pháp chính sách sẽ định hướng cho sự phối hợp này.

15


Do vậy, Chính sách phát triển du lịch biển là định hướng hành động do
Nhà nước lựa chọn thể hiện bằng một hệ thống các quyết định có liên quan với
nhau (do nhà nước ban hành), bao gồm các mục tiêu và giải pháp nhằm hướng
tới phát triển du lịch biển, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo định
hướng. Chính sách phát triển du lịch biển Đà Nẵng trong thời gian qua đã tạo
động lực cho sự phát triển của du lịch biển của thành phố. Cụ thể lượng khách
du lịch và doanh thu từ du lịch liên tục tăng. Chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng
phục vụ du lịch ngày càng được nâng cao. Sản phẩm dịch vụ du lịch biển ngày
càng đa dạng với chất lượng ngày càng cao. Hệ thống cơ sở lưu trú được cải
thiện về số lượng và chất lượng. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch biển dần đáp
ứng được nhu cầu về nhân lực của hoạt động du lịch biển. Thích ứng với những
thay đổi, biến động của môi trường kinh tế - xã hội. Tạo cơ sở cho việc tăng
cường sự phối hợp giữa các ngành và địa phương, sự tham gia của người dân
vào sự phát triển của du lịch biển.
1.1.2.2. Đặc điểm, vai trò của chính sách phát triển du lịch biển
+ Đặc điểm của chính sách phát triển du lịch biển:
Thứ nhất, chính sách phát triển du lịch biển không chỉ thể hiện định hướng
của nhà hoạch định chính sách về mục tiêu giải quyết vấn đề phát triển du lịch
biển, mà còn bao gồm những định hướng về cách thức thực hiện các dự định
nói trên.
Thứ hai, chính sách phát triển du lịch biển gồm nhiều quyết định có liên
quan lẫn nhau.
Thứ ba, chính sách phát triển du lịch biển thay đổi theo thời gian.
Thứ tư, chính sách phát triển du lịch biển có tính kế thừa lịch sử.
Thứ năm, chính sách phát triển du lịch biển ảnh hưởng đến nhiều nhóm

ngành nghề khác nhau trong xã hội.
+ Vai trò của chính sách phát triển du lịch biển

16


Thứ nhất, định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động phát
triển du lịch biển.
Thứ hai, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội theo mục tiêu chung.
Thứ ba, phát huy những mặc tích cực, đồng thời khắc phục những bất cập
của nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, tạo lập sự cân đối trong phát triển.
Thứ năm, kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong lĩnh vực du lịch biển.
Thứ sáu, tạo môi trường phù hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ bảy, thúc đẩy sự phối hợp nhịp nhàng các hoạt động giữa các cấp, các
ngành trong nhiều lĩnh vực.
1.1.2.3. Các bước Tổ chức thực hiện chính sách phát triến du lịch biển
Việc ban hành các văn bản thực hiện chính sách là một khâu cấu thành
trong chu trình chính sách, là quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách
thành hiện thực, với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định.
Chính sách công nói chung hay chính sách phát triển du lịch biển nói riêng
thường được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo căn
cứ pháp lý cho việc thi hành, trong đó có thể bao gồm những phương án hành
động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.
Để thực hiện chính sách phát triển du lịch biển, Chính phủ, các bộ ngành,
địa phương cần có hệ thống văn bản thực hiện chính sách phù hợp bao gồm
chính sách dài hạn và chính sách cấp bách ngắn hạn và thể hiện trong chiến
lược, quy hoạch, các chương trình, đề án phát triển du lịch biển. Chính sách
phải đảm bảo khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối đa tiềm

năng, thế mạnh. Bảo tồn và phát huy được những giá trị truyền thống, nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội.

17


Thực tiễn, việc ban hành các văn bản thực hiện chính sách phát triển du
lịch nói chung và du lịch biển nói riêng trong giai đoạn vừa qua đã đáp ứng cơ
bản về yêu cầu phát triển và mục tiêu của chính sách. Theo đó, sau khi Chính
phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030”, các bộ ngành, địa phương đã ban hành hàng loạt hệ thống văn bản thực
hiện chính sách để đảm bảo mục tiêu phát triển du lịch như: “chính sách kích
cầu, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch, phát
triển du lịch cộng đồng, chính sách gia hạn miễn thị thực cho công dân các
nước, chính sách tăng cường hợp tác đối tác Công - Tư ...”
Các chính sách để thực hiện mục tiêu phát triển du lịch có mối liên quan
hữu cơ với nhau được ban hành và thực hiện đồng bộ gắn với những điều kiện
tiên quyết cùng với sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ. Sự phối hợp chặt chẽ
giữa các ngành, các cấp, các địa phương có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công của chính sách.
1.1.2.4. Những yêu cầu đối với việc thực hiện chính sách phát triển du
lịch biển
+ Bước một, Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch biển
Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách
là một hoạt động rất quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan Nhà nước và các
đối tượng thực thi chính sách.
Tuyên truyền, phổ biến tốt chính sách giúp cho các đối tượng chính sách
và mọi người dân tham gia thực hiện hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính
sách. Về tính đúng đắn và phù hợp của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh

nhất định và tính khả thi có hiệu quả của chính sách. Qua đó, người dân tự giác
thực hiện theo yêu cầu quản lý của Nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán
bộ, công chức và tổ chức có trách nhiệm nhận thức được đầy đủ tính chất, trình
độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm

18


các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai
thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.
Do vậy, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương của
Đảng và Nhà nước về vai trò, vị trí động lực của ngành Du lịch trong phát triển
kinh tế - xã hội đối với doanh nghiệp, tổ chức và người dân để tạo sự đồng
thuận của xã hội về phát triển kinh tế du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Phải xác định, lựa chọn các kỹ năng, phương pháp phổ
biến, tuyên truyền chính sách phù hợp cho từng loại đối tượng. Tùy từng đối
tượng mà tổ chức các hình thức phổ biến, tuyên truyền và quán triệt thực hiện
chính sách phù hợp như: mở các lớp tập huấn tập trung, hội thảo chuyên ngành,
họp báo để quán triệt nghiên cứu các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và
phân công thực hiện. Tổ chức các cuộc họp báo tuyên truyền chính sách cho
các cơ quan thông tin đại chúng, công chức và viên chức làm công tác tuyên
truyền, xây dựng văn bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính sách
gửi cho các cơ quan, đơn vị để họ tự nghiên cứu xây dựng kế hoạch thực hiện
chính sách. Ngoài ra, có thể tuyên truyền qua báo chí, trang thông tin điện tử để
các đối tượng được thụ hưởng chính sách và mọi người dân biết để thực hiện.
+ Bước hai, Trách nhiệm giải trình và phân công phối hợp thực hiện
chính sách phát triển du lịch biển
Chính sách phát triển du lịch biển được thực hiện trên phạm vi rộng lớn, vì
thế số lượng các đối tượng cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện chính sách là
rất lớn. Vì vậy, muốn tổ chức thực hiện chính sách có hiệu quả phải tiến hành

phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý các ban, ngành, các cấp chính
quyền địa phương, quá trình, phân công, phối họp thực hiện chính sách cần
thực hiện chặt chẽ, khoa học và hợp lý, hạn chế tình trạng chồng chéo nhiệm vụ
và không rõ trách nhiệm.
Việc thành công của một chính sách do nhiều yếu tố cấu thành, nhân tố

19


cấu thành. Do đó, để cho việc thực thi chính sách thực hiện được đúng mục tiêu
quản lý thì cần phải phối hợp các yếu tố, bộ phận, đối tượng tác động và liên
quan. Hoạt động phân công, phối hợp thực hiện chính sách diễn ra theo tiến
trình thực hiện một cách chủ động, luôn sáng tạo để duy trì chính sách được ổn
định, phát triển góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
Để thực hiện chính sách phát triển du lịch biển. Thành phố Đà Nẵng đã
thành lập Ban Chỉ đạo về du lịch là cơ quan có chức năng giúp Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố chỉ đạo các hoạt động du lịch. Chỉ đạo việc phối hợp hoạt
ộng của du lịch và văn hóa - xã hội, liên quan trong việc xây dựng và tổ chức
triển khai thực hiện các chương trình phát triển du lịch trong từng thời kỳ phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Nghiên cứu, đề xuất
với Lãnh đạo thành phố giải pháp, cơ chế, chính sách về phát triển du lịch.
Sở Du lịch là cơ quan chủ trì, tham mưu cho Lãnh đạo thành phố về xây
dựng và tổ chức thực hiện chính sách. Ngoài ra, còn có một số cơ quan nhà
nước có liên quan đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch gồm:
1. Sở Kế hoạch và Đầu tư
2. Sở Tài chính
3. Sở Thông tin và Truyền thông
4. Đài Phát thanh và Truyền hình thành phố
5. Sở Ngoại vụ
6. Công an thành phố

7. Sở Tài nguyên và Môi trường
8. Sở Khoa học Công nghệ
9. Sở Y tế
10. Sở Giao thông -Vận tải
11. Sở Xây dựng
12. Sở Công Thương

20


13. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
14. Sở Giáo dục và Đào tạo
15. Quận Sơn Trà, quận Ngũ Hành Sơn, quận Thanh Khê và quận Liên Chiểu
+ Bước ba, Duy trì chính sách phát triển du lịch
Duy trì chính sách là các giải pháp, biện pháp bảo đảm cho chính sách
được duy trì, tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn cho
chính sách được duy trì, đòi hỏi phải có sự nhất trí và quyết tâm cao của các
ngành, người tổ chức, người thực thi và môi trường tồn tại.
Trong quá trình thực hiện chính sách nếu không có các giải pháp, biện
pháp duy trì và phát triển thì sẽ dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách thấp,
gây lãng phí, không đáp ứng được yêu cầu quản lý, yêu cầu thực hiện chức
năng nhiệm vụ của nhà nước. Do vậy, để duy trì chính sách cần phải đảm bảo
đầy đủ yêu cầu về nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật để thực thi
chính sách.
Đối với các cơ quan nhà nước, là tổ chức ban hành các chính sách công,
phải thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, vận động các đối tượng
chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực hiện chính sách. Nếu việc thực
hiện chính sách gặp nhiều khó khăn do môi trường thực tế thay đổi, thì các cơ
quan nhà nước phải sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động, chỉ đạo nhằm
tạo môi trường thuận lợi nhất cho việc thực hiện chính sách. Đồng thời, chủ

động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một chừng
mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cơ quan nhà nước có thể
kết hợp sử dụng các biện pháp hành chính để duy trì chính sách.
+ Bước bốn, Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch biển:
Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch biển, việc điều
chỉnh chính sách cho phù hợp là hoạt động diễn ra thường xuyên nếu gặp khó
khăn do môi trường thực tế thay đổi hay do chính sách còn những bất cập, hạn

21


chế chưa phù hợp với thực tiễn thì cần phải có những điều chỉnh nhất định để
đáp ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với tình hình thực tế. Về nguyên tắc, thì
thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung các chính sách cho phù hợp là của các cơ quan,
tổ chức ban hành chính sách. Nhưng, trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp,
các cơ chế chính sách của các ngành, các địa phương diễn ra rất năng động và
linh hoạt trong thực hiện chính sách để phù hợp với điều kiện thực tế. Do đó,
các bên tham gia thực hiện chính sách cần phải có những đề xuất điều chỉnh về
giải pháp, biện pháp, cơ chế để chính sách thực hiện có hiệu quả, bảo đảm mục
tiêu chính sách đã đề ra đạt được hiệu quả cao.
Việc điều chỉnh chính sách phát triển du lịch phải đảm bảo các nguyên tác
nhất định, tức là chỉ thực hiện điều chỉnh về các biện pháp, giải pháp, cơ chế
thực hiện mục tiêu hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu chính sách theo yêu cầu
thực tế của bộ, ngành, địa phương tham gia. Nếu việc điều chỉnh làm thay đổi
mục tiêu, nghĩa là làm thay đồi chính sách thì coi như chính sách đó bị thất bại.
Như vậy, có thể thấy với việc phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ
thể chính sách. Uỷ ban nhân dân thành phố với vai trò là chủ thể quan trọng
nhất đã định hướng cho các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế - xã hội,
trong đó du lịch biển là hạt nhân trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện
chính sách phát triển ngành du lịch ở thành phố Đà Nẵng.

1.1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển du
lịch biển
+ Các yếu tố bên ngoài
Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập nền kinh tế quốc tế và tự do hoá thương
mại đã và đang là xu thế nổi bật hiện nay của kinh tế thế giới. Và ngày nay, du
lịch là một ngành kinh tế đã là một xu hướng phổ biến trên toàn cầu, trở thành
một trong những ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh nhất, lớn nhất và bền
vững nhất trên thế giới, góp phần vào sự phát triển kinh tế và thịnh vượng của

22


×