Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Sự tham gia của quản tài viên trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của luật phá sản năm 2014 (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.91 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN DANH PHÚ

SỰ THAM GIA CỦA QUẢN TÀI VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN DANH PHÚ

SỰ THAM GIA CỦA QUẢN TÀI VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH

HÀ NỘI - NĂM 2017


i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy giáo, cô
giáo trong Khoa sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập tại Trường.
Xin chân thành cảm ơn đến tất cả các thầy, cô giáo đã giảng dạy, truyền
đạt những kiến thức thuộc các học phần trong chương trình đào tạo của lớp học.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị Bảo Ánh - Giảng viên
Trường Đại học Luật Hà Nội là người đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi nghiên
cứu, viết và hoàn thiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ, động viên trong
suốt thời gian tôi học tập và viết luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót trong các nội dung nghiên cứu của Đề tài. Rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy, cô và tất cả mọi người.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2017
HỌC VIÊN

Trần Danh Phú



ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI
HƢỚNG DẪN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TS. Trần Thị Bảo Ánh

Trần Danh Phú


iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ
QUẢN TÀI VIÊN ............................................................................................ 8
1.1. Khái quát những vấn đề liên quan đến phá sản ......................................... 8
1.1.1. Khái quát về phá sản ............................................................................ 8
1.1.1.1. Khái niệm phá sản.......................................................................... 8
1.1.1.2. Bản chất của phá sản .................................................................... 11
1.1.2. Khái quát về pháp luật phá sản, thủ tục phá sản ................................ 13
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật phá sản ........................................................ 13

1.1.2.2. Khái quát thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản 2014........ 15
1.2. Khái quát về Quản tài viên ....................................................................... 18
1.2.1. Bản chất pháp lý và vai trò của Quản tài viên ................................... 18
1.2.1.1. Bản chất pháp lý của Quản tài viên ............................................. 18
1.2.1.2. Vai trò của Quản tài viên ............................................................. 25
1.2.2. Sự tham gia của Quản tài viên trong thủ tục phá sản ở một số
quốc gia trên thế giới.................................................................................... 26
1.2.2.1. Mô hình của Nhật Bản ................................................................. 26
1.2.2.2. Mô hình của Cộng hòa Liên bang Đức ........................................ 30
1.2.2.3. Mô hình của Cộng hòa Liên bang Nga ........................................ 32
1.2.2.4. Mô hình của Trung Quốc ............................................................. 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 35
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUẢN TÀI VIÊN
THAM GIA QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH
NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM ................................................... 36
2.1. Điều kiện Quản tài viên tham gia quá trình giải quyết phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã................................................................................. 36
2.2. Sự tham gia của Quản tài viên trong các thủ tục cụ thể của quá
trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ........................................................... 38


iv
2.2.1. Giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã ............................ 38
2.2.2. Đề nghị thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, hợp tác xã ........................................................................................ 40
2.2.3. Tham gia xử lý khoản nợ sau khi mở thủ tục phá sản ....................... 42
2.2.4. Tham gia xác định tài sản, lập danh sách chủ nợ, người mắc
nợ doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán ................................ 43
2.2.4.1. Tham gia kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã ..................................................................................... 43

2.2.4.2. Lập danh sách chủ nợ, thu thập tài liệu liên quan đến
khoản nợ .................................................................................................... 45
2.2.4.3. Lập danh sách người mắc nợ ....................................................... 46
2.2.5. Tham gia các hoạt động bảo toàn tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán ............................................................. 46
2.2.5.1. Xem xét giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã ........................ 46
2.2.5.2. Đăng ký giao dịch bảo đảm cho doanh nghiệp, hợp tác xã ......... 48
2.2.6. Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời .................................. 48
2.2.7. Tham gia Hội nghị chủ nợ ................................................................. 49
2.2.7.1. Tham gia tổ chức Hội nghị chủ nợ .............................................. 50
2.2.7.2. Thực hiện Nghị quyết theo đề xuất của đại diện chủ nợ ............. 51
2.2.8. Tham gia phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán ................................................ 52
2.2.8.1. Tham gia xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ...... 52
2.2.8.2. Tham gia thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ...... 53
2.2.8.3. Giám sát phương án phục hồi hoạt động kinh doanh .................. 54
2.2.9. Tham gia xử lý tài sản tranh chấp ...................................................... 55
2.2.9.1. Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản ....... 55
2.2.9.2. Đề nghị xem xét tranh chấp hoặc không thể thi hành được
việc thanh lý tài sản................................................................................... 57
2.2.10. Tham gia thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản ........................................................................................... 58


v
2.2.10.1. Tổ chức thực hiện thanh lý tài sản ............................................. 58
2.2.10.2. Đề nghị thu hồi tài sản và đề nghị tuyên bố giao dịch vô hiệu ..... 61
2.2.11. Xử lý vi phạm đối với Quản tài viên ............................................... 64
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 66
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

CỦA QUẢN TÀI VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM ................. 67
3.1. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về sự tham gia
của quản tài viên trong phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và các
vƣớng mắc, khó khăn phát sinh ................................................................... 67
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sự tham gia của
Quản tài viên trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã ....................................................................................................... 72
3.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành ............................................... 72
3.2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực pháp luật về sự tham
gia của Quản tài viên trong quá trình giải quyết phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã ........................................................................................ 73
3.2.2.1. Quy định về sự tham gia của Quản tài viên trong bảo đảm
chi phí phá sản .......................................................................................... 73
3.2.2.2. Quy định Quản tài viên đề nghị chỉ định người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã ............................................ 74
3.2.2.3. Quy định về sự tham gia của Quản tài viên trong bảo toàn
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã ........................................................ 77
3.2.2.4. Quy định sự tham gia của Quản tài viên đối với việc định
giá, bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi tổ chức
thực hiện thanh lý tài sản .......................................................................... 80
3.2.3. Tham khảo quy định của pháp luật nước ngoài về sự tham gia
của Quản tài viên trong giải quyết phá sản .................................................. 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 83
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý, thanh lý tài sản trong phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là một
trong những nội dung quan trọng mà pháp luật phá sản của các quốc gia trên
thế giới luôn quan tâm, đặc biệt là sự tham gia của chủ thể thực hiện quản
lý, thanh lý tài sản. Hiện nay trên thế giới, ở các quốc gia khác nhau quy
định về chủ thể thực hiện quản lý, thanh lý tài sản có sự khác nhau, không
chỉ là sự khác nhau về quyền, nghĩa vụ của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản
trong phá sản mà tên gọi của chủ thể này tại các quốc gia cũng không hoàn
toàn giống nhau.
Ở Việt Nam, đối với quy định về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã trong thủ tục phá sản, mỗi thời kỳ đều có những sự
thay đổi nhất định. Tại Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì chủ thể thực
hiện thẩm quyền này là: Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản. Đến Luật
phá sản năm 2004, bản chất của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục
phá sản đã có sự thay đổi. Trước đây có hai chủ thể tách biệt: một chủ thể
thực hiện chức năng quản lý tài sản, một chủ thể thực hiện chức năng thanh
toán tài sản của doanh nghiệp, nhưng đến Luật phá sản năm 2004 thì các chủ
thể này đã được hợp nhất với tên gọi chung là Tổ quản lý, thanh lý tài sản, với
tên gọi này Luật phá sản năm 2004 đã nhập chức năng, nhiệm vụ của hai chủ
thể riêng rẽ tại Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 vào một chủ thể duy
nhất vừa thực hiện quản lý, vừa thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Trong Luật phá sản năm 2014, chủ thể thực hiện quản lý, thanh lý tài sản
trong thủ tục phá sản đã có sự thay đổi cơ bản. Với việc quản lý, thanh lý tài
sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã thẩm quyền không còn quy định
cho một chủ thể duy nhất, mà ở văn bản mới này tiến hành quản lý, thanh lý
tài sản phá sản đã được giao cho hai chủ thể với tên gọi mới, có tư cách pháp
lý độc lập, mang tính chất của hoạt động nghề nghiệp đó là: Quản tài viên và



2
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay cho các chủ thể mang tính chất vụ
việc trước đây là Tổ quản lý, Tổ thanh toán tài sản theo Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 và Tổ quản lý, thanh lý tài sản tại Luật phá sản năm 2004.
Với hai chủ thể mới, một chủ thể là cá nhân (Quản tài viên), một chủ thể là tổ
chức (doanh nghiệp) mặc dù đều thực hiện chung một chức năng, nhiệm vụ:
hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản nhưng bản chất pháp lý của hai
chủ thể này là có sự khác nhau, đặc biệt là Quản tài viên - một trong các chủ
thể có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Sự tham gia của Quản tài viên vào thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã là một bước đột phá của Luật phá sản năm 2014, đồng thời đưa pháp luật
phá sản nước ta tiệm cận hơn với pháp luật về phá sản của một số quốc gia
trên thế giới.
Sự tham gia của Quản tài viên trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã là điểm mới mà các luật về phá sản ở Việt Nam
trước đây chưa từng quy định đối với về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá
sản. Nghiên cứu sự tham gia của chủ thể Quản tài viên cùng với doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản có ý nghĩa giúp hiểu rõ hơn về chủ thể mới này trong
Luật phá sản năm 2014.
Với những lý do cơ bản trên đây, việc nghiên cứu“Sự tham gia của
Quản tài viên trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
theo quy định của Luật phá sản năm 2014” làm luận văn thạc sĩ luật học là
cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở nước ta hiện nay, pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là
một lĩnh vực quan trọng của pháp luật thương mại trong đó có các quy định
về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản. Luật phá sản năm 2014 với Quản tài viên
và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thực hiện chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn này, nhưng kể từ khi Luật phá sản năm 2014 ra đời thì chưa có



3
một công trình nghiên cứu cụ thể, độc lập đối với từng chủ thể tham gia quản
lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản, mà chủ yếu đều là những công trình
nghiên cứu chung về hai chủ thể hoặc là nghiên cứu về thủ tục phá sản theo
quy định của luật mới, trong đó chưa có nhiều nội dung nói về các chủ thể
tiến hành thủ tục phá sản. Các công trình đã được công bố trước đây chủ yếu
đánh giá, nhận xét, bình luận mang tính chất lý luận về tính mới của Luật phá
sản năm 2014 với một số ít nội dung về Quản tài viên như: kinh nghiệm của
một số quốc gia trên thế giới về Quản tài viên; ai được hành nghề Quản tài
viên; trình tự, thủ tục hành nghề, quản lý Quản tài viên; chi phí Quản tài viên;
bất cập, vướng mắc về Quản tài viên ... Một số công trình điển hình là các bài
nghiên cứu, bài viết có một số nội dung liên quan đến sự tham gia của Quản
tài viên trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã được công bố như:
(i) Dương Kim Thế Nguyên (2014), Quản tài viên trong luật phá sản các
nước - kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II, tháng 03 2014 (số 06); (ii) Dương Hương Sơn (2014), Quy định về “Người quản lý”
trong luật phá sản Trung Quốc và một số gợi mở đối với Việt Nam, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, kỳ 12 (320)/2014; (iii) Trương Thị Vàng (2016), Kinh
nghiệm về mô hình Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
trong thủ tục phá sản theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, Khóa luận
tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; (iv) Đào Hải Lâm (2015), Quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản
hiện hành, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; (v) Phạm
Thị Lệ Hằng (2015) Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
theo quy định của Luật phá sản năm 2014, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội; (vi) Hà Thị Khánh Huyền (2015), Xử lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật phá sản năm
2014, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; (vii) Nguyễn
Khánh Linh (2015), Một số vấn đề pháp lý về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản

trong thủ tục phá sản tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học


4
Luật Hà Nội; (viii) Vũ Huy Hoàng (2015), Thủ tục phá sản theo Luật phá sản
năm 2014, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; (ix)
Quách Thị Thu Hương (2015), Luật phá sản năm 2014 - Bước phát triển của
pháp luật phá sản Việt Nam, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội; (x) Ma Thị Huyền (2015), Bình luận những điểm mới của Luật phá
sản năm 2014, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; (xi) ThS.
Nguyễn Thái Trường (2015), Một số vấn đề chưa được sửa đổi triệt để trong
Luật phá sản năm 2014, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 3 (276) - 2015; (xii)
ThS. Quản Văn Minh (2016), Thực tiễn và những vướng mắc của Quản tài
viên trong quá trình hành nghề, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 10 (295) 2016; (xiii) Phạm Thị Huyền (2016), Vấn đề bất cập về Quản tài viên theo
pháp luật hiện hành, Tạp chí Luật học, số 2/2016.
Các công trình trên đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến chủ thể Quản tài viên theo quy định của Luật phá sản năm
2014. Tuy nhiên, nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về sự
tham gia của Quản tài viên trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã theo quy định của Luật phá sản năm 2014 cho đến hiện nay lại
chưa có một công trình riêng. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học trong các đề tài, bài viết đã công bố, luận văn
sẽ đi sâu tìm hiểu và làm rõ hơn sự tham gia của một trong các chủ thể mới
tiến hành thủ tục phá sản tại Luật Phá sản năm 2014 đó là: Quản tài viên.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Sự tham gia của Quản tài viên trong
thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật
phá sản năm 2014.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận về phá sản, thủ tục phá sản
và Quản tài viên;


5
- Tìm hiểu và làm rõ các quy định của Luật phá sản năm 2014 về Quản
tài viên tham gia vào quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ở
Việt Nam;
- Tìm hiểu thực trạng và đưa ra được một số đề xuất, kiến nghị có liên
quan đến sự tham gia của Quản tài viên trong quá trình giải quyết phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã ở Việt Nam.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận văn là làm rõ được Quản tài viên
tham gia vào thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã bao gồm những nội
dung gì? thẩm quyền của Quản tài viên đến đâu? và Quản tài viên giữ vị trí
như thế nào trong thủ tục phá sản theo quy định của Luật phá sản năm 2014.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, một số nhiệm vụ được đặt ra cần
phải thực hiện như:
- Trình bày được những vấn đề lý luận về phá sản, pháp luật phá sản;
- Nêu lên được mô hình Quản tài viên trong thủ tục phá sản ở một số
quốc gia trên thế giới;
- Nêu lên được bản chất, vai trò của Quản tài viên trong thủ tục phá sản;
- Làm rõ các quy định về sự tham gia của Quản tài viên vào thủ tục phá
sản theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam;
- Nêu lên được thực trạng Quản tài viên tiến hành thủ tục phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã;
- Đưa ra được một số kiến nghị liên quan đến sự tham gia của Quản tài
viên trong thủ tục phá sản.

5. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin;


6
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối
chiếu… được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận
pháp luật về phá sản, pháp luật phá sản và Quản tài viên;
+ Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp đối
chiếu, phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp... được sử dụng tại
Chương 2 khi nghiên cứu cụ thể về sự tham gia của Quản tài viên trong quá
trình giải quyết phá sản doanh nghiệp hợp tác xã theo quy định của Luật phá
sản năm 2014;
+ Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn
giải… được sử dụng tại Chương 3 khi nêu lên một số thực trạng và đưa ra
một số đề xuất kiến nghị.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn giúp làm rõ hơn các vấn đề lý luận, những quy định của pháp
luật phá sản hiện hành ở nước ta về mức độ, phạm vi tham gia của Quản tài
viên trong quá trình tiến hành các thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Kết quả nghiên cứu còn góp phần làm rõ thêm các quy định của Luật phá sản
năm 2014 và các văn bản có liên quan quy định về thẩm quyền của Quản tài
viên tham gia thủ tục phá sản khi mà các công trình nghiên cứu, các bài viết
trước đây chưa trình bày, trình bày chưa cụ thể hoặc chưa đề cập đến, đồng
thời giúp cho các cơ quan có thẩm quyền đánh giá đúng vai trò của Quản tài
viên, nhận ra những thiếu sót, bất cập nếu có về Quản tài viên khi tiến hành

các thủ tục phá sản để có ý kiến, đề xuất xây dựng và hoàn thiện những quy
định của pháp luật chưa phù hợp liên quan đến Quản tài viên tham gia vào
quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trong Luật phá sản năm
2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
7. Bố cục (các chƣơng) của luận văn
Ngoài phần lời cam đoan, mục lục, phần mở đầu, phần kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục với 03 chương:


7
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về phá sản và Quản tài viên.
- Chương 2. Pháp luật hiện hành về Quản tài viên tham gia quá trình giải
quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ở Việt Nam.
- Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quản tài viên
trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ở Việt Nam.


8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁ SẢN VÀ QUẢN TÀI VIÊN
1.1. Khái quát những vấn đề liên quan đến phá sản
1.1.1. Khái quát về phá sản
1.1.1.1. Khái niệm phá sản
Cũng giống như một thực thể sống “có sinh, có tử”, doanh nghiệp cũng
có chu kỳ sống của nó. Theo các nhà kinh tế, chu kỳ sống của doanh nghiệp
trải qua bốn giai đoạn tiêu biểu là: khởi nghiệp, tăng tưởng, bão hòa và suy
thoái và phá sản là một biểu hiện của giai đoạn cuối suy thoái ấy.
Phá sản được coi là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, là kết quả
của quá trình cạnh tranh và đào thải tự nhiên trong môi trường kinh doanh.


Thuật ngữ phá sản được hình thành từ thời La Mã cổ đại, bắt nguồn từ
chữ “ruin” trong tiếng Latinh có nghĩa là sự khánh tận - tức là mất khả năng
thanh toán.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thuật ngữ này dường như
không được biết đến. Pháp luật phá sản và thuật ngữ phá sản chỉ thực sự được
sử dụng trở lại kể từ khi có sự chuyển đổi kinh tế sang cơ chế thị trường theo
đó hiện tượng phá sản dưới tác động của cạnh tranh trở thành hiện tượng bình
thường và tất yếu.
Phá sản được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ ngôn ngữ, theo Từ điển tiếng Việt “phá sản” có nghĩa là:
lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì và thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị
thua lỗ hoặc bị thất bại1.
- Dưới góc độ kinh tế, phá sản là một hiện tượng để chỉ tình trạng làm ăn
thua lỗ, mất khả năng thanh toán các khoản nợ của các doanh nghiệp hoặc các
cá nhân có hoạt động kinh doanh. Phá sản thường gây ảnh hưởng dây chuyền
đến công việc kinh doanh bình thường của các cá nhân, doanh nghiệp bạn
1

Hoàng Phê - Chủ biên (2016), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr.965.


9
hàng và cũng để lại những ảnh hưởng đối với kinh tế - xã hội nói chung. Tuy
nhiên, những ảnh hưởng, tác động của phá sản không phải lúc nào cũng là ảnh
hưởng tiêu cực, bởi xét trên quy luật của thị trường thì phá sản cũng là một
điều cần thiết để tạo ra lối thoát cho các doanh nghiệp và tạo đà cho nền kinh
tế có những bước phát triển mới.
- Dưới góc độ pháp lý, phá sản là tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp
nhân) mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Theo cách nói thông

thường phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ tài sản
nào để trả các khoản nợ đến hạn. Phá sản là hiện tượng con nợ lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (thường là tòa án) tuyên bố phá sản và phân chia tài sản còn lại
của con nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy định2.
Như vậy, về cơ bản khái niệm “phá sản” thường được dùng để nói đến
tình trạng mất cân đối giữa thu và chi trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được biểu hiện qua tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn. Đồng thời phá sản còn được nhìn nhận như là một thủ tục tố tụng
đặc biệt - thủ tục để phục hồi và xử lý nợ đối với các doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc do người
Pháp mang sang Việt Nam cùng với quá trình thực dân hóa. Năm 1990 cùng
với sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, thuật ngữ phá
sản đã chính thức được sử dụng trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, do phá
sản là vấn đề rất mới nên các đạo luật này chỉ quy định rất đơn giản về điều
kiện phá sản trong một điều luật duy nhất. Thủ tục phá sản và nhiều vấn đề
khác liên quan đến việc giải quyết phá sản chưa được quy định cụ thể. Chính
vì thế, Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đã được ban hành để lấp khoảng trống
pháp luật kể trên nhưng tại Luật phá sản doanh nghiệp 1993 cũng chưa quy
định khái niệm phá sản mà chỉ định nghĩa tại Điều 2 như sau: “Doanh nghiệp
2

Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr.598.


10
đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua
lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính

cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo đó, có thể hiểu
một doanh nghiệp được coi là lâm vào tình trạng phá sản phải thỏa mãn ba
điều kiện là: (i) Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh; (ii) Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính
cần thiết để khắc phục việc mất khả năng thanh toán nhưng không khắc phục
được; (iii) Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà doanh
nghiệp bị mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng, quy định trên đã bộc lộ những hạn
chế nhất định. Bởi lẽ, trên thực tế, nếu chủ nợ phải đợi doanh nghiệp đủ các
điều kiện bị coi là lâm vào tình trạng phá sản mới yêu cầu phá sản thì rất khó
để lấy lại các khoản nợ. Về phía chủ doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp phải
chờ đến khi đủ các điều kiện để được coi là lâm vào tình trạng phá sản theo
luật thì khả năng phục hồi của doanh nghiệp lúc đó cũng bị hạn chế rất nhiều.
Nhằm khắc phục nhược điểm trên, Luật phá sản năm 2004 đã có sửa đổi
đáng kể. Tương tự như Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, tại Luật phá sản
năm 2004 chỉ quy định về doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản tại Điều 3, đó là: “doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình
trạng phá sản”. Căn cứ theo quy định này, thì một doanh nghiệp, hợp tác xã
được coi là lâm vào tình trạng phá sản chỉ cần thỏa mãn điều kiện không có
khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Quy
định này được coi là phù hợp hơn so với quy định của Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 vì đã mô tả được bản chất của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Cần lưu ý là doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có thể
chưa hẳn là doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản nếu doanh nghiệp,
hợp tác xã đó phục hồi hoạt động kinh doanh thành công dưới sự giám sát của


11

Tòa án và các chủ nợ. Vì vậy, để nhận diện doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá
sản phải bao gồm cả hai dấu hiệu là: doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản và có quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án.
Định nghĩa “phá sản” lần đầu tiên được ghi nhận tại Khoản 2, Điều 4
Luật phá sản năm 2014 đã ghi nhận đầy đủ, trực tiếp các dấu hiệu nhận diện
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, theo đó thì: “Phá sản là tình trạng của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra
quyết định tuyên bố phá sản”.
Tiêu chí để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
cũng được quy định rõ tại Khoản 1, Điều 4 của Luật phá sản năm 2014. Như vậy
phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm đủ hai dấu hiệu: (i)
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (doanh nghiệp, hợp tác xã
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ
ngày đến hạn thanh toán); (ii) Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.
1.1.1.2. Bản chất của phá sản
Phá sản là phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Tính đặc biệt trong thủ
tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã hay thanh toán nợ của doanh nghiệp,
hợp tác xã trong trường hợp này được thể hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất, thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã là thủ tục tư pháp
mà không phải là giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh thông thường được
doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện. Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, được tiến hành sau khi tòa án
mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản và chính tòa án là người quyết định thủ
tục phục hồi này. Những công việc chính trong quá trình phục hồi đều do
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thực hiện nhưng việc phục
hồi chỉ có thể được tiến hành khi có đủ những điều kiện nhất định do pháp
luật quy định, nội dung, thủ tục xem xét thông qua và thời hạn thực hiện
phương án phục hồi cũng phải tuân thủ những quy định của pháp luật. Hơn
nữa hoạt động phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp này đặt



12
dưới sự giám sát nghiêm ngặt của tòa án cũng như của các chủ nợ và doanh
nghiệp, hợp tác xã phải chịu hậu quả pháp lý đó là bị tòa án ra quyết định
tuyên bố phá sản trong trường hợp phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã không
thành công.
Thứ hai, thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ trong trường hợp này có những
nét đặc thù. Một là, việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính chất tập thể, điều
này được thể hiện ở việc tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào quá
trình đòi nợ và thanh toán nợ. Việc đòi nợ và thanh toán nợ được tiến hành
theo một thủ tục tư pháp đặc biệt nhằm đảm bảo sự đồng đều về quyền lợi cho
các chủ nợ thay vì để họ hành động vô tổ chức dẫn đến sự đổ vỡ của hàng loạt
các doanh nghiệp, hợp tác xã có liên quan khác, gây xáo trộn đời sống kinh tế
cũng như xã hội. Các chủ nợ được chia thành các nhóm khác nhau, yêu cầu
của họ sẽ được xem xét công bằng, tại cùng một thời điểm, địa điểm và theo
một thứ tự ưu tiên nhất định. Khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, tòa án
xem xét nếu có đủ căn cứ thì ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản. Kể từ thời điểm này, doanh nghiệp, hợp tác xã ngừng thanh
toán nợ, không được thanh toán nợ riêng cho bất kỳ chủ nợ nào, chủ nợ cũng
không có quyền yêu cầu thanh toán riêng mà phải thông qua thủ tục gửi giấy
đòi nợ. Việc thanh toán nợ cho các chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản
là thanh toán chung chứ không phải cho từng cá nhân riêng biệt nhằm giải
quyết quyền lợi của các chủ nợ trên nguyên tắc công bằng và hợp lí. Hai là,
việc đòi nợ và thanh toán nợ tiến hành thông qua một cơ quan đại diện có
thẩm quyền. Thẩm quyền này được pháp luật trao cho tòa án. Đòi nợ và thanh
toán nợ thông thường được diễn ra trực tiếp giữa chủ nợ và con nợ, tuy nhiên,
đòi nợ và thanh toán nợ thông qua thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản lại không
như vậy. Điều này thể hiện ở chỗ, chủ nợ đòi nợ thông qua tòa án ở thủ tục
gửi giấy đòi nợ tới tòa án trong thời hạn nhất định, đồng thời việc thanh toán
nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã được thực hiện thông qua vai trò của Quản

tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Ba là, việc thanh toán các


13
khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp
tác xã. Nếu như nợ trong dân sự là việc nợ bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu thì
trong trường hợp này, nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ chấm
dứt sau khi đã dùng toàn bộ tài sản của mình để thanh toán các khoản nợ, cho
dù có thể thanh toán chưa đủ cho chủ nợ. Bốn là, việc thanh toán các khoản
nợ được tiến hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trong quá trình giải quyết phá sản, việc thanh toán các khoản nợ trong
mọi trường hợp chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của tòa án. Đây là
một đặc thù so với thủ tục thanh toán nợ thông thường3.
Tóm lại, phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Tùy theo từng trường
hợp, tòa án sẽ áp dụng toàn bộ hay một số thủ tục trong giải quyết phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã dựa vào tính chất của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp
dụng thủ tục phá sản.
1.1.2. Khái quát về pháp luật phá sản, thủ tục phá sản
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật phá sản
Xét về lịch sử, luật phá sản xuất hiện trên thế giới từ khá sớm, ngay từ
thời Trung cổ các quốc gia châu Âu đã ban hành những văn bản luật phá sản
đầu tiên. Trong khoảng thời gian đó, phạm vi áp dụng của những luật này chỉ
giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng dần dần đã được đưa
vào áp dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và cho đến nay,
pháp luật về phá sản đã điều chỉnh cả các quan hệ kinh doanh của các cá
nhân, phá sản tiêu dùng. Nhìn chung pháp luật phá sản trên thế giới điều
chỉnh những nội dung cơ bản như: phạm vi áp dụng của luật phá sản, lý do
dẫn đến phá sản và đặc biệt là thủ tục giải quyết phá sản. Trên thế giới người
ta còn phân biệt hai thủ tục giải quyết phá sản, bao gồm: thủ tục chính thức và
thủ tục không chính thức. Thủ tục phá sản không chính thức là thủ tục giải

quyết tình trạng phá sản không có sự can thiệp của tòa án mà dựa trên sự thỏa

3

Trần Thị Mỹ Hạnh (2015), Bình luận những điểm mới cơ bản của Luật phá sản năm 2014, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.6.


14
thuận tự nguyện giữa người mắc nợ và chủ nợ. Thủ tục này được hình thành
vào những năm 80 của thế kỷ XIX. Đây được coi là giải pháp tích cực thay
thế hoặc hỗ trợ cho thủ tục phá sản chính thức. Thủ tục chính thức là những
thủ tục giải quyết tình trạng phá sản được điều chỉnh bằng pháp luật thông
qua tòa án. Các thủ tục này có những tên gọi khác nhau, nhưng bản chất đó là
hai loại thủ tục chính: thủ tục thanh toán (phá sản, thanh toán, thanh lý tài sản
và các khoản nợ); thủ tục phục hồi (cam kết, thỏa thuận, tổ chức lại)4.
Pháp luật phá sản của Việt Nam cũng thể hiện sự tiếp cận phù hợp với
pháp luật phá sản thế giới nhưng cũng gắn với đặc thù của nền kinh tế nước ta
qua những nội dung cơ bản như: (i) xác định đối tượng áp dụng luật phá sản;
(ii) xác định nguyên nhân dẫn đến phá sản - mất khả năng thanh toán; (iii)
quy định cơ quan có thẩm quyền tuyên bố phá sản; (iv) quy định thủ tục giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp.
Hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phá sản Việt
Nam bao gồm: luật phá sản, các văn bản hướng dẫn thi hành (nghị định, nghị
quyết …) và cả các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong quá trình
giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (luật thương mại, luật
doanh nghiệp, luật thi hành án dân sự …). Trong đó, luật phá sản đóng vai trò
trung tâm, vì nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về lý do phá sản,
cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản và đặc biệt là về thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Do dó, pháp

luật phá sản là một hệ thống các quy phạm pháp luật có tính chất chung do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp.
Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù trong luật thương mại, bao
gồm các quy phạm pháp luật về nội dung và quy phạm pháp luật về hình thức,
điều chỉnh hai nhóm quan hệ: quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ giữa chủ
nợ và con nợ) và quan hệ hình thức (quan hệ giữa chủ nợ, con nợ với cơ quan
4

Quách Thị Thu Hương (2015), Luật phá sản năm 2014 – bước phát triển của pháp luật phá sản Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.10.


15
nhà nước có thẩm quyền). Bên cạnh đó, pháp luật phá sản còn điều chỉnh
những quan hệ phát sinh trong quá trình tuyên bố phá sản, thanh lý tài sản đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Như vậy, có thể định nghĩa pháp luật phá sản như sau:
Pháp luật phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết
yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
1.1.2.2. Khái quát thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản 2014
Thủ tục phá sản được ghi nhận tại luật phá sản, nhưng đến nay dù đã trải
qua ba lần ban hành luật phá sản, ở nước ta vẫn còn có những quan điểm khác
nhau về thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng thủ tục giải quyết phá sản mà ở đó
trong thủ tục phá sản mỗi giai đoạn (bước) có tính chất độc lập với nhau rất
lớn. Việc thực hiện giai đoạn trước không phải là tiền đề để thực hiện giai
đoạn còn lại, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà tòa án có thể lựa chọn giai
đoạn hay chuyển giai đoạn cho phù hợp. Ví dụ: giai đoạn phục hồi hoạt động

kinh doanh không phải là tiền đề để thực hiện giai đoạn thanh lý tài sản mà có
thể loại trừ sự cần thiết phải thực hiện giai đoạn thanh lý tài sản doanh nghiệp,
hợp tác xã.
Thứ hai, một số quan điểm lại cho rằng các giai đoạn của thủ tục phá sản
có mối liên hệ với nhau. Những quan điểm này cho rằng cũng trong giai đoạn
phục hồi hoạt động kinh doanh thì tòa án có quyền ra quyết định tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản hoặc không ra quyết định tùy thuộc vào
doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
có thành công hay không. Ở đây sẽ có hai trường hợp xảy ra trong giai đoạn
này: (i) trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện được phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc thực hiện phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã xã vẫn mất khả năng thanh
toán thì tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; (ii)


16
trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh thì doanh nghiệp, hợp tác xã được coi là không còn mất khả
năng thanh toán, tòa án sẽ không ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp
tác xã phá sản5.
Trong mỗi trường hợp phá sản cụ thể thì giai đoạn trước có mối liên hệ,
là tiền đề để thực hiện giai đoạn sau trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã. Nên pháp luật phá sản chỉ cần quy định những thủ tục phá sản chung
nhất, còn việc tiến hành các thủ tục như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể và thái độ của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ ba, theo Luật Phá sản năm 2014, nội dung của thủ tục phá sản có thể
khái quát như sau:
- Giai đoạn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, pháp luật phá sản quy
định những chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và

quyền, nghĩa vụ của từng loại chủ thể đó trong quá trình tiến hành thủ tục phá
sản; cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản… Ở giai đoạn này, Luật phá sản năm 2014 còn quy định
những nội dung cần được trình bày trong đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
từng loại chủ thể nộp đơn cũng như hậu quả pháp lý của việc nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản trong trường hợp đơn yêu cầu hợp lệ, đơn chưa đủ các nội
dung, trong trường hợp chuyển đơn, trả lại đơn yêu cầu…

- Giai đoạn mở thủ tục phá sản, tiếp nối giai đoạn nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, pháp luật phá sản quy định sau khi Thẩm phán ra ra quyết
định có hay không mở thủ tục phá sản thì sẽ thông báo quyết định này đến các
chủ thể có liên quan. Bên cạnh đó, cũng quy định về việc xem xét lại quyết
định trong trường hợp các chủ thể nhận thông báo có đề nghị. Ở giai đoạn này
cũng quy định về tiêu chí chỉ định, thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản; hay vấn đề hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
5

Nguyễn Khánh Linh (2015), Một số vấn đề pháp lý về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá
sản tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.11.


17
tác xã mất khả năng thanh toán sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của
tòa án.
- Giai đoạn tiến hành Hội nghị chủ nợ, ở giai đoạn này pháp luật quy
định rõ ràng và chi tiết về thủ tục triệu tập, thành phần tham dự, điều kiện hợp
lệ của Hội nghị chủ nợ hay việc hoãn cũng như nội dung của Hội nghị chủ nợ;
đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản dựa trên đề nghị của Hội nghị chủ nợ.
- Giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh, phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một trong các

nội dung được đưa ra thông qua đề xuất phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt
động kinh doanh của chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp, hợp tác xã trong cuộc họp của Hội nghị chủ nợ. Sau khi được
Hội nghị chủ nợ thông qua thì Hội nghị chủ nợ ra nghị quyết trong đó có nội
dung đề nghị áp dụng biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã.
- Giai đoạn tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, trong giai
đoạn này Luật phá sản năm 2014 có quy định về thời điểm ra quyết định
tuyên bố phá sản, nội dung của quyết định cũng như các vấn đề có liên quan
đến nghĩa vụ về tài sản; việc đề nghị xem xét lại, kháng nghị quyết định và
hướng giải quyết theo quy định.
- Giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá

sản, đây là giai đoạn cuối cùng trong thủ tục phá sản. Ở giai đoạn này, pháp
luật phá sản hiện hành quy định những vấn đề về thẩm quyền, thủ tục thi hành
quyết định tuyên bố phá sản; về định giá, định giá lại, bán, thu hồi lại tài sản;
hay việc đình chỉ thi hành quyết định cũng như việc giải quyết tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh sau khi quyết định tuyên bố phá sản và
giải quyết khiếu nại.
Bên cạnh đó, Luật phá sản năm 2014 còn quy định về việc giải quyết phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo thủ tục rút gọn: (i) Người nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 5 của Luật này


18
mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không còn tiền, tài sản
khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản; (ii) Sau khi thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán không còn tài sản để thanh toán chi phí phá sản (Khoản 1, Điều 105,
Luật Phá sản năm 2014). Do đó, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng

thanh toán thuộc các trường hợp trên thì tòa án quyết định giải quyết phá sản
theo thủ tục rút gọn thông qua việc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá
sản ngay trong giai đoạn này. Quy định này là phù hợp, bởi khi doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán thuộc các trường hợp trên thì việc thực
hiện các thủ tục phá sản tiếp theo là không cần thiết, lúc này tòa án được
quyền áp dụng thủ tục rút gọn để tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
Luật phá sản năm 2014 xác định các giai đoạn thực hiện thủ tục phá sản
như trên. Nhưng vấn đề phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán trên thực tế là không giống nhau. Vì vậy, khi tiến hành thủ tục phá
sản, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và từng trường hợp phá sản cụ thể, tòa
án có thể áp dụng thực hiện một hay nhiều giai đoạn hoặc là áp dụng thủ tục phá
sản rút gọn khi giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã để đảm bảo thực tiễn
của từng vụ việc phá sản phù hợp với quy định của pháp luật.

1.2. Khái quát về Quản tài viên
1.2.1. Bản chất pháp lý và vai trò của Quản tài viên
1.2.1.1. Bản chất pháp lý của Quản tài viên
Thứ nhất, Quản tài viên là một chủ thể độc lập trong thủ tục phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh nghiệp, hợp tác xã bao
gồm toàn bộ những tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp từ thời điểm tòa
án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm có quyết định của tòa
án về việc hoàn tất vụ việc phá sản. Với mục tiêu là tránh được sự thất thoát
tài sản, bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho tài sản của doanh nghiệp, đồng
thời thực hiện việc thanh toán nợ một cách công bằng, khách quan và hiệu


×