Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số những vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỐC VIỆT ĐỨC

ĐỀ TÀI

QUYỀN SAO CHÉP TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỐC VIỆT ĐỨC
ĐỀ TÀI

QUYỀN SAO CHÉP TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số:

60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ THỊ HẢI YẾN

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Vũ Thị Hải Yến.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Việt Đức


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS. Vũ Thị Hải Yến giảng viên tổ bộ môn Luật Sở hữu trí tuệ - Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã
trực tiếp hướng dẫn, định hướng và tận tình chỉ dạy trong quá trình tôi thực hiện luận
văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô, anh chị, bạn bè đồng nghiệp và
gia đình đã luôn giúp đỡ và động viên để tôi có đầy đủ điều kiện và động lực để hoàn
thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 8 năm 2017

Tác giả

Nguyễn Quốc Việt Đức


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chƣơng 1 ............................................................................................................... 7
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN SAO CHÉP TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT
SỐ .......................................................................................................................... 7
1.1. Khái quát chung về quyền sao chép .......................................................................7
1.1.1. Khái niệm quyền sao chép .................................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của quyền sao chép ..........................................................................10
1.1.3. Đối tượng quyền sao chép ...............................................................................12
1.2. Khái quát chung về môi trường kỹ thuật số và quyền sao chép trong môi trường
kỹ thuật số ......................................................................................................................14
1.2.1. Khái quát chung về môi trường kỹ thuật số .....................................................14
1.2.2. Những tác động của môi trường kỹ thuật số đến quyền sao chép ...................16
1.3. Các công ước quốc tế có liên quan về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật
số……………………………………………………………………………………………………………………………..21
Chƣơng 2 ............................................................................................................. 25
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN SAO
CHÉP TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ ............................................... 25
2.1.

Đối tượng của quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số .............................25

2.2.


Chủ thể của quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số .................................27

2.3.

Thời hạn bảo hộ quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số ..........................29

2.4.

Nội dung và giới hạn quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số ..................30

2.4.1. Nội dung quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số ..................................30
2.4.2. Giới hạn quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số ..................................33
2.5.

Hành vi xâm phạm quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số......................42

2.6.

Các biện pháp bảo vệ quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số ..................51

2.6.1. Biện pháp tự bảo vệ .........................................................................................51
2.6.2. Biện pháp hành chính ......................................................................................54
2.6.3. Biện pháp dân sự..............................................................................................55
2.6.4. Biện pháp hình sự ............................................................................................57


2.6.5. Biện pháp trọng tài thương mại .......................................................................58
CHƢƠNG 3 ......................................................................................................... 59
THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SAO CHÉP TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ
THUẬT SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................... 59

3.1.

Thực trạng bảo hộ quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật sô tại Việt Nam .59

3.2.
số

Nhu cầu cần hoàn thiện pháp luật về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật
72

3.2.1. Xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế ............................................................72
3.2.2. Xuất phát từ nhu cầu hoàn thiện pháp luật Việt Nam .....................................73
3.2.3. Xuất phát từ nhu cầu bảo hộ quyền sao chép đối với tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả ...................................................................................................................74
3.3.

Các kiến nghị đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sao chép 75

3.4. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền sao chép trong môi trường
kỹ thuật số ......................................................................................................................82
3.4.1. Nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm quyền sao chép
trong môi trường kỹ thuật số ................................................................................82
3.4.2. Nâng cao ý thức của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng........83
3.4.3. Nâng cao năng lực xét xử của Tòa án trong giải quyết tranh chấp và xét xử
các vụ án về xâm phạm quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số ................84
3.4.4. Nâng cao sự chủ động trong công tác tự bảo vệ quyền sao chép trong môi
trường kỹ thuật số của chủ sở hữu quyền tác giả ......................................................... 86
3.4.5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo vệ quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số .................................................................................................86
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 88



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, đặc biệt liên quan đến lĩnh vực
môi trường kỹ thuật số đã làm thay đổi phương thức thể hiện tác phẩm dưới dạng
số hóa, thể hiện những điểm vượt trội so với các hình thức thể hiện tác phẩm truyền
thống, góp phần làm cho việc tiếp cận, trao đổi tri thức nói chung và tác phẩm văn
học, khoa học, nghệ thuật nói riêng trở nên đơn giản hơn bao giờ hết. Môi trường
kỹ thuật số tác động lên tất cả các lĩnh vực của đời sống, thể hiện vai trò quan trọng
không thể thiếu trong tương lai phát triển của xã hội cũng như bản thân mỗi quốc
gia. Ý thức được tầm quan trọng đó, mà Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả
(WCT, có hiệu lực từ ngày 06/3/2002, hiện nay có 91 quốc gia là thành viên), đã
được ra đời và ký kết nhằm làm rõ một số quy định của Công ước Berne về bảo hộ
tác phẩm văn học, nghệ thuật trong môi trường số. Quyền sao chép với tư cách là
một trong những nội dung quan trọng của quyền tác giả và quyền liên quan cũng đã
được đề cập và làm rõ trong nội dung Hiệp ước.
Môi trường kỹ thuật số góp phần làm thay đổi không chỉ lên phương thức
sao chép mà còn là khả năng thực hiện sao chép so với việc sao chép truyền thống.
Do đó môi trường kỹ thuật số không chỉ đem lại những giá trị tích cực đối với
quyền sao chép (dễ dàng tạo ra bản sao, dễ dàng cho người khác tiếp cận bản sao
hoặc tạo ra bản sao, từ đó góp phần làm tăng khả năng khai thác giá trị kinh tế từ
quyền sao chép) mà còn đặt ra những thách thức, khó khăn đối với việc bảo hộ
quyền sao chép, bởi việc khó kiểm soát hoạt động sao chép, khó xác định hành vi
xâm phạm quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số. Trong thời gian qua, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo hộ quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số, tuy nhiên những quy định về quyền sao chép trong môi trường
kỹ thuật số vẫn còn thiếu, chưa tạo ra được khung pháp lý vững chắc để tạo ra khả

năng bảo hộ quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số, do đó mà thực tiễn áp
dụng quy định liên quan mang lại hiệu quả chưa cao.
Trên cơ sở cân nhắc những tác động của môi trường kỹ thuật số lên quyền
sao chép, vai trò của các quy định về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số
và thực trạng xâm phạm quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số hiện nay, bản
thân tác giả nhận thấy được sự cấp thiết, có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn của
việc nghiên cứu quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số, từ đó có những kiến


2

nghị bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật góp phần làm tăng hiệu quả thực thi
quy định pháp luật. Do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Quyền sao chép
trong môi trường kỹ thuật số - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài cho
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khác với lĩnh vực quyền tác giả truyền thống – là lĩnh vực được nghiên cứu
từ rất lâu trên thế giới cũng như tại Việt Nam, không chỉ quyền tác giả trong môi
trường số mà quyền sao chép trong môi trường số là vấn đề khá mới mẻ hiện nay.
Môi trường kỹ thuật số ra đời và phát triển, vấn đề đặt ra là làm sao để phát huy
được tất cả những tiện ích của môi trường kỹ thuật số nhưng vẫn đảm bảo được
quyền tác giả, quyền liên quan luôn luôn được tôn trọng. Đây là lĩnh vực hấp dẫn
và tương đối phức tạp. Từ tính mới, tính hấp dẫn, tính phức tạp, vấn đề bảo vệ
quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường kỹ thuật số chắc chắn sẽ thu hút
nhiều công trình nghiên cứu tâm huyết từ nhiều phương diện khác nhau. Nội dung
quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số thường được phân tích, bình luận bên
cạnh các nội dung khác của quyền tác giả mà hiếm khi được nghiên cứu riêng biệt.
Trên thế giới tác giả biết tới một số công trình nghiên cứu có liên quan như
“Advanced copyright issues on the Internet”, Texas intellectual property law
journal, Vol 7, David L. Hayes, (1998), công trình này nghiên cứu về nhiều lĩnh

vực mà trong đó có liên quan vấn đề bản quyền trong môi trường Internet. Công
trình còn thảo luận về quyền tác giả có liên quan đến việc sao chép, truyền tải, sử
dụng tác phẩm trên Internet, đồng thời phân tích bổ sung các quy định về quyền tác
giả đối với các hoạt động trên Internet…Tại Việt Nam nghiên cứu về quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số chưa có nhiều, đặc biệt là nghiên cứu quyền sao chép
trong môi trường số một cách độc lập thì rất ít, có thể kể tới các công trình:
Khóa luận tốt nghiệp “Quyền sao chép: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của tác giả Cù Minh Ngọc (2016). Công trình nghiên cứu tuy đã lựa chọn quyền
sao chép làm đối tượng nghiên cứu độc lập, song vì nghiên cứu quyền sao chép một
cách tổng quát trong các lĩnh vực nên những nội dung liên quan đến quyền sao
chép trong môi trường kỹ thuật số còn ít, chỉ mang tính đề cập mà chưa gắn vào
môi trường kỹ thuật số để phân tích cụ thể.
Luận văn thạc sĩ “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số” của
tác giả Quản Tuấn An (2009) và Luận văn thạc sĩ “Bảo hộ quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số” của tác giả Phạm Hồng Hải (2016). Hai công trình tập trung


3

nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong
môi trường kỹ thuật số theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy đã đề cập đến
quyền sao chép trong môi trường số nhưng nhìn chung chưa được nghiên cứu
chuyên sâu, chưa phân tích được dưới góc độ lý luận, đặc biệt là phân tích quy định
liên quan đến quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số cũng như thực trạng
thực thi quy định còn hạn chế.
“Một số vấn đề về quyền tác giả trong thời đại kỹ thuật số theo Hiệp ước
WIPO về quyền tác giả”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2013, Dương Bảo
(2013): Bài viết nghiên cứu về một số nội dung của Hiệp ước WCT liên quan đến
khía cạnh quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số, và một sống đóp góp vào nỗ
lực tham gia WCT của Việt Nam trong tương lai

“Về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet”, ThS. Đỗ Khắc Chiến
(2014) công trình chủ yếu tập trung phân tích về bản sao tạm thời theo pháp luật
quốc tế, mặc dù có đề cập quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề nay nhưng nhìn
chung còn hạn chế.
Ngoài ra còn có các công trình khác như “Tác động của công nghệ đến bảo
hộ và thực thi quyền sao chép” của PGS. TS Trần Văn Hải (2016) và “Những
thách thức về mặt pháp lý trong việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường
Internet” của TS. Lê Thị Nam Giang (2015) tại Hội thảo khoa học quốc gia về thực
thi cam kết pháp lý của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do (FTAs) và
vấn đề bảo vệ quyền sao chép trong bối cảnh hội nhập tại Trường Đại học Kinh tế
quốc dân năm 2016; “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số: Nghiên
cứu kinh nghiệm áp dụng luật Hadopi của Cộng hòa Pháp”, Nguyễn Thị Vân
(2016),…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều tập trung phân tích các đặc điểm
của quyền tác giả, quyền sao chép nói chung và quyền tác giả trong môi trường kỹ
thuật nói riêng, những khó khăn, thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả trong
môi trường kỹ thuật số…Tuy nhiên đa số các công trình vì tập trung nghiên cứu
một cách tổng quát quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số nên việc phân tích
các nội dung về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số từ cơ sở lý luận đến
thực tiễn chỉ mang tính đề cập (bên cạnh những quyền khác của chủ sở hữu quyền
tác giả),mà chưa đưa ra được những đánh giá, phân tích chuyên sâu về quyền sao
chép trong môi trường số. Đặc biệt đối với đề tài nghiên cứu trong nước, vấn đề về
bản sao tạm thời tuy đã được đề cập nhưng chưa được nghiên cứu chuyên sâu dưới


4

góc độ thực tiễn cũng như quy định pháp luật, do đó chưa đưa ra những kiến nghị,
giải pháp liên quan đến vấn đề này.
Như vậy, qua các công trình đã công bố ở trên, có thể nhận thấy, chưa có

một công trình nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về quyền sao chép trong môi
trường kỹ thuật số. Vì vậy, có thể nói, luận văn là công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật
số theo pháp luật Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Theo quy định của Luật SHTT năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009
(gọi tắt là Luật SHTT sửa đổi 2009), quyền tác giả được xác định là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Nội dung quyền
tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, theo đó mỗi quyền được liệt kê
trên lại bao gồm các quyền năng cụ thể hơn. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu đề tài
này chỉ tập trung phân tích quyền sao chép với việc hiểu quyền tác giả theo nghĩa
hẹp là quyền dành cho các tác giả sáng tạo ra “tác phẩm văn học và nghệ thuật”
(bao gồm cả chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu), trong đó không bao hàm
quyền liên quan. Quyền sao chép với tư cách là quyền năng được ghi nhận của chủ
sở hữu thể hiện trên các khía cạnh, lĩnh vực của cuộc sống. Thay vì phân tích tổng
quan quyền sao chép nói chung trên các lĩnh vực, phạm vi nghiên cứu đề tài hướng
đến phân tích quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số theo quy định của pháp
luật Việt Nam song song với việc nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định đó
hiện nay như thế nào.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề
quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện nay. Qua đó làm sáng tỏ các luận cứ khoa học về quyền sao chép nói chung và
quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số nói riêng. Trên cơ sở đó, xây dựng và
kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện quy định về bảo hộ quyền tác giả trong
môi trường kỹ thuật số của Việt Nam hiện nay.
4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt những mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quyền sao chép;


5

- Phân tích được đặc điểm của quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số cũng
như chỉ ra được tác động của môi trường kỹ thuật số tới quyền sao chép;
- Tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định về quyền sao chép trong môi
trường kỹ thuật số hiện nay ở nước ta;
- Đánh giá toàn diện về thực trạng hoạt động thực thi quyền sao chép trong môi
trường kỹ thuật số ở nước ta hiện nay;
- Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền
sao chép nói chung và quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số nói riêng.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây được coi là
kim chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của tác giả
trong quá trình thực hiện luận văn.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra,
luận văn đã sử dụng những nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học. Cụ thể,
phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của
khái niệm quyền sao chép; phương pháp phân tích và bình luận được sử dụng để
đem lại góc nhìn đa chiều và làm rõ các quy định về quyền sao chép trong môi
trường kỹ thuật số theo quy định pháp luật hiện hành; phương pháp so sánh được
sử dụng để chỉ ra những điểm khác biệt của pháp luật SHTT Việt Nam và pháp luật
SHTT một số nước, Điều ước quốc tế về quyền sao chép trong môi trường số; làm
rõ những điểm tiến bộ và hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về quyền sao
chép trong môi trường kỹ thuật số; phương pháp diễn dịch, quy nạp và tổng hợp

được tác giả sử dụng để khái quát các ý chính trong từng vấn đề cụ thể, giúp cho
các ý tưởng trong luận văn được sáng rõ.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Là một đề tài nghiên cứu về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số,
luận văn có những đóng góp về khoa học và thực tiễn như sau:
 Ý nghĩa khoa học
Đề tài hệ thống hóa và làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số, sau đó đối chiếu với tình hình thực
hiện các quy định đó trên thực tiễn và rút ra các đánh giá, bình luận.


6

 Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc phân tích các vấn đề xung quanh thực trạng thực thi quyền sao
chép trong môi trường kỹ thuật số, đề tài còn đưa ra những giải pháp nhằm giải
quyết các vấn đề còn tồn tại. Các giải pháp này sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn:
Luận văn gồm Lời mở đầu, 3 chương, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Tổng quan về quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền sao chép
trong môi trường kỹ thuật số
Chương 3: Thực trạng bảo hộ quyền sao chép trong môi trường kỹ thuật số tại
Việt Nam và một số kiến nghị.


7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ QUYỀN SAO CHÉP TRONG MÔI
TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ
1.1. Khái quát chung về quyền sao chép
1.1.1. Khái niệm quyền sao chép
Một trong những khái niệm phổ biến và quan trọng nhất trong lĩnh vực
quyền tác giả nói riêng hay sở hữu trí tuệ nói chung chính là khái niệm “quyền sao
chép”. Với tư cách là một phạm trù pháp lý, quyền sao chép xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của quyền tác giả. Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng xuất xứ của quyền
sao chép cũng như quyền tác giả có quan hệ gần gũi với sự phát triển của ngành in.
Cụ thể phát minh về máy in xuất hiện vào khoảng năm 1440, các bản sao chép lại
của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn một cách dễ dàng
hơn. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa có được “quyền sao chép”, thay vào đó tác giả
thường được trả cho một số tiền cho bản viết tay của họ từ các nhà in hay nhà xuất
bản.
Trong khoảng thế kỷ XV đến XVII, điển hình là thời kỳ Phục Hưng, khi cá
nhân con người trở nên quan trọng hơn và đặc quyền tác giả được ban phát để
thưởng cho những sáng tạo của họ khi tạo ra tác phẩm. Khi các nhà xuất bản bắt
đầu trả tiền nhuận bút cho tác giả thì họ tin rằng cùng với việc này họ có được một
độc quyền kinh doanh (dựa trên thuyết về sở hữu của nhà xuất bản) ngay cả khi họ
không có đặc quyền cho tác phẩm này.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, chưa có một quốc gia nào ghi nhận về
đặc quyền này cho tác giả. Mãi đến thế kỷ XVIII, lần đầu tiên mới có các lý thuyết
về các quyền giống như sở hữu cho các lao động trí óc. Sớm nhất chính là Đạo luật
bản quyền của nước Anh năm 1710, Statue of Anne, lần đầu tiên một độc quyền
sao chép của tác giả được công nhận. Tác giả có thể nhượng quyền này cho nhà
xuất bản. Tác phẩm phải được ghi vào trong danh mục của hiệp hội các nhà xuất
bản và có thêm ghi chú copyright để được bảo vệ. Quyền tác giả, copyright – đó
chính là quyền sao chép. Ngay cả khi ra đời, bộ luật Statue of Anne vẫn chưa hề
đưa ra được khái niệm của quyền sao chép.
Khó mà xác định được quyền sao chép được ghi nhận lần đầu tiên tại văn

bản pháp luật của quốc gia nào. Nhưng với sự thay đổi của khoa học kỹ thuật trong
hàng trăm năm phát triển, bên cạnh mở rộng phạm vi bảo hộ quyền tác giả, khái


8

niệm và nội hàm quyền sao chép đã được mở rộng hơn không chỉ dừng lại là độc
quyền xuất bản những tác phẩm thể loại sách mà còn là “quyền tái tạo” lại tác
phẩm. Một số nhà nghiên cứu trước đây cho rằng quyền sao chép chỉ giới hạn trong
việc nhân bản đối với vật chất cụ thể thể hiện tác phẩm (ví dụ như photocopy 1
cuốn sách)1. Đồng quan điểm này E.Gavrilov cũng định nghĩa quyền sao chép như
là “sự lặp lại” tác phẩm dưới bất kỳ hình thức vật chất nào hay O. Iophie coi quyền
sao chép là việc nhân bản tác phẩm2. Các quan điểm của các luật gia cổ điển dường
như chỉ xem xét quyền sao chép ở phạm vi hẹp khi xem xét quyền sao chép phải
thể hiện trên các phương thức vật chất hữu hình. Quan điểm này chỉ phù hợp cho
những giai đoạn phát triển của những thập kỷ trước khi khoa học kỹ thuật còn yếu
kém. Quan điểm khác thì cho rằng quyền sao chép bao hàm bất kỳ hành động nào
thể hiện lại tác phẩm đến một số lượng người không xác định nào đó.3 Với quan
điểm này đặc tính nổi trội của quyền sao chép là tính giống hệt bản gốc có thể
không được thể hiện một cách chính xác, bởi “hành động thể hiện lại tác phẩm”
mang đặc điểm chủ quan cá nhân và thường dễ gây nhầm lẫn là sự trình diễn hoặc
truyền đạt tác phẩm.
Khái niệm về quyền sao chép đã được phát triển và được hiểu theo nghĩa
rộng hơn khi được ghi nhận tại Công ước Berne. Theo đó quyền sao chép bắt đầu
được ghi nhận trong Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm, văn
học, nghệ thuật ở lần sửa đổi năm 1967 tại Stockholm, quy định tại Điều 9 (1):
“Tác giả có các tác phẩm văn học nghệ thuật được Công ước này bảo hộ, được
toàn quyền cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kỳ phương thức, hình thức
nào”.4 Với sự phát triển của khoa học và công nghệ mà Công ước Berne 1967 đã
sử dụng thuật ngữ “tái tạo tác phẩm” có nghĩa rộng hơn thay cho “bản sao, bản in

tác phẩm” vốn được quy định tại các phiên bản của Công ước Berne được ghi nhận
trước đó. Việc sử dụng thuật ngữ “tái tạo tác phẩm” có nghĩa rộng hơn “bản sao,
bản in tác phẩm” vì “tái tạo tác phẩm” còn có thể điều chỉnh được quy định quyền
cho phép làm tác phẩm phái sinh. Bên cạnh đó, nội hàm trong quy định này đã thể
hiện rõ hơn sự mở rộng và phát triển của quyền sao chép so với các quan điểm về
PGS. TS. Nguyễn Thị Quế Anh( 2016), “Một số vấn đề lý luận về quyền sao chép và đánh giá sự
tương thích giữa các quy định về quyền sao chép trong TPP và Luật SHTT Việt Nam”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học quốc gia về thực thi các cam kết pháp lý của Việt Nam trong các hiệp định thương mại
tự do FTAs và vấn đề bảo vệ quyền sao chép trong bối cảnh hội nhập, tr.6;
2
PGS. TS Nguyễn Thị Quế Anh, tlđd chú thích 1, tr.7;
3
PGS. TS Nguyễn Thị Quế Anh, tlđd chú thích 1, tr.7, dòng 5;
4
Xem Điều 9(1) Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật.
1


9

quyền sao chép trước đó khi xác định sao chép là tái tạo lại tác phẩm dưới bất kỳ
hình thức nào và bất cứ phương tiện nào. Hình thức thể hiện không bó hẹp trong
những hình thức vật chất cụ thể hữu hình nhất định, đó có thể là hình thức ghi âm,
ghi hình, hình thức thể hiện hai chiều, hình thức thể hiện ba chiều,…Điểm “mạnh”
của khái niệm này chính là sẽ tồn tại một hoặc nhiều bản sao có đặc điểm giống hệt
bản gốc (thông qua hành vi sao chép), mà không quan tâm đến hình thức thể hiện
bản sao hay phương thức thực hiện sao chép.
Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới về quyền tác giả cũng ghi nhận
quan điểm này. Khoản 15 Điều 1 Luật Quyền tác giả Nhật Bản quy định: “Sao
chép là tái sản xuất một cách hữu hình bằng các phương pháp như in ấn, chụp ảnh,

sao chụp, ghi âm, ghi hình và bao gồm các hành vi sau đây: a) Ghi âm hoặc ghi
hình cuộc biểu diễn, phát sóng hoặc truyền tải hữu tuyến một vở kịch hoặc là các
tác phẩm cùng loại; b) Đối với một tác phẩm kiến trúc thì đó là việc dựa vào bản
vẽ để hoàn thành một công trình kiến trúc.” Điều 1270 BLDS Liên bang Nga quy
định về việc tác giả có độc quyền trong việc sử dụng tác phẩm dưới bất kỳ hình
thức nào và bằng bất kỳ phương thức nào, trong đó có quyền sao chép tác phẩm:
“Sao chép tác phẩm là việc chuẩn bị một hoặc nhiều bản sao tác phẩm hoặc một
phần tác phẩm dưới bất kỳ hình thức vật chất nào, trong đó có hình thức ghi âm,
ghi hình; tái tạo một hoặc nhiều bản sao tác phẩm hai chiều trên không gian ba
chiều; tái tạo một hoặc nhiều bản sao tác phẩm ba chiều trên không gian hai chiều.
Việc ghi lại tác phẩm trên phương tiện điện tử trong đó việc ghi lại trong bộ nhớ
máy tính cũng được coi là sao chép tác phẩm trừ trường hợp bản ghi đó là bản ghi
tạm thời và tạo thành một phần đáng kể, không thể thiếu của quy trình kỹ thuật có
mục đích duy nhất là nhằm sử dụng hợp pháp bản ghi hoặc truyền tải tác phẩm
một các hợp pháp đến công chúng”. “Tái bản tác phẩm được bảo hộ dưới dạng
bản sao hoặc bản ghi”
Như vậy, quyền sao chép có thể được hiểu là quyền đối với việc tái tạo lại
đối tượng quyền tác giả dưới hình thức gốc hoặc bất kỳ hình thức nào, trong đó
có cả hình thức kỹ thuật số. Quyền sao chép là khả năng được pháp luật thừa nhận
đối với việc sử dụng tác phẩm dưới hình thức thể hiện ban đầu hoặc hình thức thể
hiện khác so với hình thức thể hiện ban đầu của các tác phẩm thông qua việc tái tạo


10

lại tác phẩm trên bất kỳ phương tiện nào cho phép chuyển và nhận một hoặc nhiều
hơn bản sao tác phẩm hoặc một phần tác phẩm5.
1.1.2. Đặc điểm của quyền sao chép
Thứ nhất, quyền sao chép là một trong những quyền tài sản quan trọng nhất
của chủ sở hữu quyền tác giả. Xuất phát từ tính vô hình của các tài sản trí tuệ, các

tác phẩm cũng như các tài sản trí tuệ khác có khả năng cho phép nhiều người cùng
có thể khai thác cùng một thời điểm ở nhiều địa điểm khác nhau mà không làm mất
hay giảm giá trị của các tài sản này. Cũng xuất phát từ tính vô hình này, các tác
phẩm khi được công bố có thể bị truyền đạt, bị sao chép, phân phối một cách rất dễ
dàng với số lượng lớn mà chủ sở hữu rất khó kiểm soát hiệu quả. Với sự phát triển
của khoa học công nghệ, các máy photocopy, máy scan và các thiết bị dùng sao
chép khác ngày càng hiện đại đã làm cho việc sao chép tác phẩm với một số lượng
rất lớn trong một thời gian ngắn được tiến hành một cách dễ dàng, chất lượng gần
như bản gốc nhưng giá thành rẻ hơn rất nhiều. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ
của công nghệ thông tin, việc sử dụng phổ biến các thiết bị đầu, cuối đã làm cho
việc sao chép tác phẩm trong môi trường số gần như không kiểm soát được với bản
sao có chất lượng hoàn toàn như bản gốc. Việc cho phép sao chép tác phẩm và thu
lợi ích kinh tế từ hành vi này là một trong những hình thức khai thác tác phẩm phổ
biến nhất, mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả những lợi ích kinh tế
to lớn. Ngược lại, việc sao chép trái phép các tác phẩm sẽ làm tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả mất lợi nhuận từ việc khai thác tác phẩm. Vì vậy, quyền sao chép
được coi là quyền tài sản quan trọng nhất của chủ sở hữu quyền tác giả, là độc
quyền của chủ sở hữu quyền tác tác cho phép hay ngăn cấm người khác sao chép
tác phẩm của mình.
Thứ hai, quyền sao chép đảm bảo cho việc thực hiện hầu hết những quyền
năng còn lại đối với tác phẩm. Quyền sao chép có một vị trí hết sức quan trọng
trong hệ thống các quyền năng khác đối với tác phẩm bởi quyền sao chép tạo ra
điều kiện để thực thi các quyền năng khác của tác giả. Quyền năng khác của tác giả
mà pháp luật ghi nhận không chỉ dừng lại là quyền sao chép, đó có thể quyền phân
phối, quyền truyền đạt, quyền cho thuê, quyền công bố,…Quyền phân phối của chủ
sở hữu, tác giả có thể là phân phối bản gốc hoặc bản sao. Trong xu hướng phát triển
đòi hỏi sự nhanh chóng kịp thời, phân phối bản sao tác phẩm được quan tâm hơn
5

PGS. TS Nguyễn Thị Quế Anh, tlđd chú thích 1, tr.6



11

cả, bởi không phải chủ thể nào cũng có quyền để phân phối bản gốc tác phẩm. Bản
sao tác phẩm được tạo ra trên cơ sở đồng ý của chủ sở hữu độc quyền sao chép, tạo
cơ sở cho việc phân phối bản sao tác phẩm. Sao chép tác phẩm chính là cơ sở để
tạo ra một số lượng bản sao phục vụ cho mục đích kinh tế khác của chủ sở hữu tác
giả hoặc chủ thể được chủ sở hữu, tác giả nhượng quyền, ví dụ như cho thuê bản
sao tác phẩm. Để tác phẩm tiếp cận đến công chúng một cách nhanh nhất, việc
công bố tác phẩm bên cạnh công bố chính bản gốc tác phẩm thì việc cho phép thực
quyền sao chép và tạo ra bản sao tác phẩm cũng chính là cách hỗ trợ cho việc công
bố tác phẩm được thực hiện ở nhiều địa điểm, không gian khác nhau.
Thứ ba, sao chép tác phẩm tạo ra khả năng thông báo về tác phẩm tới công
chúng một cách gián tiếp, trong đó, phương thức, hình thức và thể loại bản sao tác
phẩm không có ý nghĩa pháp lý. Điều này nhấn mạnh tới việc nhận được sự đồng ý
đối với hành vi sao chép từ chủ sở hữu là bắt buộc trong mọi trường hợp, trừ những
ngoại lệ do pháp luật quy định. Sau khi được chủ sở hữu đồng ý, việc thực hiện sao
chép đó bằng hình thức nào, phương tiện nào không còn ý nghĩa đối với chủ sở hữu
(trừ trường hợp có thỏa thuận về những hình thức, phương tiện cụ thể). Pháp luật
về quyền tác giả không quy định cụ thể những phương thức sao chép tác phẩm mà
thừa nhận sao chép tác phẩm là bất cứ hình thức tái tạo lại tác phẩm trên những vật
chất nhất định, trong đó có thể là hình thức bản in hoặc thông qua truyền thông kỹ
thuật số, ghi chép dữ liệu vào máy tính,… Bên cạnh đó, bản thân hành vi sao chép
chỉ tạo ra tiềm năng đưa tác phẩm tới công chúng. Do đó, số lượng bản sao tác
phẩm được tạo ra trong quá trình sao chép cũng không có ý nghĩa bởi hành vi sao
chép không đòi hỏi phải có một số lượng bản sao nhất định để đáp ứng được nhu
cầu hợp lý của công chúng.
Thứ tư, quyền sao chép không không yêu cầu tính sáng tạo và bản thân
quyền sao chép không phải là một quyền năng thể hiện tính sáng tạo. Tác phẩm là

thành quả lao động sáng tạo của tác giả được thể hiện dưới hình thức nhất định. Tác
phẩm phải do tác giả trực tiếp thực hiện bằng lao động trí tuệ của mình mà không
phải sao chép từ tác phẩm của người khác. Bản thân sản phẩm của lao động trí tuệ
mang tính tích lũy, không bị hao mòn, không cạn kiệt như khi sử dụng tài sản hữu
hình cho nên tác phẩm sẽ được nhiều người biết đến, sử dụng nếu có nội dung
phong phú và hình thức thể hiện sáng tạo được kết hợp bởi giá trị nghệ thuật, khoa
học và kinh nghiệm nghề nghiệp của tác giả. Nếu như đối tượng của quyền tác giả
luôn mang tính sáng tạo, hay tính sáng tạo là một đặc điểm quan trọng để xác định


12

tác phẩm đó có được bảo hộ hay không, thì quyền sao chép đối với đối tượng bảo
hộ không đặt ra vấn đề đó. Điều đó có nghĩa rằng không có một điều kiện nào yêu
cầu việc thực hiện quyền sao chép tác phẩm cũng phải theo một cách sáng tạo. Bởi
bản chất sao chép, theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa sao chép là “chép lại đúng y
như bản gốc”6, đã thể hiện nó là một hành vi không có tính sáng tạo. Hệ quả của
đặc tính này chính là pháp luật chỉ xác định có hay không việc sao chép toàn bộ
hay một phần tác phẩm mà không đặt ra vấn đề việc thể hiện nội dung sao chép đó
ở hình thức nào khác, có hay không có sự sáng tạo.
Thứ năm, liên quan đến quyền sao chép là bản sao tác phẩm có đòi hỏi việc
sao chép lại toàn bộ những yếu tố tạo thành tác phẩm hay chỉ một phần tác phẩm.
Về nguyên tắc, không chỉ trong trường hợp sao chép toàn bộ tác phẩm mà sao chép
một phần tác phẩm đều được thừa nhận là hành vi làm bản sao, bởi dung lượng và
tính chất của phần tác phẩm được sao chép không ảnh hưởng đến việc thừa nhận đó
là hành vi sao chép7. Một trong những ví dụ cụ thể về sao chép một phần tác phẩm
chính là trường hợp trích dẫn tác phẩm. Theo pháp luật một số nước, trích dẫn được
xem là trường hợp ngoại lệ của quyền sao chép, tuy nhiên ngay cả khi pháp luật ghi
nhận cho phép trích dẫn thì điều đó cũng không đồng nhất xem hành vi trích dẫn
không phải là sao chép. Tuy nhiên, bản thân hành vi sao chép được xem là trích dẫn

trong trường hợp dung lượng của phần được sao chép đã được thu hẹp, việc sắp đặt
đoạn trích dẫn trong tổng thể kết cấu nội dung dẫn đến khả năng đánh mất mối liên
hệ giữa phần sao chép với tác phẩm gốc hoặc phần sao chép này trở thành một nội
dung thông thường hay một câu văn thông thường mà mỗi người sử dụng có thể sử
dụng lặp đi lặp lại. Trong những trường hợp như thế có thể coi là không tồn tại
hành vi sao chép.
1.1.3. Đối tượng quyền sao chép
Đối tượng quyền sao chép cần được xem xét ở nghĩa rộng bao gồm trên
phương diện đối tượng có thể thực hiện sao chép lẫn dưới góc độ là các phương
thức sao chép mà quyền sao chép có thể hướng tới.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của quyền tác giả, do đó mà đối tượng
của quyền tác giả cũng chính là đối tượng của quyền sao chép. Đó là những sản
phẩm lao động trí tuệ của con người trong lĩnh vực văn học, nghệ, thuật và khoa
GS Hoàng Phê (chủ biên, 1994), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB Giáo dục, 1994,
tr818.
7
PGS. TS Nguyễn Thị Quế Anh, tlđd chú thích 1, tr.9
6


13

học được công nhận là tác phẩm, bao gồm: tác phẩm văn học, tác phẩm sân khấu,
tác phẩm âm nhạc, tranh, ảnh, chương trình máy tính cũng như sự trình diễn tác
phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình, tác phẩm nghe nhìn,…Đối tượng của quyền sao
chép phải là những tác phẩm đã được thể hiện dưới những hình thức vật chất nhất
định chứ không dừng lại mới chỉ là những ý tưởng sáng tạo. Chỉ khi những ý tưởng
sáng tạo bộc lộ dưới một hình thức vật chất nhất định thì điều đó không chỉ tạo cơ
sở cho việc tiếp cận, khai thác và hưởng lợi của những ý tưởng sáng tạo đó mà còn
là cơ sở để thực hiện quyền sao chép.

“Bản sao tác phẩm được làm ra bằng bất cứ phương tiện nào và bất cứ hình
thức nào, trong đó có bản ghi âm hoặc ghi hình được coi là sao chép tác phẩm”8.
Quyền sao chép có thể được thực hiện thông qua các hình thức cơ bản sau, đó có
thể là sự sao chép, tái tạo lại chính xác dạng thức giống tác phẩm gốc (sự thay đổi
về kích thước không phải là yếu tố quyết định đó có phải là sự sao chép chính xác
dạng thức của tác phẩm gốc hay không) hoặc là sự sao chép, tái tạo lại tác phẩm
gốc chính xác về mặt nội dung nhưng có sự thay đổi dạng thức thể hiện, do đó
quyền sao chép áp dụng trong các trường hợp sau đây:
Các phiên bản được tái tạo cho phép cảm nhận được chính xác về mặt vật
thể và cảm quan đối với tác phẩm viết và tác phẩm đồ họa ở bất kỳ kích cỡ nào
thông qua các hệ thống, phương pháp hoặc công cụ nhất định. Sự sao chép tác
phẩm hoặc lưu trữ bản sao tác phẩm dưới dạng điện tử, bao gồm cả dạng kỹ thuật
số, kỹ thuật quang hoặc các dạng máy đọc khác không được xem là phiên bản, trừ
trường hợp với sự hỗ trợ của các công cụ kỹ thuật sao lưu tạm thời mà sự sao chép
này được thực hiện với mục đích tạo ra phiên bản. Do đó phiên bản là bản tái tạo
tác phẩm mà hình thức của nó tương tự như hình thức thể hiện của tác phẩm được
sao chép mà không phải là bản tái tạo tác phẩm dưới dạng kỹ thuật số. Như vậy,
phiên bản là bản sao tác phẩm ở hình thức tương tự như hình thức của tác phẩm
được tạo ra với sự hỗ trợ của các công cụ, máy móc sao chép và thiết bị khác9. Hiểu
một cách đơn giản, nếu chúng ta thực hiện một bản sao quyển sách trên giấy thì đó
chính là phiên bản, còn nếu chúng ta sử dụng máy quét, máy ảnh kỹ thuật số để tạo
ra một bản sao kỹ thuật số thì đó không phải là phiên bản.

Cù Minh Ngọc (2016),“Quyền sao chép: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 14
9
PGS. TS. Nguyễn Thị Quế Anh, tlđd chú thích 1, tr. 11
8



14

Bản sao tác phẩm được thực hiện thông qua việc đưa tác phẩm hoặc một
phần tác phẩm vào hệ thống máy tính hoặc bộ nhớ bên trong hay bên ngoài của
máy tính.
Các ấn bản sử dụng phương pháp in hoặc bất kỳ phương thức đồ họa nào:
Khi chưa có những phát minh sáng tạo của con người hỗ trợ cho việc sao chép số
lượng lớn, sao chép truyền thống được kể đến sớm nhất lâu đời nhất chính là hành
vi sao chép bằng tay của con người. Cho đến khi máy in được ra đời và cải tiến
phát triển thì các tác phẩm sử dụng phương pháp in với mục đích nhân bản sao
chép một cách nhanh hơn và số lượng lớn hơn. Không chỉ dừng ở đó, các ấn bản
hiện nay còn có thể sử dụng các phương thức đồ họa như đánh máy chữ, offset10,…
Như vậy, xét theo nghĩa rộng ở mức độ “tái tạo”, đối tượng quyền sao chép không
chỉ dừng lại đơn thuần là các sản phẩm vật chất của các tác phẩm (sách, tài liệu in
ấn, băng, đĩa từ,…) mà còn bao gồm mọi hình thức ghi nhận lại tác phẩm: các công
cụ in ấn, phương pháp kỹ thuật đồ họa, ghi âm, ghi hình cùng với sự hỗ trợ của các
công cụ điện tử.
Các bản sao tác phẩm được tái tạo bằng phương thức kỹ thuật cơ khí dưới
dạng bản ghi âm và ghi hình. Các bản sao này được tạo ra phương thức kỹ thuật cơ
khí theo nghĩa rộng của thuật ngữ này, bao gồm các phương pháp điện tử.
Bản sao hai chiều được tạo ra từ tác phẩm thể hiện không gian ba chiều (ví
dụ như ảnh của bức tượng) hoặc bản sao ba chiều tạo ra từ tác phẩm thể hiện trong
không gian hai chiều (ví dụ như mô hình ngôi nhà từ bản vẽ thiết kế. Việc chuyển
đổi dạng thức thể hiện của tác phẩm không đồng nghĩa với việc đó không phải là
hành vi sao chép. Bởi trong trường hợp bản sao được tạo ra trên vật thể khác biệt
với vật thể dùng để thiện tác phẩm gốc (khắc lại bức trang vào đồ sức, khảm
trai,…) hoặc bằng phương pháp khác (chụp ảnh lại bức tranh, ngôi nhà,…) đều
được coi là hành vi sao chép. Xét trong lĩnh vực cụ thể là kiến trúc, pháp luật quyền
tác giả một số quốc gia quy định rằng việc xây dựng tòa nhà trên cơ sở bản vẽ cũng
là sự sao chép11.

Khái quát chung về môi trƣờng kỹ thuật số và quyền sao chép trong môi
trƣờng kỹ thuật số
1.2.1. Khái quát chung về môi trường kỹ thuật số
1.2.

PGS. TS. Nguyễn Thị Quế Anh, tlđd chú thích 1, trang 12
Điểm b khoản 15 Điều 2 Luật quyền tác giả Nhật Bản quy định rằng: “Đối với một tác phẩm kiến
trúc thì đó là việc dựa vào bản vẽ để hoàn thành một công trình kiến trúc” được xác định là sự sao
chép.
10
11


15

Kỹ thuật số là kiểu tín hiệu số và định dạng dữ liệu trong ngành điện tử, chỉ
bao gồm hai mức cao và thấp (trong máy tính là 0 và 1) tức là không liên tục, trong
điện tử và máy tính điện thế cao đại diện cho mức 1 và thấp đại diện cho mức 0. Kỹ
thuật số là kiểu tín hiệu số không liên tục, khác với kỹ thuật tương tự (analog) hay
còn gọi là hệ thống phi số sử dụng dải các giá trị liên tục để đại diện cho thông
tin12.
Các tín hiệu số tồn tại như các chuỗi số theo thời gian. Thường sử dụng các
bit (số) “0” và “1”.
Bit (viết tắt là b) là đơn vị thông tin. Bit có thể nhận một giá trị 0 hoặc 1. Nó
có thể được biểu diễn theo nhiều cách khác nhau. Có thể là trạng thái đóng hay mở
của mạch điện, một vết khắc tia laser trên bề mặt đĩa CD…Các bit có thể dùng để
thể hiện số tự nhiên trong hệ nhị phân.
Từ “số” trong thuật ngữ “kỹ thuật số” còn dùng để chỉ phương pháp lưu trữ
dữ liệu ở dạng số (nhị phân). Ví dụ hình ảnh kỹ thuật số - nghĩa là hình được lưu
trữ ở dạng số, tức các màu được mô tả bằng các bit.

Hệ nhị phân (hay hệ đếm cơ số 2) là một hệ đếm cùng hai ký tự để biểu đạt
một giá trị số, bằng tổng số các lũy thừa của 2. Hai ký tự đó thường là 0 và 1;
chúng được dùng để biểu đạt hai giá trị hiệu điện thế tương ứng (có hiệu điện thế
hoặc hiệu điện thế cao là 1 và không có, hoặc thấp là 0). Do đó ưu điểm là tính toán
đơn giản, dễ dàng thực hiện về mặt vật lý, chẳng hạn như trên các mạch điện tử, hệ
nhị phân trở thành một phần kiến tạo căn bản trong các máy tính hiện nay.
Tại sao phải có tín hiệu số (digital), đó là bởi vì tín hiệu số có một lợi thế nổi
trội so với kỹ thuật tương tự (analog) là có thể lưu giữ đơn giản và xử lý thông tin
được, ví dụ như CPU máy tính cũng chỉ hoạt động với mức 1 vôn và 0 vôn để xử lý
thông tin hay mọi người chỉ cần ghi âm ghi hình bằng cách đục các lỗ để tượng
trưng cho luận lý 0 và 1. Đĩa CD, VCD và DVD theo nguyên tắc này, người ta đục
lỗ rồi cho tia laser chiếu qua để đọc lại dữ liệu. Bên cạnh đó, kỹ thuật số cho khả
năng giao tiếp từ xa. Thay vì phát thanh truyền hình phải xử lý tín hiệu ở nhiều
mức, gây méo mó, nghẹt tiếng, sai màu… bây giờ chỉ còn truyền hai mức 0 và 1 dễ
truyền, hình ảnh âm thanh được giữ nguyên gốc. Thêm nữa là tính biến hóa của kỹ
Analog có nghĩa là tương tự, tương tự có nghĩa là tín hiệu lúc sau cũng có dạng tương tự như lúc
trước đó, nói tương tự không có nghĩa y chang mà tương tự về bản chất tín hiệu, nhưng sẽ khác về
cường độ tín hiệu lúc sau so với lúc trước, ví dụ như trong thiết bị điện tín hiệu analog là dòng điện,
trong cuộc sống analog có thể là tín hiệu âm thanh ta nghe, trong viễn thông là sóng điện từ,…
12


16

thuật số. Các chuỗi luận lý 0 và 1 dễ dàng được các nhà toán học xử lý biến hóa vô
cùng. Các mạch lọc số cho ra các âm thanh vòm (surround) đủ các kiểu nghe rất
hấp dẫn và hoành tráng. Các phương thức xử lý ảnh số cho ra vô vàn các ảnh ghép,
các kỷ xảo truyền hình mà tín hiệu tương tự không thể làm được13.
Như vậy, hiểu một cách đơn giản kỹ thuật số được hiểu là mô tả được hiện
tượng tự nhiên bằng một chuỗi theo thời gian của hai mức luận lý 0 và 1.

Môi trường kỹ thuật số hiểu theo nghĩa phổ quát nhất là chỉ tất cả tổ hợp các
yếu tố bên ngoài, bao trùm của một hệ thống kiểu tín hiệu và định dạng dữ liệu dựa
trên kỹ thuật số, ở dạng nhị phân với đơn vị là các bit, dùng hai ký tự để biểu đạt
một giá trị số (số), “0” và “1”, trên cơ sở tổng số các lũy thừa của 2, để định dạng
các kiểu tín hiệu và dữ liệu được mô tả bằng các bit. Chúng tác động lên hệ thống
này và xác định xu hướng và tình trạng của nó.
Hiện nay, kỹ thuật số đã thâm nhập và ứng dụng vào hầu hết các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội: máy tính cá nhân - PC, máy tính xách tay Laptop, máy tính kỹ thuật số - Digital camera, máy nghe nhạc kỹ thuật số - Ipod,
máy quay phim kỹ thuật số, điện thoại kỹ thuật số - Iphone, PDMA, máy chơi
Games, máy xem phim kỹ thuật số, truyền hình kỹ thuật số, Internet, thư điện tử,
trò chuyện trực tuyến, công cụ tìm kiếm trực tuyến, chia sẻ dữ liệu trực tuyến, âm
nhạc, truyền hình trực tuyến, thương mại điện tử - eCommerce, giáo dục điện tử eEducation, giáo dục từ xa - Distance learning, các phương tiện sao lưu giữ kỹ
thuật số, các thiết bị kỹ thuật số, ngôi nhà số…tất cả đã thâm nhập và chiếm lĩnh
mọi mặt của đời sống.
1.2.2. Những tác động của môi trường kỹ thuật số đến quyền sao chép
Sự ra đời của môi trường kỹ thuật số đã đưa tới cách mạng số hóa thông tin
âm thanh và hình ảnh, tạo ra một công cụ đầy sức mạnh có khả năng lưu trữ lượng
thông tin khổng lồ. Mạng lưới kỹ thuật số cho phép thông tin đã được số hóa có thể
được trao đổi nhanh chóng mà không thực sự cần đến phương thức chuyển giao vật
lý.

“Sự khác biệt giữa công nghệ Digital và Analog”, tại địa chỉ: amthanhphonghop.com/tin-tuc/sukhac-biet-giua-cong-nghe-digital-va-analog
13


17

Kết quả của công nghệ kỹ thuật số giúp cho thông tin hình ảnh, âm thanh,
văn bản được thể hiện hay lưu trữ trong một định dạng kỹ thuật số.14 Thông tin số
hóa được lưu trữ có một số đặc điểm liên quan đến chủ sở hữu quyền tác giả: (i)

thông tin có thể dễ dàng sao chép, dễ dàng truyền tải, dễ dàng sửa đổi và có thể sử
dụng được nhiều lần; (ii) bản sao được lưu trữ ở dạng kỹ thuật số sẽ có nội dung và
giá trị tương đương như bản gốc; (iii) các bản sao ở dạng thức kỹ thuật số này có
đặc điểm là rất gọn nhẹ; và (iv) các bản sao sau khi được thể hiện trong môi trường
kỹ thuật số có khả mang đến khả năng tìm kiếm và kết nối dễ dàng hơn.15 Ví dụ
như công nghệ MP3 cho phép nén bản thu âm dưới dạng kỹ thuật số, điều đó giúp
cho một khối lượng lớn âm thanh có thể được sao lưu và truyền tải dễ dàng trên các
tệp thông tin (files).
Với những đặc điểm nêu trên mà tác động của môi trường kỹ thuật số lên
quyền sao chép thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Dễ dàng thực hiện hành vi sao chép: Một tác phẩm khi đã được số hóa có
thể sao chép một cách dễ dàng, nhanh chóng, chi phí thấp mà chất lượng vẫn đảm
bảo. Từ một bản sao chép ban đầu lại tiếp tục được sao chép thành nhiều bản khác
mà vẫn giữ nguyên chất lượng và có thể đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu, hàng
triệu người trên thế giới. So sánh với công nghệ kỹ thuật trước đây, môi trường kỹ
thuật số đem lại khả năng rút gọn về mặt thời gian đối với khả năng sao chép tác
phẩm. Nếu như để tạo ra bản sao của một tác phẩm văn học, chúng ta sẽ phải sử
dụng các phương pháp in ấn, một bản sao tạo ra cần phải trải qua những quy trình
công đoạn nhất định, trong khi đó, môi trường kỹ thuật số lại cho ra bản sao trong
những khoảng thời gian chỉ tính bằng phần trăm giây.
Việc dễ dàng thực hiện hành vi sao chép đem lại cả những điểm tích cực và
tiêu cực đối với quyền sao chép của tác giả. Tận dụng môi trường kỹ thuật số để
cho ra số bản sao số lượng lớn, trong khoảng thời gian rất ngắn không chỉ tiết kiệm
về mặt chi phí cho tác giả so với phương pháp truyền thống, mà còn tạo ra tiềm
năng phát triển trong việc khai thác tác phẩm. Dù ở địa điểm nào, miễn tác phẩm
được định dạng dưới dạng kỹ thuật số, với các công cụ kỹ thuật số tác giả đều có
14

Dr. Thomas Dreier. M.C.J., Copyright Law and Digital Exploitantion of Work: The Current
Copyright Landscape in the Age of the Internet and Multimedia, International Law Publisher, at


15
Sharonda Williams (2001), The digital millennium copyright act and the European copyright
directive: legislative attempts to control digital music distribution, comment, 3 Loy. Intell. Prop. &
High Tech. J 35 2000-2001.


18

thể thực hiện dễ dàng sao chép tác phẩm hay việc cho phép người khác thực hiện
độc quyền sao chép (thông qua chuyển nhượng quyền tác giả hoặc chuyển quyền
sử dụng quyền tác giả) cũng trở nên đơn giản hơn thông qua mạng internet mà
không cần gặp mặt trực tiếp.
Tuy nhiên, với công nghệ kỹ thuật số phát triển hiện nay, mọi cá nhân, tổ
chức đều có thể dễ dàng thực hiện sao chép tác phẩm khi chưa được sự cho phép từ
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Hành vi xâm phạm này được thực hiện đơn giản
hơn nhiều lần khi so sánh trong môi trường truyền thống. Tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả ngay cả khi có những biện pháp kỹ thuật phòng ngừa cũng khó tránh
được tác phẩm của mình bị xâm phạm quyền sao chép. Khó phát hiện hành vi xâm
phạm quyền sao chép xuất phát từ đâu, vào thời điểm nào, ở đâu, gồm những chủ
thể nào, cũng như định lượng được thiệt hại thực tế là những thách thức mà môi
trường kỹ thuật số đem lại.
Dễ dàng lưu trữ các tác phẩm sao chép: Về bản chất công nghệ kỹ thuật số
hay cụ thể là Internet có thể lưu trữ một dung lượng lớn các thông tin được số hóa
và hàng năm giới hạn dung lượng đó lại được mở rộng ra rất nhiều. Chưa bao giờ
một khối lượng lớn thông tin lại có thể được lưu trữ trong một không gian ngày
càng nhỏ như ngày nay. Điều này làm cho một lượng lớn các tác phẩm được sao
chép được lưu trữ rất dễ dàng. Nếu như sao lưu trong môi trường truyền thống có
thể dẫn đến một khả năng làm mất tác phẩm bởi đặc tính vật liệu thực tế của hình
thức thể hiện tác phẩm ngay cả khi tạo ra khối lượng lớn các bản sao (có thể bởi

những nguyên nhân khách quan như thiên tai, cháy, nổ,…) thì việc sao lưu bản sao
tác phẩm trong môi trường kỹ thuật số, ví dụ trong đĩa CD, USB đặc biệt các trang
mạng điện tử có chức năng lữu trữ thông tin được xem là hình thức lưu trữ bản sao
phổ biến nhất và đem lại khả năng lưu trữ vĩnh cửu.
Một tác động tiêu cực của môi trường kỹ thuật số mang lại đó chính là mọi
cá nhân đều có khả năng lưu trữ dễ dàng bản sao chỉ cần sở hữu phương tiện kỹ
thuật số như máy tính PC, Laptop, USB, thẻ nhớ… Những phương tiện có khả
năng lưu trữ này trên thực tế càng ngày càng phát triển với đặc tính nhỏ gọn, tiện
ích, có thể mang theo dễ dàng, lại ẩn chứa nhiều tiềm năng cho khả năng lan truyền
bản sao một cách trái phép. Chưa kể với sự hỗ trợ của Internet, mọi cá nhân đều có
thể tạo các tập tin có khả năng lưu trữ thông tin bao gồm lưu trữ bản sao. Trong khi
để xác định hết các “địa điểm” lưu trữ bản sao trên Internet lại là công việc không
hề đơn giản.


19

Dễ dàng công bố, phổ biến các tác phẩm sao chép: Mạng Internet toàn cầu
cho phép phổ biến các tác phẩm dưới dạng số hóa một cách nhanh chóng trên toàn
thế giới, bên cạnh đó với công nghệ kỹ thuật số còn cho phép mỗi cá nhân có thể
trở thành chủ thể truyền phát, khiến cho số lượng phân phối các bản sao chép được
tăng theo cấp số nhân.
Khả năng truyền dẫn thông tin chính là một ưu điểm nổi bật nhất của hệ
thống kỹ thuật số. Nếu như trước đây việc công bố, phổ biến tác phẩm thường được
thực hiện một cách thủ công, lần lượt từ địa điểm này đến địa điểm khác thì với khả
năng hỗ trợ của kỹ thuật số, việc công bố, phổ biến tác phẩm sao chép chưa bao giờ
dễ dàng và hiệu quả hơn đến thế. Chỉ ở tại một vị trí bất kỳ, với kết nối Internet, tác
giả đã có thể thực hiện công bố, phổ biến các tác phẩm sao chép đến các đối tượng
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn có thể phạm vi toàn cầu. Khi khả năng
công bố, phổ biến tác phẩm sao chép được thực hiện đơn giản, đặc biệt nhanh

chóng hơn, tạo ra khả năng phát triển kinh tế trong việc khai thác tác phẩm của tác
giả.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm mà môi trường kỹ thuật số đối với việc
công bố và phổ biến tác phẩm sao chép, nó cũng đem lại những rủi ro đáng lưu
tâm. Việc công bố, phổ biến tác phẩm sao chép trong môi trường kỹ thuật số được
thực hiện càng nhanh về mặt thời gian so với thời điểm công bố tác phẩm thì lại
càng dễ tạo cơ hội cho các hành vi xâm phạm bản sao được thực hiện nhanh chóng
trong trường hợp việc kiểm soát công bố, phân phối bản sao không được chặt chẽ.
Với một bản sao vừa công bố, phổ biến thì ngay ngày hôm sau có thể chúng ta đã
nhìn thấy các bản sao trái phép được tung lên mạng. Điều này làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc khai thác giá trị kinh tế không chỉ đối với các bản sao của
tác phẩm mà còn là chính tác phẩm, gây tổn thất lớn đến chủ sở hữu quyền tác giả.

Môi trường kỹ thuật số đặt ra những vấn đề pháp lí mới đối với quyền sao
chép và quyền tác giả
Công nghệ số cho phép sử dụng dữ liệu để biểu diễn và lưu trữ mọi tư liệu
được thể hiện dưới hình thức đồ thị hoặc âm thanh. Với công nghệ hiện tại, thông
tin được truyền thông qua mạng Internet sử dụng một công nghệ được biết đến
rộng rãi mang tên “nối chuyển gói” (packet switching). Đặc biệt thông tin chuyển
đi thông qua mạng được chia nhỏ hơn thành các đơn vị thông tin hoặc gói thông
tin, các gói thông tin hoặc các đơn vị thông tin này sẽ được gắn hiệu ứng theo vị trí
tương thích của chúng. Các gói dữ liệu sau đó sẽ được chuyển qua mạng dưới các


×