Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Thực hiện chính sách NCC với cách mạng từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.29 KB, 63 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI TẤN CƯỜNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NCC
VỚI CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
TAM KỲ TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – năm 2018

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI TẤN CƯỜNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành

: Chính sách công

Mã số

:



834 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM MINH PHÚC

HÀ NỘI - 2018

2


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam liên tục phải đối
mặt với chiến tranh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở thế kỉ XX,
những tổn thất của nhân dân ta về người và của, về cơ hội để phát triển đất nước là
vô cùng to lớn, không chỉ ảnh hưởng đến những người của thời chiến đã trực tiếp
tham gia và đã đóng góp công sức vào cuộc kháng chiến “thần thánh” đó, mà những
di chứng của nó vẫn gieo rắc lên các thế hệ tương lai.
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đền ơn đáp nghĩa với NCC bảo vệ tổ quốc là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những vết thương
vẫn còn đau buốt trên thân thể những người lính; nỗi cơ đơn của những người vợ,
người mẹ, thân nhân liệt sĩ vẫn còn đó; đó chính là những tổn thất và thể xác và tâm
hồn mà NCC và thân nhân của họ phải gánh chịu.
Vì vậy, chúng ta phải có trách nhiệm thương yêu, giúp đỡ NCC và thân nhân
của họ. Việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sỹ, chăm sóc thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ cách mạng là bổn phận, trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội với tinh thần đền ơn đáp nghĩa nghĩa, tri ân đối
với NCC. Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng, Nhà nước ta khẳng định thực
hiện tốt chính sách ưu đãi đối với NCC vừa là tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm

cao cả của cả hệ thống chính trị và toàn dân đối với người có cách mạng, đồng thời
là giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ, đồng chí Nguyễn Phú
Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Các anh hùng liệt sĩ đã
anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Suốt mấy chục năm qua,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chế độ đối với thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người và gia đình có công giúp đỡ cách mạng và thường

3


xuyên bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, đến nay đã hình
thành một hệ thống chính sách mà các nội dung đều gắn liền với việc thực hiện
chính sách kinh tế - xã hội và liên quan đến đời sống hàng ngày của hàng triệu
NCC. Các chính sách ưu đãi này đã góp phần xoa dịu nỗi đau, giảm bớt những khó
khăn về vật chất trong cuộc sống hành ngày, là nguồn động viên, khích lệ NCC
vươn lên trong cuộc sống.
Tuy nhiên, do Việt Nam là một nước nghèo, thiên tai hạn hán, lũ lụt thường
xuyên, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn, nguồn
lực của Nhà nước chỉ đáp ứng một phần, nên công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc
sức khỏe và nâng cao đời sống cho NCC với cách mạng vẫn còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, thực tế thực hiện chính sách còn nhiều tồn tại từ nhiều nguyên
nhân khác nhau mà gây khó khăn, cản trở cho cả cán bộ, công chức thực hiện chính
sách và khó khăn cho người thụ hưởng chính sách. Ví dụ: Pháp lệnh Ưu đãi NCC
tuy đã được sửa đổi, bổ sung kịp thời, nhưng một số văn bản hướng dẫn thực hiện
Pháp lệnh vẫn chưa bảo đảm sự thống nhất. Một số quy định liên quan công tác xác
nhận NCC, thực hiện chính sách ưu đãi… còn bất cập, gây khó khăn cho công tác tổ
chức, thực hiện. Đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách ưu đãi ngày càng mở
rộng, chế độ ưu đãi ngày càng nâng cao, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu

thực tế, nguyện vọng chính đáng của đối tượng NCC; vẫn còn đối tượng NCC chưa
được công nhận để thụ hưởng chính sách ưu đãi; đời sống của một bộ phận NCC
còn gặp nhiều khó khăn…
Xuất phát từ yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc và lý do như đã nêu ở trên, nên tôi đã lựa chọn vấn đề “Thực hiện chính
sách NCC với cách mạng từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp của mình.

4


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những nghiên cứu, bài viết, đánh giá về thực hiện chính sách NCC với cách
mạng tại các địa phương cụ thể đã được những nhà hoạch định chính sách, các tác
giả và độc giả quan tâm. Đến nay, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu cũng
như sách, báo, tạp chí viết về vấn đề này, tiêu biểu như:
- Cuốn sách “Một số vấn đề chính sách xã hội ở nước ta hiện nay” của tác
giả Hoàng Chí Bảo. Tác giả khẳng định: Chính sách xã hội không ngừng thay đổi
để phù hợp với đối tượng áp dụng. Đất nước ngày càng phát triển thì việc yêu cầu
các chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với lợi ích của đối tượng. Chính
sách đối với NCC được thay đổi qua các thời kỳ, sự thay đổi đó có những mặt tích
cực và tiêu cực trong việc triển khai, thực hiện chính sách.
- Luận án Phó tiến sỹ Luật học (1996) “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi NCC ở
Việt Nam - Lý luận thực tiễn” của tác giả Nguyễn Đình Liêu. Luận án đã nêu những
vấn đề cơ bản như: Khái niệm Pháp luật ưu đãi NCC, lịch sử hình thành và phát triển
của pháp luật này, thực trạng của pháp luật này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
và việc hoàn thiện pháp luật ưu đãi NCC.
- Trong cuốn “Những điều cần biết về chính sách với NCC”, tác giả đã nêu
rõ những căn cứ pháp lý về thực hiện chính sách ưu đãi với NCC ở nước ta. Bài viết
đã đề cập đến các căn cứ pháp lý cụ thể và rõ ràng để mọi người và chính bản thân

NCC biết được những quyền lợi nào họ được hưởng.
- Năm 2005, Nguyễn Thị Hằng, nguyên Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH có bài:
Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia
đình liệt sỹ, NCC với cách mạng trên Tạp chí Cộng sản số 7/2005.
- Bài “Chủ trương của Đảng đối với thương binh, liệt sỹ thời kỳ đổi mới”
của tác giả Nguyễn Danh Tiên đăng trên Tạp chí Khoa học Quân sự tháng 7/2012.
Bài viết đã khái quát những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với công tác thương binh, liệt sỹ từ năm 1986 đến năm 2012. Đồng thời, đưa ra
những đánh giá thực trạng để thấy được sự bất cập, những tồn tại quá trình thực
hiện.

5


- Cũng trong năm 2012, Nguyễn Duy Kiên - Phó Cục trưởng Cục NCC, Bộ
LĐTBXH có bài Chính sách NCC - là trách nhiệm của toàn dân, Tạp chí Tuyên
giáo số 7/2012. Bài viết này đã khái quát một số thành tựu của chính sách ưu đãi
NCC trong những năm qua, đi sâu vào đánh giá tìm hiểu nguồn lực thực hiện chính
sách ở nước ta. Tác giả bài viết nhận định: Đối với việc thực hiện các nguồn trợ cấp,
ưu đãi thường xuyên đối với NCC với cách mạng thì Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nguồn lực này có ý nghĩa lớn đối với việc ổn định đời sống của NCC, bởi lẽ họ
thường là những người không có lương cũng như bảo hiểm xã hội.
Các bài viết, các nghiên cứu trên đã góp phần vào việc đánh giá, nhận định
các vấn đề về chính sách, thực hiện chính sách ưu đãi đối với NCC với cách mạng.
Luận văn “Thực hiện chính NCC với cách mạng từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam” tuy không thuộc một chủ đề mới, nhưng điểm mới của luận văn
chính là tìm hiểu, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách NCC với cách mạng trên
địa bàn cụ thể là thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam; điều này có ý nghĩa quan
trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách ưu đãi xã hội với đối
tượng NCC với cách mạng trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các khái niệm, các vấn đề lý luận về thực hiện chính sách NCC với
cách mạng để có cơ sở khoa học đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tại thành
phố Tam Kỳ; nêu lên những tồn tại, hạn chế, phân tích các nguyên nhân, từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách NCC với cách mạng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các khái niệm, quan điểm dưới góc độ lý luận và thực tiễn về
thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở nước ta.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách NCC với cách mạng
tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách NCC với cách mạng ở thành phố Tam Kỳ.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

6


4.1 Đối tượng nghiên cứu
Là toàn bộ chính sách, chủ thể thực hiện chính sách, các điều kiện thực hiện
chính sách NCC.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quan điểm, chính sách, tình hình thực hiện chính sách NCC
ở Việt Nam; thực trạng thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến nay và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở nước ta trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng, đặt
vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ với các vấn đề xung quanh và trong mối

quan hệ giữa lý thuyết với thực tế.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên việc khai thác thông tin dữ liệu từ các nguồn
có sẵn liên quan, bao gồm: các văn bản của Đảng, Nhà nước ở cả Trung ương và địa
phương; thu thập thông tin trên mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và công
trình nghiên cứu khác như các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành
đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp, gián tiếp tới vấn đề chính sách NCC với
cách mạng ở nước ta nói chung và thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Ý nghĩa lý luận của luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý
luận về thực hiện chính sách công ở Việt Nam nói chung và thực hiện chính sách
NCC với cách mạng thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thể hiện ở chỗ đã đề xuất các giải pháp mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, các
kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách NCC với
cách mạng tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về chuyên đề chính

7


sách ưu đãi xã hội, chính sách ưu đãi NCC với cách mạng chuyên ngành chính sách
công ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Các khái niệm về thực hiện chính sách NCC với cách mạng.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với NCC với cách mạng
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách đối với NCC với cách mạng ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN

8


CHƯƠNG 1
CÁC KHÁI NIỆM VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1 . Khái niệm NCC với cách mạng và chính sách NCC với cách mạng
1.1.1. Người có công
Cho đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu lịch sử nào đề cập đến khái
niệm NCC; tuy nhiên, từ các dấu tích lịch sử để lại như đền thờ, miếu thờ, đình
làng... được Nhân dân lập ra để thờ cúng Thành hoàng làng, những anh hùng kiệt
xuất trong lịch sử dân tộc, thậm chí một số nhân vật truyền thuyết đã có công lập
nước, lập làng, mở mang bờ cõi hoặc có công lao trong các cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm; có thể suy luận rằng quan niệm về NCC trong lịch sử khá rộng,
không chỉ là những NCC trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, mà còn
bao gồm cả những NCC đóng góp công sức để mở mang bờ cõi, lập nước, lập làng
giúp dân vượt qua thiên tai, địch họa.
Tuy nhiên, khái niệm thương binh, liệt sĩ chính thức được sử dụng, đề cập
trong các văn bản cùng với sự thành công của Cách mạng tháng Tám và sự ra Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Càng về sau thì các đối tượng càng được mở
rộng hơn và được gọi chung là: NCC. Khái niệm “NCC” được gắn với việc quy
định chế độ chính sách ưu đãi trong Pháp lệnh ưu đãi NCC với cách mạng năm
1994 và được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và 2012 như sau:
(1) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 - 01 - 1945 là người tham gia
hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945; được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Đông Dương hoặc được kết nạp lại trước ngày 19-8-1945, được cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền công nhận theo quy định tại Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 24-12-1977 của

Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) về chính sách, chế độ đối với cán bộ, đảng
viên hoạt động lâu năm và Thông tri số 07-TT/TC ngày 21-3-1979 của Ban Tổ
chức Trung ương hướng dẫn vận dụng tiêu chuẩn và xác nhận những đối tượng
hưởng chính sách, chế độ đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 19-8-

9


1945 [14, tr.2].
(2) Người HĐCM từ ngày 01- 01-1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 là người hoạt động cách mạng thoát ly người đã tham gia trong các tổ chức
cách mạng, lực lượng vũ trang từ cấp huyện hoặc cấp hành chính tương đương trở
lên trong khoảng thời gian từ ngày 01-01-1945 đến ngày khởi nghĩa của từng địa
phương và sau đó tiếp tục tham gia một trong hai cuộc kháng chiến (trừ trường hợp
do yêu cầu giảm chính, phục viên hoặc không đủ sức khỏe) [14, tr.5].
(3) Liệt sĩ là người hy sinh thuộc một trong các trường hợp: Chiến đấu bảo
vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; trực tiếp phục vụ chiến
đấu trong khi địch bắn phá: tải đạn, cứu thương, tải thương, đảm bảo thông tin liên
lạc, cứu chữa kho hàng, bảo vệ hàng hóa và các trường hợp đảm bảo chiến đấu; làm
nghĩa vụ quốc tế mà bị chết trong khi thực hiện nhiệm vụ hoặc bị thương, bị bệnh
phải đưa về nước điều trị và chết trong khi đang điều trị; trực tiếp tham gia đấu
tranh chống lại hoặc ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc các tội
được quy định trong Bộ luật Hình sự; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy
hiểm phục vụ quốc phòng và an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà
nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn trong khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng và
an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của
pháp luật; khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ
quan có thẩm quyền giao… [14, tr.8].
(4) Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Danh hiệu cao quý này được ban hành theo
Pháp lệnh ngày 29 tháng 8 năm 1994 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và được quy định trong Luật Thi đua khen thưởng
năm 2003.
(5) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: là danh hiệu cao quý được Nhà
nước phong tặng hoạt truy tặng theo quy định của pháp luật.
(6) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến bao gồm: là danh hiệu
cao quý được Nhà nướctuyên dương vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong
lao động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
(7) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh là người bị

10


thương trong các trường hợp: chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia; trực tiếp phục vụ chiến đấu trong khi địch bắn phá: tải đạn,
cứu thương, tải thương, đảm bảo thông tin liên lạc, cứu chữa kho hàng, bảo vệ hàng
hóa và các trường hợp đảm bảo chiến đấu; hoạt động cách mạng hoặc hoạt động
kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại
thương tích thực thể; Làm nghĩa vụ quốc tế mà bị thương trong khi thực hiện nhiệm
vụ… [14, tr.12].
(8) Bệnh binh là người bị mắc bệnh thuộc một trong các trường hợp sau:
chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; trực tiếp
phục vụ chiến đấu trong khi địch bắn phá; hoạt động liên tục ở địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật từ 15 tháng trở lên;
hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định
của pháp luật chưa đủ 15 tháng nhưng có đủ 10 năm trở lên công tác trong quân đội
nhân dân, công an nhân dân…. [14, tr.16].
(9) Người HĐKC bị nhiễm CĐHH là người được cơ quan có thẩm quyền
công nhận đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ ngày 01 tháng 8 năm 1961
đến 30 tháng 4 năm 1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học
ở chiến trường B, C, K; mắc bệnh theo danh mục bệnh tật do Bộ Y tế quy định làm

suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên; vô sinh; sinh con dị dạng, dị tật theo
danh mục dị dạng, dị tật do Bộ Y tế quy định [14, tr.18].
(10) Người hoạt động cách mạng hoặc HĐKC bị địch bắt tù, đày: là người
được tham gia hoạt động cách mạng mà bị tù đày. Trong thời gian bị tù, đày người
đó không khai báo các vấn đề, nội dung có hại cho cách mạng, cho kháng chiến; họ
không làm tay sai, chỉ điểm cho địch.
(11) Người HĐKC giải phóng dân tộc [14, tr.22].
(12) Người giúp đỡ cách mạng: là người đã có công giúp đỡ cách nmangj và
được cơ quan có thẩm quyền công nhận [14, tr.22].
1.1.2. Nhu cầu, đặc điểm của NCC với cách mạng
1.1.2.1. Nhu cầu của NCC với cách mạng

11


NCC với cách mạng cũng như bao người dân bình thường khác trong xã hội,
đều có nhu cầu, mong muốn có gia đình đông đủ, sum vầy, mạnh khỏe, có
cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ, ấm no và hạnh phúc, có điều kiện, cơ hội
vươn lên làm giàu chính đáng. Tuy nhiên, NCC là người đã tham gia kháng chiến,
bản thân họ có những thiệt thòi nhất định về sức khỏe, tinh thần, khuyết, thiếu
những điều kiện, cơ hội phát triển như những thành phần khác trong xã hội; đại
đa số những đối tượng này đều ở trong hoàn cảnh rất khó khăn, cần được quan tâm,
chăm sóc, chia sẻ, động viên, hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của NCC với cách mạng
Vì đã trải qua những cuộc chiến nên NCC với cách mạng là những người
luôn luôn trân trọng quá khứ, tự hào về những công lao đóng góp của bản thân và
gia đình cho sự nghiệp cách mạng. Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ tổ quốc, vì mảnh đất máu thịt của quê hương, đất nước, họ đã không
ngại hy sinh tuổi thanh xuân, thân thể, sinh mạng, tài sản để cống hiến cho công
cuộc đấu tranh giành tự do cho đất nước, độc lập cho dân tộc.

Khi đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, thời thanh xuân trẻ trung,
sôi nổi đã qua đi, thậm chí có nhiều người mất đi một phần thân thể của mình, mang
trong mình những vết thương không lành, làm ảnh hưởng tới sức khỏe, gây ra nỗi
đau về thể xác, bệnh tật cho bản thân và tốn kém chi phí chữa bệnh của gia đình. Về
với cuộc sống đời thường, họ vẫn luôn sống gương mẫu, luôn thể hiện tinh thần đấu
tranh quyết liệt với những tiêu cực của xã hội. Như vậy, có thể thấy, NCC là những
người có uy tín, có sự ảnh hưởng, để vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh
đất nước không ngừng phát triển theo quy luật khách quan; môi trường, điều kiện
của nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường đòi hỏi sự nhanh nhạy, thích nghi và
không “ưu tiên” cho người không bắt kịp xu thế; do đó với hoàn cảnh khó khăn, đôi
lúc họ cũng có tâm trạng mặc cảm, cảm thấy mình bị thiệt thòi, thua thiệt, mất mát
hơn so với những người xung quanh.
1.1.3. Chính sách công

12


Luận văn đầy đủ ở file: Luận văn Full















×