Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã từ thực tiễn huyện hóc môn, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 76 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy hành chính, hệ thống chính trị cấp xã có vai trò rất quan
trọng, là cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, huy động khả năng cộng đồng
dân cư để phát triển kinh tế - xã hội địa phương, góp phần tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân.
Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp xã bao gồm: cán bộ cấp xã,
công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã; đội
ngũ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là lực lượng quan
trọng, góp phần không nhỏ cùng với đội ngũ cán bộ cấp xã, công chức cấp xã
thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương, là lực lượng tích cực xây dựng hệ thống
chính trị ở cơ sở, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ở địa phương phát triển.
Trải qua quá trình hoạt động, củng cố bộ máy hành chính cấp xã, chế độ,
chính sách của cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã được nâng lên rõ rệt,
phần nào đáp ứng cơ bản về điều kiện sống, tạo tâm lý an tâm công tác, công
hiến xây dựng bộ máy chính quyền cấp xã.
Bên cạnh cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã, Ủy ban nhân dân
cấp xã còn có đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách, mặc
dù hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và Thành phố có
điều chỉnh về chế độ, chính sách đối với đối tượng này, tuy nhiên, trên thực tế
khi thực thi các quy định về chế độ, chính sách đối với những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã thì vẫn còn nhiều bất cập, như: chưa thống
nhất về tên gọi, chức danh những người hoạt động không chuyên trách cấp xã,
mức phụ cấp còn thấp so với công việc đảm nhiệm, chế độ đào tào, bồi dưỡng
1


còn hạn chế, chế độ bảo hiểm xã hội chưa được đầy đủ, … tạo tâm lý không
an tâm công tác trong đối tượng này.
Do đó, nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách đối với những người


hoạt động không chuyên trách cấp xã từ thực tiễn huyện Hóc Môn, Thành
phố Hồ Chí Minh” là cần thiết, phù hợp, qua đó thống nhất các chức danh
cũng như nâng cao chế độ, chính sách đối với những người không chuyên
trách cấp xã, tạo động lực để đội ngũ không chuyên trách cấp xã công hiến
tâm sức góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Các công trình nghiên cứu liên quan đến chế độ, chính sách của đội ngũ
nhân sự tại bộ máy chính quyền địa phương trước đây đều chủ yếu hướng về
đối tượng là cán bộ, công chức, các văn bản của Trung ương và thành phố
cũng quy định cụ thể, thống nhất chức danh, chế độ, chính sách của cán bộ và
công chức cấp xã.
Riêng đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
hiện nay còn quy định rất chung chung, chế độ, chính sách của đối tượng này
rất thấp, chưa được quan tâm đúng mức.
Việc phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong quy định về chức
danh, chế độ, chính sách của những người hoạt động không chuyên trách cấp
xã theo đề tài này được nghiên cứu từ thực tiễn quy định chung và tại huyện
Hóc Môn hiện nay nhằm đề ra giải pháp đổi mới và hoàn thiện các chế độ,
chính sách liên quan đến đối tượng này, nhằm nâng cao hiệu quả công tác,
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại địa phương, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hành chính ở cơ sở.
Điều này cho phép tác giả có cơ sở khẳng định tính cấp thiết của vấn đề
trong đề tài luận văn của mình.
2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức danh, chế độ, chính sách của những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã theo các quy định hiện nay; nêu

lên thực trạng về chức danh, chế độ, chính sách của những người hoạt động
không chuyên trách tại huyện Hóc Môn; nêu lên quan điểm, giải pháp nhằm
thống nhất về số lượng và tên gọi chức danh của những người hoạt động
không chuyên trách; nâng cao chế độ, chính sách đối với những người hoạt
động không chuyên trách để tạo tâm lý an tâm công tác, cống hiến tâm sức
trong quá trình thực thi nhiệm vụ tại địa phương đối với đối tượng này.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là
Phân tích rõ ràng các cơ cở lý luận về chức danh, chế độ, chính sách của
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã hiện nay.
Phân tích rõ thực trạng về chức danh, chế độ, chính sách của những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã tại huyện Hóc Môn hiện nay, nêu
ra những điểm bất cấp, hạn chế cần khắc phục.
Xác định nguyên nhân và đề ra các giải pháp, phương pháp phù hợp, khả
thi nhằm góp phần thống nhất các chức danh, cải thiện chế độ, chính sách đối
với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã hiện nay tại huyện
Hóc Môn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Là các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng những nội dung quy định
liên quan đến cơ sở lý luận về chức danh, chế độ, chính sách của những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã; thực trạng về chức danh, chế độ, chính
3


sách của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã từ thực tiễn
huyện Hóc Môn hiện nay.
Cụ thể, luận văn sẽ phân tích những tồn tại, bất cập về chức danh, chế
độ, chính sách của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã khi áp
dụng các văn bản quy định của cấp trên trong giai đoạn hiện nay; từ đó xác
định nguyên nhân để đề ra các biện pháp, giải pháp phù hợp, khả thi nhằm

điều chỉnh cho phù hợp thực tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã nói chung và tại huyện
Hóc Môn nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về các chế độ, chính sách và tình hình
thực hiện các chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã từ thực tiễn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta quy định về chức
danh, chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử,….
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về chức
danh, chế độ, chính sách và thực hiện chính sách đối với những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
4


Tác giả của luận văn sẽ đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn các quy định về chức danh, chế độ, chính sách và việc thực hiện chính
sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã nói chung và
tại huyện Hóc Môn nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cầu thành 3 chương cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã tại huyện Hóc Môn.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách và thực hiện
chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.

5


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH
Ở CẤP XÃ
1.1. Lý luận chung về thực hiện chính sách công
1.1.1. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa của thực hiện chính sách công
a) Khái niệm chính sách công
Thuật ngữ “chính sách” hay “chính sách công” đã được dùng khá phổ
biến trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội. Hiện nay có nhiều định
nghĩa khác nhau về các khái niệm này.
Thomas Dye đưa ra định nghĩa ngắn gọn về chính sách công là: “bất kỳ
những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”.
William Jenkins định nghĩac về chính sách công là: một tập hợp các
quyết định có liên quan với nhau được ban hành bởi một nhà hoạt động chính
trị hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị liên quan đến lựa chọn các
mục tiêu và các phương tiện để đạt mục tiêu trong một tình huống cụ thể
thuộc phạm vi thẩm quyền của họ”.
James Anderson đưa ra định nghĩa chung hơn, mô tả chính sách như là:
“một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động
hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc
vấn đề quan tâm”
Tuy có những giới hạn nhất định nhưng các định nghĩa trên đều tập trung
mô tả nội hàm của chính sách công. Trên cơ sở tham khảo các cách tiếp cận

khác nhau về chính sách công, có thể đi đến định nghĩa như sau:

6


Chính sách công là định hướng hành động do Nhà nước lựa chọn để giải
quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng phù hợp với thái độ
chính trị trọng mỗi thời kỳ nhằm giữ cho xã hội phát triển theo định hướng.
b) Khái niệm thực hiện chính sách công
Chu trình chính sách công là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên quan
với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách đến khi kết quả chính sách
được đánh giá.
Các giai đoạn trong chu trình chính sách công bao gồm:
- Xây dựng chính sách: Xây dựng chính sách công là toàn bộ quá trình
nghiên cứu, xây dựng và ban hành đầy đủ một chính sách.
- Tổ chức thực hiện chính sách: là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của
chủ thể chính sách thành hiện thực tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu
định hướng.
- Đánh giá chính sách: là việc xem xét tác động của chính sách đến các
đối tượng và quá trình kinh tế xã hội theo hệ thống các tiêu chí định tính và
định lượng.
Như vậy, thực hiện chính sách công là quá trình đưa chính sách công
vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương
trình, dự án thực hiện chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện
thực hóa mục tiêu chính sách công.
c) Vị trí và vai trò của thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách, nếu
thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách không thể tồn tại. Thực
hiện chính sách là một hệ thống nhất - nhất là với hoạch định chính sách.
7



So với các khâu khác trong chu trình chính sách, thực hiện chính sách có
vị trí đặc biệt quan trọng, là bước thực hiện hóa chính sách trong đời sống xã
hội.
Tổ chức thực hiện chính sách tốt không những mang lại lợi ích to lớn
cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà
nước trong quá trình quản lý xã hội.
Để có được một chính sách tốt, các nhà hoạch định phải trải qua một quá
trình nghiên cứu, tìm kiếm công phu. Nhưng dù tốt đến đâu chính sách cũng
trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào thực hiện.
1.1.2. Chủ thể tham gia thực hiện chính sách công
Chủ thể thực hiện: là các cơ quan nhà nước và nhân sự của các cơ quan
đó – đây là chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách công.
Chủ thể tham gia: là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước).
Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng hưởng thụ chính sách công:
cộng đồng dân cư, các nhóm dân số, thậm chí cả người dân.
1.1.3. Quy trình thực hiện chính sách công
a) Khái niệm quy trình thực hiện chính sách công/
Quy trình tổ chức thực hiện chính sách là trình tự các bước trong tổ chức
triển khai thực hiện chính sách công.
b) Các bước trong quy trình thực hiện chính sách công
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai, thực hiện chính sách công

8


Tổ chức thực hiện chính sách công là quá trình phức tạp, diễn ra trong
một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, lên chương trình để các

cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ động.
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công được xây dựng trước khi
đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ
trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực
hiện.
Các Kế hoạch có thể được xây dựng như:
Kế hoạch tổ chức, điều hành
Kế hoạch dự kiến các nguồn lực
Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện
Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách công
Bước 2: Phổ biến tuyên truyền chính sách công
Phổ biến, tuyên truyền chính sách giúp cho các đối tượng chính sách và
mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách;
về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về
tính khả thi của chính sách. Qua đó để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản
lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách
nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của
chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp
thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu
quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.
Chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách công

9


Chủ thể bao gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được
giao nhiệm vụ. Chủ thể phải được đào tạo phải có đủ trình độ, kinh nghiệm,
kỹ năng trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách công.
Chính sách công khi được phổ biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính
trung thực những nội dung đã được hoạch định. Chủ thể phổ biến, tuyên

truyền chính sách công phải có thái độ công tâm, khách quan khi thực hiện
công việc này.
Đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính sách công
Đối tượng được phổ biến, tuyên truyền chính sách công bao gồm:
- Những công dân được chính sách công tác động trực tiếp, đây là đối
tượng thụ hưởng chính sách công.
- Những công dân, tổ chức bị tác động gián tiếp bởi chính sách công, đây
là những nhân tố góp phần làm cho chính sách công đạt hiệu quả.
- Những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách công.
Phương pháp:
- Được thực hiện thường xuyên, liên tục
- Bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng
tiếp nhận; gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng v.v.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã
1.2.1. Khái niệm những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp xã, là đơn vị hành chính cấp cơ sở;
trong đó xã chiếm đa số trong tổng số đơn vị hành chính cấp cơ sở, nhiều hơn
phường, thị trấn.
10


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng
của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”1.
Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX xác
định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo
việc, tận tụy với dân, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ
cơ sở”2.
Để hội nhập quốc tế cũng như bắt kịp xu thế toàn cầu hóa, Nghị quyết

Đại hội Đảng từng thời kỳ đã đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và phù hợp
từng giai đoạn thực tế, trong đó có nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đi đôi với hoàn thiện thể chế nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và
điểm nhấn là thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tại các xã, đến
nay đã hoàn thành giai đoạn 1 (giai đoạn 2010 – 2015), hiện nay đang thực
hiện giai đoạn nâng chất các tiêu chí trong đề án xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2016 – 2020. Điều này cho thấy, trong những năm gần đây, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng của chính quyền cấp xã trong
trong thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể đã đề ra.
Theo đó, cùng với việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp xã, Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành các văn bản để sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp xã nói chung
và lực lượng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã nói riêng.

1

Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.371.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX, Nxb CTQG, H.2002, tr.167-168.
2

11


Như vậy, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã được hiểu
như thế nào?
Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Hội nghị Lần
thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX về đổi mới và nâng cao

chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, hệ thống chính trị ở
cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.
Như vậy, theo tinh thần Nghị quyết số 17/NQ-TW, cán bộ cấp xã được
chia thành cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách; đồng thời khái
niệm cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thới gian lao
động làm việc công để thực hiện chức trách được giao; cán bộ không chuyên
trách là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao
động3.
Tuy nhiên, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009
của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã không dùng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách” mà thay
bằng cụm từ “những người hoạt động không chuyên trách”.
Hiện nay, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và một số văn bản quy
phạm pháp luật liên quan quy định rõ ràng, cụ thể đối tượng cán bộ xã và
công chức xã; nhưng lại không quy định thế nào là “những người hoạt động
không chuyên trách xã”; vì vậy, để nêu lên khái niệm thế nào là những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã là điều không hề dễ dàng. Tuy nhiên,
dựa trên các cơ sở pháp lý quy định đối tượng này cũng như căn cứ vào tình
hình thực tế, có thể khái quát như sau:
Xem Mục 5 Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Hội nghị
Lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX.
3

12


Những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là công dân Việt
Nam, được bố trí làm công việc chuyên môn ở chính quyền cấp xã nhưng
không thường xuyên, liên tục; giúp cấp ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn

thể cấp xã giải quyết công việc ở cơ sở và trực tiếp giải quyết các vấn đề của
người dân, góp phần đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an
ninh trật tự trên địa bàn xã, phường, thị trấn; những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã không được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, không
được nâng bậc lương theo niên hạn, không thuộc đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc mà chỉ được hưởng khoản trợ cấp hàng tháng, mức phụ
cấp kiêm nhiệm và mức khoán kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước cấp
cho địa phương.
1.2.2. Đặc điểm của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Những người hoạt động không chuyên trách cấp xã có các đặc điểm như
sau:
Thứ nhất, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã phần lớn
xuất thân và sinh sống tại địa phương, gắn bó với nhau trong sinh hoạt hằng
ngày và trong các mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, tình cảm,…
Thứ hai, lực lượng những người không chuyên trách cấp xã đa số có
trình độ chuyên môn thấp, ít được đào tạo chính quy, đa phần là trong quá
trình làm việc, họ vừa làm vừa học để nâng cao trình độ chuyên môn.
Thứ ba, chế độ và lề lối làm việc của đội ngũ những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã chưa chuyên nghiệp, mặc dù có văn bản quy định
chức danh song chưa có quy định về nhiệm vụ cụ thể mà những người hoạt
động không chuyên trách phải làm liên quan đến từng chức danh, công việc
của họ chủ yếu phụ thuộc sự phân công của lãnh đạo chính quyền cấp xã trên
cơ sở căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương.
13


Thứ tư, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là những
người trực tiếp làm việc, trao đổi những vấn đề liên quan đến người dân, là
cầu nối truyền tải những thắc mắc, kiến nghị, tâm tư, nguyện vọng hợp pháp,
chính đáng của người dân để tham mưu lãnh đạo cấp xã có hướng giải quyết

phù hợp nhằm đảm bảo vừa lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân, vừa
đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Thứ năm, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là đối
tượng không được hưởng lương, phụ cấp theo loại xã, thị trấn và không được
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Họ chỉ được hưởng phụ cấp hàng tháng và
tham gia bảo hiểm tự nguyện.
Thứ sáu, tính ổn định ở những người hoạt động không chuyên trách cấp
xã thấp hơn so với cán bộ chuyên trách cấp xã do công việc của đối tượng này
không thường xuyên, liên tục, và số lượng cũng thay đổi, biến động nhiều.
1.2.3. Vai trò của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là người đem chính sách của
Chính phủ của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách
sách hay cũng không thể thực hiện được”4, thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta
nhận định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng”5.
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở
rộng dân chủ, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân

4

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 68.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.269.
5

14



dân như hiện nay, đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung và những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã nói riêng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong
công cuộc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến
nhân dân để nhân dân biết, thực hiện và quan trọng hơn là tiếp thu các ý kiến
đóng góp của nhân dân để đề xuất lãnh đạo, kiến nghị cấp trên điều chỉnh, bổ
sung các chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, từ đó góp phần nâng cao hiệu lực của
chính sách, hiệu quả thực thi của chính sách trong thực tế.
Tuy không được quy định nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng như cán bộ chuyên
trách cấp xã, chế độ lương cũng không bằng cán bộ cấp xã, nhưng đội ngũ
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã cũng có những đóng góp
không hề nhỏ trong công tác xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Do đó, những người hoạt động không
chuyên trách có vai trò quan trọng không kém đối với lực lượng cán bộ cấp
xã.
Lực lượng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã có vai trò
quan trọng trong việc tuyên truyền, tập hợp, vận động, tổ chức nhân dân trong
cộng đồng, khu dân cư thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, thực hiện các phong trào, quy ước, các cuộc vận động tại khu dân cư
đạt kết quả. Họ là lực lượng tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách
của Nhà nước nhong chóng và hiệu quả nhất đến nhân dân, bên cạnh đó, họ
âm thầm cống hiến, đóng góp công sức qua từng việc làm cụ thể như xác
minh hộ nghèo, vận động mạnh thường quân ủng hộ quà, học bổng, tiền,…để
xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa,…nhằm giúp đỡ các đối tượng là hộ
nghèo, người già neo đơn, khuyết tật, trẻ mồ côi, nghèo hiếu học, nạn nhân
chất độc màu da cam,… trên địa bàn xã, phường, thị trấn tại địa phương.
15


Đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã còn là một

trong những nguồn nhân lực quan trọng tại địa phương và ngoài địa phượng.
Bởi vì, lực lượng những người hoạt động không chuyên trách là đội ngũ kế
thừa của cán bộ, công chức; môi trường ở cấp xã là một trong những yếu tố
quan trọng giúp những người hoạt động không chuyên trách cấp xã phát huy
năng lực, thể hiện bản thân, không ngừng phát triển và trưởng thành. Thực tế
cho thấy, không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt có tiền thân từ những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã.
Mặc dù đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách đóng vai trò
quan trọng không kém đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã, nhưng chế độ,
chính sách của hai đối tượng này có sự khác biệt rất rõ ràng, chúng ta sẽ tiếp
tục phân tích về chế độ, chính sách của những người hoạt động không chuyên
trách cấp xã để thấy được những bất cập trong chế độ, chính sách đối với đối
tượng này.
1.3. Tổng quan về thực hiện chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã
1.3.1. Các chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã
a) Số lượng, chức danh và mức phụ cấp đối với những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã
Hiện nay, lực lượng cán bộ và công chức khi tham gia làm việc hàng
tháng được hưởng tiền lương (là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả
cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận; tiền lương bao
gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản

16


bổ sung khác6); khác với đối tượng này, khi làm việc, đội ngũ những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã chỉ được hưởng mức phụ cấp hàng
tháng (là khoản trợ cấp được trích ra từ nguồn quỹ của Ngân sách Trung

ương rót xuống địa phương để khoán chi trả mức tiền cụ thể theo luật định
nhằm phụ giúp đảm bảo đời sống của họ cũng như bù đắp phần công sức họ
tham gia công tác làm công việc tại địa phương. Tuy nhiên, số tiền cụ thể đó
không phải là tiền lương theo biên chế như cán bộ, công chức được hưởng).
Việc quy định những người hoạt động không chuyên trách cấp xã hiện
nay khi tham gia công tác chỉ được hưởng mức phụ cấp hàng tháng cũng là
một bất cập, bởi vì, trong tình hình hiện nay, để đáp ứng sự phát triển của địa
phương, đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã cũng phải
đảm nhiệm khối lượng công việc cũng như áp lực từ công việc không thua lực
lượng cán bộ, công chức.
b) Chế độ bảo hiểm đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp

Chế độ bảo hiểm xã hội được hiểu là “sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội” 7.
Chế độ bảo hiểm xã của người lao động nói chung, của cán bộ cấp xã nói
riêng bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc (là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà
nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia)
và bảo hiểm xã hội tự nguyện (là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ

6

Quốc Hội Khóa 13, “Bộ Luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2012”, Điều 90.

7

Quốc Hội, Luật Bảo hiểm Xã hội, 20/11/2014.
17



chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù
hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo
hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất).
Bên cạnh chế độ bảo hiểm xã hội, còn có chế độ bảo hiểm y tế; chế độ
bảo hiểm y tế được hiểu là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với
các đối tượng theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế để chăm sóc sức khỏe,
không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện 8. Loại hình bảo
hiểm y tế là cung cấp dịch vụ về y tế, chăm sóc sức khỏe để duy trì, khôi phục
và cải thiện sức khỏe và khả năng lao động cũng như giúp cho người tham gia
bảo hiểm khắc phục một phần khó khăn về kinh tế trong khám bệnh và chữa
bệnh, giúp hỗ trợ thanh toán chi phí khám chữa bệnh.
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng của
hệ thống an sinh xã hội, do đó, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm y tế đồng bộ cùng với phát triển các dịch vụ an sinh xã hội khác sẽ đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân nói chung, của cán bộ, công
chức nói riêng tham gia và hưởng thụ các chế độ bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, mức đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao động.
Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập
tháng do người lao động lựa chọn9.
Như đã nói ở mục trên, cán bộ chuyên trách cấp xã hiện nay khi tham gia
công tác, hàng tháng họ được hưởng tiền lương, theo đó, cán bộ cấp xã được

8

Quốc Hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế, 13/6/2014.

9


Quốc Hội, Luật Bảo hiểm Xã hội, Điều 5, 20/11/2014.
18


tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm y tế theo quy định của pháp
luật hiện hành; điều đó có nghĩa là cán bộ cấp xã được hưởng đầy đủ các chế
độ bảo hiểm như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu
trí và tử tuất.
Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành, những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã không được hưởng tiền lương hàng tháng, do đó, đối
tượng này chỉ được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và chế độ bảo hiểm y
tế mà không được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, như vậy, những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã khi tham gia bảo hiểm chỉ được hưởng
hưu trí và tử tuất. Điều này tạo sự không công bằng trong chế độ bảo hiểm
được hưởng giữa đối tượng là cán bộ cấp xã và những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã, đặc biệt là những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã là nữ khi mang thai không được hưởng chế độ thai sản, trong khi cán
bộ cấp xã và người hoạt động không chuyên trách cấp xã làm việc chung một
cơ quan, tham mưu chức năng, nhiệm vụ như nhau, khối lượng công việc
tương đương nhau.
Đây cũng là một trong những điểm bất cập trong thực hiện chế độ, chính
sách đối với cán bộ hiện nay.
c) Đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng là khâu không thể thiếu trong công tác cán bộ, qua
nghiên cứu, hiện nay có rất nhiều quan niệm về đào tạo, bồi dưỡng.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, đào tạo được định nghĩa là
“quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững
những tri thức, kỹ năng kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho


19


người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao
động nhất định” 10.
Theo Từ điển Tiếng Việt, đào tạo đó là làm cho trở thành người có năng
lực theo những tiêu chuẩn nhất định, bồi dưỡng đó là làm cho - 1) tăng thêm
sức của cơ thể bằng chất bổ và – 2) tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất 11
Còn khái niệm khác, đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có
hiểu biết, có nghề nghiệp; bồi dưỡng đó là làm cho 1) khỏe thêm, mạnh thêm
và – 2) tốt hơn, giỏi hơn.
Phân tích giải thích “đào tạo” và “bồi dưỡng” theo Từ điển, thì đào tạo
được hiểu là một quá trình dài, khép kín nhằm trang bị những kiến thức tương
đối mới cho khách thể mà trước đó khách thể chưa có; bồi dưỡng được xem là
một giai đoạn ngắn, cung cấp kiến thức nhằm bồi bổ thêm, bổ trợ thêm và
nâng cao hơn các kiến thức, kỹ năng đã có sẵn của khách thể.
Theo khía cạnh văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, cụ thể là
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về
đào tạo và bồi dưỡng công chức 12, đào tạo được giải thích là quá trình truyền
thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp
học, bậc học; bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức,
kỹ năng làm việc.

Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam, Từ điển Bách khoa toàn thư Việt
Nam, Tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa.
10

11

GS. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2010.


Nghị định này đã hết hiệu lực kể từ ngày 21/10/2017 và được thay thế bởi Nghị định số
101/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức.
12

20


Như vậy, có thể hiểu đào tạo là một quá trình truyền đạt kiến thức cụ thể,
nhất định cho đối tượng học tập, quá trình truyền đạt này được xây dựng theo
một phương pháp dạy và học cụ thể, trong một thời gian cụ thể; kết quả đánh
giá chính là sự chuyển biến về kiến thức và chất lượng năng lực của đối tượng
được đào tạo có thể đảm nhận và đáp ứng được yêu cầu của chuyên ngành đã
được học.
Bồi dưỡng là quá trình truyền đạt thêm một lượng kiến thức nhất định
cho đối tượng học tập, nhằm cung cấp thêm năng lực và kiến thức cho đối
tượng này mà không nhất thiết phải tạo sự chuyển biến về kiến thức và chất
lượng năng lực của đối tượng được học.
Trong phạm vi nghiên cứu về chế độ, chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã, bản thân xin được căn cứ vào khái
niệm “đào tạo” và “bồi dưỡng” theo văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước ta, cụ thể là Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010
của Chính phủ, có thể thấy, “đào tạo” và “bồi dưỡng” là hai khái niệm độc
lập, tuy nhiên có cùng mục đích là làm cho người lao động có trình độ chuyên
môn, khả năng xử lý công việc và năng lực công tác được tốt hơn, và trong
thực tế, hoạt động bồi dưỡng và đào tạo rất khó tách bạch mà đan xem và kế
thừa lẫn nhau.
Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung và đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực, điều này đặc biệt cần thiết trong các cơ quan hành
chính nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình
hình mới hiện nay.
Thông qua đào tạo và bồi dưỡng, ngoài việc trang bị kiến thức, kỹ năng,
phương pháp thực hiện nhiệm vụ nhằm nâng cao kiến thức, tri thức, trình độ
21


hiểu biết của cán bộ, trao dồi các kỹ năng công tác và nâng cao kinh nghiệm
thực tiễn để cán bộ hoàn thành chất lượng công việc được giao; đào tạo và bồi
dưỡng còn nhằm rèn luyện phẩm chất chính trị đạo đức và tư chất cho cán bộ
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt,
có lĩnh chính trị vững vàng và năng lực cao, đáp ứng được yêu cầu phục vụ
nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.
Đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là đối tượng
trực tiếp làm việc, trao đổi thông tin với người dân tại địa phương, do đó,
công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng giao
tiếp, giải quyết công việc cũng như bản lĩnh chính trị là rất cần thiết.
d) Đánh giá, thi đua, khen thưởng, kỷ luật đối với người hoạt động không
chuyên trách cấp xã
Có nhiều khái niệm về đánh giá
Đánh giá có thể được hiểu là nhận định giá trị.
Đánh giá còn được hiểu là quá trình thu thập, xử lý thông tin để lượng
định tình hình và kết quả công việc giúp quá trình lập kế hoạch, quyết định và
hành động có kết quả.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đánh giá được hiểu là một
hoạt động nhằm nhận định một đối tượng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ,
chất lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển, kinh nghiệm được hình
thành ở thời điểm hiện tại đang được xem xét so với mục tiêu hay chuẩn mực
đã được xác lập.

Đánh giá cán bộ là được xem là một trong những công tác quan trọng
nhất và khó nhất trong công tác cán bộ, vì công tác đánh giá có ảnh hưởng và
có ý nghĩa quyết định đến tất cả các công tác trọng yếu khác như tuyển chọn,
22


bố trí, sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện
các chế độ, chính sách đối với cán bộ, đánh giá đúng giúp cán bộ phát huy ưu
điểm , khắc phục hạn chế, từ đó điều chỉnh hành vi phù hợp để tiến bộ trong
công việc cũng như trong rèn luyện đạo đức chính trị.
Thi đua được hiểu là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của
cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc 13.
Khen thưởng được hiểu là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng
và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 14.
Công tác thi đua, khen thưởng là một nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, quản lý hành chính nhà nước, được thực hiện thường xuyên,
liên tục ở tất cả các cơ quan, đơn vị nhằm phát huy tích cực tính chủ động,
sáng tạo của cán bộ, nhân rộng nêu gương sau khen thưởng giúp hạn chế
những thiếu sót.
Thi đua, khen thưởng còn được xem là biện pháp tuyên truyền, giáo dục
hữu hiệu để động viên tinh thần sáng tạo, ý chí quyết tâm của cán bộ thực
hiện tốt, hoàn thành hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh công tác đánh giá, thi đua, khen thưởng, công tác kỷ luật cũng
không thể thiếu trong việc thực hiện chính sách đối với cán bộ.
Theo quy định tại Điều 118 của Bộ Luật Lao động quy định: “Kỷ luật lao
động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành
sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động”.
13


Quốc Hội (2003), Luật Thi đua, Khen thưởng, ban hành ngày 26/11/2003, Hà Nội.

14

Quốc Hội (2003), Luật Thi đua, Khen thưởng, ban hành ngày 26/11/2003, Hà Nội.
23


Kỷ luật lao động bao gồm các điều khoản quy định về hành vi của người
lao động trong các lĩnh vực có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ lao
động, như là: số lượng, chất lượng công việc cần đạt được, thời gian làm việc,
thời gian nghỉ ngơi, giữ gìn trật tự tại nơi làm việc, an toàn lao động và vệ
sinh lao động, bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ, kinh doanh của tổ chức, các
hành vi vi phạm pháp luật lao động và trách nhiệm vật chất.
Xét ở góc độ chung, cán bộ cấp xã trong đó có đối tượng những người
hoạt động không chuyên trách cũng là người lao động, do đó, kỷ luật lao động
là một trong những chế định của pháp luật nhằm đảm bảo duy trì các điều
kiện lành mạnh trong quá trình hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức
và doanh nghiệp, chế định này là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ
thống pháp luật lao động và cán bộ, công chức hiện hành của Nhà nước ta 15.
Như vậy, thi đua, khen thưởng, kỷ luật là những công cụ và biện pháp
quản lý của cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình sử dụng, xây dựng
và phát triển cán bộ nói chung và những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã nói riêng; qua đó, tôn vinh những thành tích mà họ đã cống hiến trong
quá trình làm việc, phục vụ nhằm động viên, khuyến khích thêm tinh thần cho
họ, đồng thời xử lý kịp thời những vi phạm kỷ luật nhằm giúp họ khắc phụ và
tránh mắc phải trong thời gian tới, mục đích của khen thưởng và kỷ luật cũng
là tạo sự công bằng trong đối xử với từng cá nhân; từ đó, động viên, khuyến
khích họ phát huy trí tuệ, tài năng, sức lao động, tinh thần sáng tạo để cống

hiến cho công việc, phục vụ đất nước, cũng như răn đe họ hạn chế vi phạm
pháp luật, tạo hình ảnh đẹp của cán bộ cấp xã trong nhân dân, góp phần phát

Ts. Lê Minh Nghĩa (2008), Quy định pháp luật về xử lý, kỷ luật, trách nhiệm vật chất của
cán bộ, công chức và người lao động, Nxb Chính trị quốc gia, tr 5.
15

24


triển chính quyền ở địa phương, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà
nước.
1.3.2. Quá trình phát triển của các chế độ, chính sách của những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã
Việc thực hiện chính sách, chế độ đối với những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước
qua từng giai đoạn, từng thời kỳ phù hợp với tình hình phát triển của đất
nước. Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đối tượng này,
bản thân chia thành hai giai đoạn như sau:
a) Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2010
Pháp lệnh Cán bộ, Công chức ra đời năm 1998 đã quy định cụ thể đội
ngũ cán bộ cấp xã gồm: cán bộ chuyên trách xã, công chức xã và cán bộ
không chuyên trách xã, theo đó Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng
10 năm 2003 của Chính phủ quy định về chế độ, chính sách của cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn đã quy định cụ thể về số lượng, chức danh, chế
độ, chính sách của cán bộ xã, công chức xã và chế độ, chính sách của cán bộ
không chuyên trách xã. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm
2003 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên xác định rõ ràng, cụ thể các
chức danh “cán bộ xã”, “công chức xã” và “cán bộ không chuyên trách xã”.
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ra đời đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng làm

căn cứ xác định chức danh, chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị cấp xã.
b) Giai đoạn từ năm 2010 đến nay
Đến năm 2008, Luật Cán bộ, Công chức được ban hành thay thế Pháp
lệnh Cán bộ, công chức năm 1998; theo đó, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số
25


×