Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

KẾT QUẢ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG NĂM 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.65 KB, 80 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

ONG THỊ HƯƠNG

KẾT QUẢ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN
Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC
GIANG NĂM 2017 - 2018

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

THÁI NGUYÊN – NĂM 2018


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

ONG THỊ HƯƠNG

KẾT QUẢ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN
Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC
GIANG NĂM 2017 - 2018
Chuyên ngành: Nhi khoa


Mã số:

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

Hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thành Trung

THÁI NGUYÊN – NĂM 2018


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 08 năm 2018
Tác giả luận văn

Ong Thị Hương


4

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, tôi đã
nhận được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô, sự giúp đỡ của các bạn đồng
nghiệp, sự động viên to lớn của gia đình và những người thân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng uỷ - Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo - bộ
phận đào tạo sau đại học, Bộ môn Nhi - Trường Đại học Y Dược Thái
Nguyên, Ban giám đốc Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang và Tập thể khoa Nhi
Bệnh Sản Nhi Bắc Giang đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá

trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Nguyễn Thành
Trung, người thầy tận tâm đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt tôi từng bước tôi
trưởng thành trên con đường học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ phòng khám hen Bệnh viện
Sản Nhi Bắc Giang đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin cảm ơn và chia sẻ với các
bệnh nhân cùng gia đình người bệnh đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo, anh chị bạn bè đồng
nghiệp đã giúp đỡ động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin dành tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng nhất tới
cha mẹ, chồng con và những người thân trong gia đình - những người luôn ở
bên tôi, luôn hết lòng vì tôi.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 08 năm 2018

Tác giả


5

Ong Thị HươngDANH
MỤC CHỮ VIẾT TẮT
FEF

: Forced Expiratory Flow - Dung tích sống gắng sức

FEV1

: Forced Experitory Volume in the first one second -Thể
tích thở ra tối đa trong giây đầu tiên


FVC

: Forced Vital Capacity - Dung tích sống thở mạnh

GINA

: Global Initiative for Asthma - Tổ chức toàn cầu phòng
chống hen

HPQ

: Hen phế quản

ICS

: Inhaled Corticosteroid - corticosteroid dạng hít

LABA

: Long acting b2 andrenergic agnoists - Thuốc kích thích
β2 kéo dài

LTRA

: Leukotriene receptor antagonists - Thuốc đối kháng thụ
thể leukotrien

PEF


: Peak Expiratory Flow - Lưu lượng đỉnh

VC

: Vital Capacity - Dung tích sống

WHO

: World Health Organization - Tổ chức Y tế Thế giới


6
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản là bệnh lý viêm mãn tính của đường hô hấp và cơn hen
phế quản cấp là nguyên nhân chủ yếu khiến người bệnh phải đến khám và
điều trị nhiều lần tại các cơ sở y tế, đặc biệt là trẻ em. Hen phế quản ảnh
hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của người bệnh, trở thành gánh nặng
bệnh tật đối với gia đình, y tế và xã hội.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, hiện nay trên thế giới hiện có khoảng 235
triệu người mắc hen phế quản với khoảng 383.000 trường hợp tử vong do hen
phế quản năm 2015 [82]. Hen phế quản thường gặp ở trẻ em. Nghiên cứu ở
Châu Âu cho tỉ lệ hen phế quản ở trẻ em tương đối dao động từ 1,72% ở Đức
cho tới 13,48% ở Anh [77]. Nghiên cứu ở thành phố St. Peterburg, Nga cho tỉ

lệ hen phế quản trẻ em là 7,4% [59]. Tỉ lệ hen phế quản ở trẻ em tại Quảng
Châu, Trung Quốc là 4,8% [83]. Tại Việt Nam, hen phế quản là bệnh lý mạn
tính đường hô hấp thường gặp, chiếm tỉ lệ mắc bệnh trung bình là 5% (ở
người lớn) và 10% (ở trẻ em). Những năm gần đây hen phế quản trẻ em có xu
hướng tăng lên, cứ 20 năm tỉ lệ hen trẻ em tăng lên 2 - 3 lần [12]. Nghiên cứu
của Nguyễn Thanh Hải và cs (2007) cho tỉ lệ hen phế quản ở trẻ em 13 - 14
tuổi tại thành phố Cần Thơ là 5% [22]. Những thiệt hại do hen gây ra không
chỉ là các chi phí trực tiếp cho điều trị mà còn là nguyên nhân gia tăng các
trường hợp nghỉ học, gây khó khăn cho người bệnh ngay cả trong những hoạt
động thể lực bình thường nhất, thậm chí tử vong. Vì vậy, việc phát hiện sớm,
kiểm soát và điều trị dự phòng hen là hết sức cần thiết.
Chẩn đoán, điều trị hen phế quản trẻ em còn gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là trẻ dưới 5 tuổi. Đối với trẻ em, hen phế quản chủ yếu là hen bậc 1 và
bậc 2. Thời gian qua nhờ có những tiến bộ về chẩn đoán và điều trị của Tổ
chức hen thế giới (GINA), đã giúp cho thầy thuốc được các bước chẩn đoán,
dựa theo các thể lâm sàng của từng bệnh nhân để chọn các loại thuốc kiểm


8

soát hen hiệu quả và phù hợp, những biến chứng của bệnh hen phế quản ngày
càng ít hơn. Chiến lược phòng chống hen toàn cầu năm 2014 đã xây dựng
được phác đồ chẩn đoán và điều trị hen cho trẻ dưới 5 tuổi. Cho dù có nhiều
thuốc mới trong điều trị dự phòng hen việc sử dụng corticoid dạng hít vẫn là
nền tảng của kiểm soát hen, nhất là ở trẻ em. Theo khuyến cáo của GINA, sử
dụng ICS dạng hít đơn thuần có tác dụng tốt trong kiểm soát hen mức độ nhẹ
và vừa. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng dùng thuốc hen nhóm LABA, là nhóm
thường được khuyến cáo cho dự phòng hen nặng, khá phổ biến và lan tràn,
ngay cả trẻ hen phế quản mức độ rất nhẹ.
Hen phế quản ở trẻ em là một bệnh khá phổ biến trong mô hình bệnh tật

ở trẻ em tại vùng tỉnh Bắc Giang và lân cận. Chẩn đoán và điều trị hen phế
quản ở trẻ em tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang, sử dụng phác đồ điều trị
chung của Việt Nam và Tổ chức Hen thế giới, bước đầu đã đạt được những
kết quả, song việc điều trị theo phác đồ và sử dụng phối hợp các thuốc hay sử
dụng một số thuốc như Singulair, Flixotide trong điều trị dự phòng hen phế
quản cho trẻ em, mới là bước đầu, hiện nay chưa có một nghiên cứu hay một
báo cáo nào về hiệu quả dự phòng hen trẻ em bằng Flixotide tại tỉnh Bắc
Giang. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kết quả kiểm soát
hen phế quản ở trẻ em tại bệnh viện sản nhi Bắc Giang năm 2017 - 2018”
với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm trẻ hen phế quản đến khám và tư vấn hen tại phòng

khám hen ở Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang.
2. Đánh giá kết quả kiểm soát hen bậc 2 bằng Flixotide tại bệnh viện

Sản Nhi Bắc Giang năm 2017 - 2018.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm chung của bệnh hen phế quản
1.1.1. Định nghĩa về hen phế quản
Hen phế quản (HPQ) là tình trạng viêm mạn tính đường thở, với sự tham
gia của nhiều tế bào và thành phần tế bào, làm tăng tính đáp ứng đường thở
(co thắt, phù nề, tăng tiết đờm) gây tắc nghẽn, hạn chế luồng khí đường thở,
làm xuất hiện các dấu hiệu khò khè, khó thở, nặng ngực và ho tái diễn nhiều
lần, thường xảy ra ban đêm và sáng sớm, có thể hồi phục tự nhiên hoặc do
điều trị [8], [9], [57].

1.1.2. Dịch tễ học hen phế quản
1.1.2.1. Tỉ lệ mắc hen phế quản trẻ em trên thế giới
Song song với sự biến đổi của môi trường, thay đổi khí hậu, thói quen
hút thuốc lá… đã làm gia tăng đáng kể bệnh lý của đường hô hấp đặc biệt là
hen. HPQ là một trong những bệnh phổi mạn tính phổ biến ở tất cả các nước
trên thế giới và gặp ở mọi lứa tuổi [82]. Trong vòng 20 năm gần đây tỉ lệ mắc
bệnh ngày càng tăng, đặc biệt ở trẻ em. Bệnh HPQ gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc sống hàng ngày của bệnh nhân. Khi tình trạng bệnh không
được kiểm soát; bệnh nhân có thể xuất hiện cơn HPQ cấp nặng và có thể gây
tử vong rất nhanh trong thời gian ngắn [10].
Hiện nay trên thế giới hiện có khoảng 235 triệu người mắc HPQ và
HPQ là một bệnh phổ biến ở trẻ em. Trong năm 2015 có khoảng 383.000
trường hợp tử vong do HPQ. Phần lớn các trường hợp tử vong do hen phế
quản ở các nước có thu nhập thấp và trung bình [82]. Nghiên cứu ở Châu Âu
cho tỉ lệ HPQ trẻ em tương đối dao động, từ 1,72% ở Đức cho tới 13,48% ở
Anh [77]. Nghiên cứu ở thành phố St. Peterburg, Nga cho tỉ lệ HPQ trẻ em là
7,4% [59]. Tỉ lệ HPQ ở trẻ em Belarus là 1,39% [71]. Tỉ lệ HPQ ở vùng nông


10

thôn Ba Lan là 3,5% và ở vùng thành thị là 4,1%; tỉ lệ HPQ ở Ukraine vùng
nông thôn là 1,4% và thành thị là 2,1% [52].
Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), cứ 10 năm tỉ lệ mắc
hen tăng 20 - 50%, đặc biệt 20 năm qua tốc độ ngày một tăng nhanh hơn. Tỉ
lệ mắc hen ở mỗi vùng và mỗi lứa tuổi rất khác nhau; hay gặp ở những nước
công nghiệp có nền kinh tế phát triển, có tốc độ đô thị hoá mạnh và ít gặp hơn
ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ HPQ ở trẻ em Ấn Độ là
4,75% [69]. Tỉ lệ HPQ ở trẻ em tại Quảng Châu, Trung Quốc là 4,8% [83].
Báo cáo trong Chương trình khởi động toàn cầu về hen cho kết quả: trong 10

năm (1984 - 1994), tỉ lệ HPQ trẻ em ở khu vực Đông Nam Á - Tây Thái Bình
Dương tăng gấp 2 - 10 lần [1].
Bảng 1.1. Tỉ lệ hen phế quản trẻ em một số nước Châu Á [1]
Nước
2001
Anh
12,1%
Mexico
5,1%
Nhật
9,2%
Hoa Kỳ
8,7%
Philipines
18,8%
Thái lan
4,0%
1.1.2.2. Tỉ lệ mắc hen phế quản trẻ em ở Việt Nam

2016
13,48%
6,5%
9,8%
8,3%
20,1%
9,7%

Tại Việt Nam, HPQ là bệnh lý mạn tính đường hô hấp thường gặp, chiếm
tỉ lệ mắc bệnh trung bình là 5% (ở người lớn), 10% (ở trẻ em). Hiện Việt Nam
chưa có con số chính xác và hệ thống về tỉ lệ mắc hen cho cả nước, một số công

trình nghiên cứu ở các vùng và địa phương cho thấy hen trẻ em có tỉ lệ mắc
khoảng 4 - 8%. Những năm gần đây hen trẻ em có xu hướng tăng lên, cứ 20 năm
tỉ lệ hen trẻ em tăng lên 2 - 3 lần [12]. Nghiên cứu của Phan Quang Đoàn và cs
(2006) cho tỉ lệ HPQ ở học sinh một số trường Trung học phổ thông tại Hà Nội là
8,74% [16]. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hải và cs (2007) cho tỉ lệ HPQ ở trẻ
em 13 - 14 tuổi tại thành phố Cần Thơ là 5% [22]. Nghiên cứu của Khổng Thị
Ngọc Mai (2011) thấy tỉ lệ HPQ ở học sinh tiểu học, trung học cơ sở thành phố


11

Thái Nguyên là 9,5%, trong đó: tỉ lệ HPQ ở học sinh nam là 10,4%, cao hơn tỉ lệ
HPQ ở học sinh nữ là 8,6% (p < 0,05) [32].
Nghiên cứu của Trần Thúy Hạnh và Nguyễn Văn Đoàn (2011) khảo sát
tại 7 tỉnh thành, đại diện cho 7 vùng miền trong cả nước là Nam Định, Tuyên
Quang, Nghệ An, Khánh Hòa, Bình Dương, Gia Lai và Tiền Giang thấy độ
lưu hành HPQ ở trẻ em là 3,2%, tỉ lệ nam/nữ ở trẻ em là 1,63; độ lưu hành
hen cao nhất ở Nghệ An (6,9%) và thấp nhất ở Bình Dương (1,5%) [25].
1.1.3. Hậu quả do hen phế quản gây ra
* Đối với người bệnh
HPQ gây ảnh hưởng lớn đến người bệnh: sức khoẻ ngày càng giảm sút,
mất ngủ gây suy nhược thần kinh, bi quan, lo lắng. Khả năng lao động giảm
gây mất việc, thất học, chất lượng cuộc sống giảm sút, ảnh hưởng đến hạnh
phúc cá nhân và gia đình. Nhiều trường hợp có biến chứng viêm phổi hoặc đã
tử vong hoặc tàn phế do không được cứu chữa kịp thời.
Các nghiên cứu về chất lượng cuộc sống trẻ bị HPQ đều cho thấy chất
lượng cuộc sống của trẻ bị giảm sút rõ rệt. Nghiên cứu của Đoàn Thị Thanh
Bình (2012) về chất lượng cuộc sống trên 75 trẻ bị HPQ cho kết quả: HPQ có
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của trẻ: điểm trung bình chất lượng cuộc
sống là 5,46. Trong đó nhóm trẻ trên 12 tuổi có điểm chất lượng cuộc sống

thấp hơn rõ rệt so với nhóm dưới 12 tuổi (4,03 điểm so với 5,56 điểm) [6].
Nghiên cứu của Lê Thanh Hải và cs (2013) cho kết quả: HPQ ảnh hưởng đến
hoạt động hàng ngày (Điểm hạn chế hoạt động khi chơi 5,24, khi chạy 4,91,
đi lại 5,61, không thể theo kịp các bạn là 5,32); HPQ ảnh hưởng đến thay đổi
cảm xúc (Điểm trung việc cảm thấy chán nản là 5,72, lo lắng là 5,61, dễ cáu
là 6,00, tức giận là 6,45, cảm thấy không thoải mái là 5,46, hoảng sợ là 5,89,
cảm thấy khác biệt hoặc bị bỏ rơi là 6,12, chán nản vì không thể theo kịp các
bạn là 5,88) [21]. Đối với trẻ bị HPQ có thể sẽ bị biến chứng viêm phổi kèm
theo làm kéo dài thời gian điều trị và ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của


12

bệnh nhân. Nghiên cứu của Hoàng Giang (2015) cho kết quả: tỉ lệ biến chứng
viêm phổi trên đợt cấp HPQ ở trẻ em phải nhập viện là 84,7% [19].
Tử vong do HPQ đối với cá nhân người bệnh là biến chứng cực kỳ nguy
hiểm. Thống kê cho thấy HPQ là 1 trong 20 bệnh mạn tính gây tàn phế cao
nhất và là 1 trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em từ 5 - 14
tuổi. Tỉ lệ tử vong do HPQ ở trẻ em dao động từ 0 - 0,7/100.000 trẻ [49].
Nghiên cứu của Eroglu G.E. và cs (2002) tại bang Louisiana, Mỹ cho tỉ lệ tử
vong do HPQ ở trẻ em là 0,41/100.000 giai đoạn 1983 - 1987, 0,49/100.000
giai đoạn 1988 - 1992 và 0,63/100.000 giai đoạn 1903 - 1997 [55]. Tỉ lệ tử
vong do HPQ lại thấp ở một số nước: tỉ lệ tử vong do HPQ tại Thụy Điển là
1,54/1.000.000 trẻ em năm 1994 và 0,53/1.000.000 trẻ em năm 2003 [50]. Tỉ
lệ tử vong do HPQ ở trẻ em tại Phần Lan là 0,19/1.000.000 người-năm [63].
* Đối với gia đình
Gia đình bệnh nhân HPQ: có hai quan điểm trái ngược nhau: Không
quan tâm, xem nhẹ nguy cơ của bệnh, cho rằng bệnh không điều trị được, coi
người bệnh như một gánh nặng, ít động viên người bệnh kiên trì điều trị.
Nhưng cũng có những gia đình hết sức quan tâm đến điều trị bệnh cho trẻ.

Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Chương và cs (2014) cho kết quả: 21,2% phụ
huynh của trẻ bị HPQ có dấu hiệu lo lắng trầm cảm. Phụ huynh có nguy cơ lo
lắng trầm cảm cao nếu kinh tế nghèo (F = 4,24, p <0,05) và trẻ chưa được
kiểm soát tốt cơn hen (F = 5,19, p = 0,03). Điểm chất lượng cuộc sống của
phụ huynh thấp nếu phụ huynh trẻ tuổi, có lo lắng trầm cảm (F = 5,75,
p<0,05) và trẻ chưa được kiểm soát hoàn toàn cơn hen (F=5,68, p<0,05) [14].
* Đối với xã hội
Thiệt hại do HPQ gây ra bao gồm các chi phí trực tiếp cho khám bệnh,
xét nghiệm, tiền thuốc và những chi phí gián tiếp do ngày nghỉ việc, nghỉ học
tăng lên, giảm khả năng lao động, chất lượng cuộc sống giảm sút. Nghiên cứu
của Phùng Thị Chuyên (2011) thấy chi phí trung bình điều trị trực tiếp mỗi


13

đợt HPQ nội trú là 7.440.227,25 VNĐ/bệnh nhân; trong đó, chi phí thuốc điều
trị chiếm 79,69% [15].
1.1.4. Các yếu tố nguy cơ gây hen phế quản
1.1.4.1. Yếu tố bản thân
* Tuổi: Mọi lứa tuổi đều có người mắc HPQ. HPQ có thể khỏi hoặc
giảm nhẹ ở tuổi dậy thì. Nghiên cứu của Winer R.A. và cs (2012) cho tỉ lệ
nguy cơ mắc HPQ ở trẻ 0 - 4 tuổi là 23,4/1.000, cao gấp 5 lần so với trẻ từ 12
- 17 tuổi là 4,4/1.000. Tỉ lệ nguy cơ mắc HPQ ở trẻ em chung là 12,5/1.000 và
ở người trưởng thành là 3,8/1.000 [81].
* Giới: HPQ có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi và ở cả 2 giới, tuy nhiên tỉ
lệ mắc hen ở các lứa tuổi và giới không giống nhau. Trước dậy thì HPQ gặp ở
trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ [11], đến tuổi thanh niên thì tỉ lệ HPQ là ngang nhau
giữa 2 giới, ở người lớn thì nữ giới lại mắc hen nhiều hơn ở nam giới. Nghiên
cứu của Ngô Thị Xuân (2008) thấy: HPQ gặp ở trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ với
tỉ lệ nam 68,0% và nữ là 32,0% [47]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thái Hà

(2017) cho tỉ lệ nam/nữ ở trẻ HPQ từ 2 - 5 tuổi là 1,33/1 [20]. Nghiên cứu của
Diệp Thắng và cs (2013) thấy tỉ lệ nam/nữ ở trẻ 3 - 5 tuổi bị HPQ là 1,4/1
[37]. Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng và cs (2010) cho tỉ lệ nam/nữ là
2,1/1 [18].
* Cơ địa: Trẻ có cơ địa dị ứng như: chàm thể tạng, viêm mũi dị ứng,
viêm xoang dị ứng, thể trạng tiết dịch là những yếu tố thuận lợi gây khởi phát
bệnh hen. Nghiên cứu cho thấy mối liên quan viêm mũi dị ứng và HPQ khá
chặt chẽ thể hiện ở tỉ lệ viêm mũi dị ứng/HPQ khá cao (75,1%) và trên bệnh
nhân HPQ nặng thường kèm viêm mũi dị ứng nặng, viêm mũi dị ứng thường
khởi phát trước hay đồng thời với HPQ (70%) [38]. Nghiên cứu cho thấy trẻ
có cơ địa dị ứng thì có nguy cơ bị HPQ cao gấp 8,5 lần (95%CI: 5,6 - 12,9) so
với trẻ không có cơ địa dị ứng [76].
* Yếu tố gia đình:


14

Trong gia đình (bố mẹ, anh chị em ruột) bị HPQ hoặc bệnh dị ứng,
viêm da cơ địa thì khả năng mắc HPQ là rất cao. Hoặc trong điều kiện trẻ bị
HPQ nhưng gia đình thiếu kiến thức về chăm sóc trẻ mắc hen thì cũng làm
tăng nguy cơ gây bùng phát cơn HPQ cấp ở trẻ. Thực tế, kiến thức về chăm
sóc trẻ bị HPQ của bố/mẹ còn nhiều bất cập. Nghiên cứu của Lê Huyền Trang
(2016) cho thấy có chưa đến 2/3 người chăm sóc trẻ biết về thời gian điều trị
HPQ cho trẻ là phải tuân thủ theo lời khuyên của thầy thuốc; 1/3 người chăm
sóc trẻ tự điều trị và nghe theo lời khuyên của người bị hen [45]. Nghiên cứu
cho thấy cha mẹ có cơ địa dị ứng thì con có nguy cơ bị HPQ cao gấp 1,4 lần
(p = 0,02) so với trẻ không có cha mẹ có cơ địa dị ứng [56].
* Yếu tố thần kinh - nội tiết:
Những trẻ hay bị xúc động mạnh, cười nhiều, khóc nhiều, lo lắng, sợ
hãi, tăng cảm giác… thường dễ khởi phát cơn hen cấp.

1.1.4.2. Các yếu tố về môi trường
- Dị nguyên đường hô hấp: là nguyên nhân thường gặp nhiều nhất: bụi
nhà, bụi đường phố, bụi chăn đệm, khói bếp, khói thuốc lá, lông súc vật, phấn
hoa, các khí lạnh, các chất thải ôtô, xe máy... Nghiên cứu của Nguyễn Thị
Kim Anh (2014) thấy tỉ lệ trẻ HPQ có test lẩy da dương tính với 1 dị nguyên
hô hấp trong nhà là 72,1%, trong đó tỉ lệ trẻ HPQ có test lẩy da dương tính
với 2 dị nguyên trở lên chiếm 86,1% [5]. HPQ có liên quan có ý nghĩa thống
kê với tình trạng hút thuốc lá của mẹ [73]. Nghiên cứu của Hamam Fayez và
cs (2015) cũng cho thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HPQ với tình
trạng hút thuốc lá của bố mẹ [60]. Nghiên cứu của Majeed R. và cs (2008)
cũng đã chứng minh bố hoặc mẹ hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ gây xuất hiện
HPQ sớm ở trẻ em [66]. Nghiên cứu của Kamran A. và cs (2015) cho kết quả:
trẻ sống ở phòng không có cửa sổ có nguy cơ mắc HPQ cao gấp 5,5 lần, sống
ở vùng không có ánh sáng (ánh nắng) phù hợp có nguy cơ mắc HPQ cao gấp
2,2 lần [61].


15

- Dị nguyên thức ăn hay gặp là: Sữa (sữa bò, sữa trâu, sữa dê và các chế
phẩm của sữa), các thức ăn (tôm, cua, cá, trứng, thịt thú rừng…)
- Thuốc và hoá chất: aspirin, penicillin, sulphamid… Nghiên cứu cho
thấy trẻ sống trong khu công nghiệp có tỉ lệ HPQ chiếm cao, theo thì tỉ lệ
HPQ ở trẻ em và vị thành niên là 24,7% [70]. Tỉ lệ này ở khu công nghiệp
vùng bắc Italia là 10,2% [54].
- Nhiễm khuẩn: đặc biệt là các nhiễm khuẩn do virus (virus hợp bào hô
hấp, virus cúm, á cúm. Thực tế cho thấy nhiễm virus đường hô hấp là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến cơn khó thở đầu tiên. Nghiên cứu của Trịnh Thị Ngọc
(2015) cho kết quả: nhiễm virus đường hô hấp, thay đổi thời tiết là yếu tố
thuận lợi cho khởi phát cơn hen cấp ở trẻ có cơ địa dị ứng. Nhóm trẻ nhiễm

virus đường hô hấp có nguy cơ mắc cơn hen cấp nặng cao gấp 8,85 lần so với
nhóm trẻ không nhiễm virus [33].
1.1.5. Cơ chế bệnh sinh của hen phế quản
Cơ chế bệnh sinh của hen rất phức tạp nhưng có thể mô tả tóm tắt bằng
sự tương tác của ba quá trình bệnh lý cơ bản là: Viêm mạn tính đường thở,
tăng đáp ứng của phế quản và co thắt, phù nề xuất tiết phế quản, trong đó
viêm mạn tính đường thở là trung tâm. Quá trình tương tác này có sự tác động
bởi các yếu tố chủ thể của người bệnh và các yếu tố kích phát dẫn đến hậu
quả làm xuất hiện các triệu chứng hen và cơn hen [11]:


16

Sơ đồ 1.1. Cơ chế bệnh sinh hen phế quản [11]
1.1.5.1. Viêm mạn tính đường thở
- Hiện tượng viêm trong HPQ theo cơ chế miễn dịch dị ứng có sự tham
gia của nhiều yếu tố khác nhau:
+ Viêm đường thở gặp ở tất cả các bệnh nhân hen ngay cả các trường
hợp hen nhẹ.
+ Có nhiều tế bào tham gia vào quá trình viêm như đại thực bào, bạch
cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu ái toan, dưỡng bào, tế bào
lympho T và B.
- Các cytokines được giải phóng từ bạch cầu ái toan, đại thực bào, tế
bào B như IL4, IL5, IL6, GMCS (Grannulocyte marcrophage coloyny
stimulating factor) gây phản ứng viêm dữ dội làm co thắt, phù nề, xung huyết
phế quản. Leucotrien làm tổn thương nhung mao niêm mạc đường hô hấp.
Leucotrien B4 kéo bạch cầu trung tính và tiểu cầu đến vùng phản ứng viêm.
Các bạch cầu ái toan khi bị hoạt hoá sẽ sản xuất ra leucotrien C4 và yếu tố
hoạt hoá tiểu cầu gây phù nề và co thắt phế quản.
- Khi một bệnh nhân bị hen tiếp xúc với dị nguyên, phản ứng giữa

kháng nguyên kháng thể gây thoái hoá dưỡng bào, giải phóng các chất trung


17

gian hoá học như: histamin, serotonin, bradykinin, thromboxan A2 (TXA2),
prostaglandin (PGD2, PGE2, PGF2), leucotrien gây phản ứng viêm.
- Các yếu tố hoạt hoá tiểu cầu (Platelet activating factor: PAF) gây co
thắt viêm nhiễm phù nề phế quản.
- Các neuropeptid do các bạch cầu ái toan tiết ra là chất trung gian như
MBP (Major basis protein), ECP (Eosinophi cationic peptid), làm tróc biểu
mô đường thở giải phóng ra các neuropeptid gây viêm .
- Các phân tử kết dính được phát hiện những năm gần đây, có quan hệ
gắn bó với các cytokines trong quá trình viêm dị ứng [2].
1.1.5.2. Tăng tính đáp ứng của phế quản
Đây là đặc điểm quan trọng trong bệnh sinh HPQ.
- Tăng tính phản ứng phế quản do mất cân bằng giữa hệ adrenergic và
hệ cholinergic, dẫn đến tình trạng ưu thế thụ thể α so với ß, tăng ưu thế của
GMPc so với AMPc nội bào, biến đổi hàm lượng enzym phosphodiesterase
nội bào, rối loạn chuyển hoá prostaglandin.
- Sự gia tăng tính phản ứng phế quản là cơ sở để giải thích sự xuất hiện
cơn HPQ do gắng sức, do khói các loại (khói bếp than, thuốc lá…), không khí
lạnh và các chất kích thích khác.Tăng phản ứng phế quản được xác định bằng
test thử nghiệm với acetylcholin hoặc methacholin [7].
1.1.5.3. Phù nề, xuất tiết phế quản
Các nghiên cứu về hen chỉ ra rằng chức năng hô hấp của bệnh nhân hen
phế quản giảm dần qua thời gian. Hen là bệnh viêm mạn tính tại đường thở,
hậu quả là quá trình tái tạo lại, hàn gắn lại đường thở, dẫn tới thay đổi cấu
trúc đường thở. Chính tổn thương tế bào học và mô bệnh học giải thích sự
giảm dần chức năng hô hấp qua thời gian ở bệnh nhân hen phế quản.

Tái tạo lại đường thở bao gồm tăng sản các tế bào có chân, xơ hoá dưới
biểu mô, tăng số lượng và kích thước các tân mạch dưới niêm mạc, loạn sản
và phì đại cơ trơn phế quản, phì đại các tuyến dưới biểu mô.


18

Tái tạo lại đường thở liên quan chặt chẽ với quá trình viêm thông qua
các cytokines và các chất trung gian gây viêm trong hen. Cơ trơn phế quản
đóng vai trò quan trọng trong tái tạo lại đường thở. Thay đổi chức năng cơ
trơn đường thở có thể tác động trực tiếp lên quá trình viêm ở lớp dưới niêm
mạc và gây tái tạo lại đường thở. Hơn nữa, tăng khối lượng cơ trơn đường thở
góp phần làm tăng tắc nghẽn đường thở. Từ hiện tượng viêm mãn tính đường
thở và tăng phản ứng phế quản dần dần làm thay đổi hình thái tổ chức giải
phẫu bệnh của phế quản ở trẻ bị HPQ bao gồm:


Thâm nhiễm tế bào viêm (dưỡng bào, tế bào lympho T, bạch cầu ái
toan và các tế bào khác).



Phù nề mô kẽ.



Phá huỷ biểu mô phế quản và làm dày lớp dưới màng đáy.




Tăng số lượng tế bào tiết nhầy và phì đại các tuyến dưới niêm mạc



Giãn mạch



Nút nhầy trong lòng phế quản.

Viêm là quá trình bệnh lý chủ yếu trong HPQ, có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xác định hướng điều trị dự phòng hen và xử trí các cơn hen cấp [7].
1.2. Triệu chứng và chẩn đoán hen phế quản
1.2.1. Triệu chứng
* Triệu chứng cơ năng
- Ho: lúc đầu ho khan, sau xuất tiết nhiều đờm rãi, ho dai dẳng không
có giờ nhất định, ho nhiều về đêm, nhất là khi thay đổi thời tiết
- Khạc đờm: khi trẻ ho thường khạc nhiều đờm rãi, đờm trắng. Nếu
đờm mủ tức là có bội nhiễm viêm phế quản do vi khuẩn.
- Khó thở: chủ yếu là khó thở ra, kéo dài. Trường hợp nhẹ khó thở chỉ
xuất hiện khi gắng sức, khi ho, khi khóc, cười hoặc khi nuốt.
- Trường hợp điển hình khó thở liên tục, khó thở ra, có tiếng khò khè,


19

cò cử [75] thường gặp về đêm, gần sáng. Có thể có tiền triệu trước khi xuất
hiện khó thở như hắt hơi ngứa mũi, chảy nước mũi hoặc có một số dấu hiệu
báo trước như chán ăn, đau bụng, nặng ngực… [79]. Thường nặng hơn về
đêm và sáng sớm, hoặc khi có tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ khởi phát hen

(bụi, khói, lông súc vật, phấn hoa, thay đổi thời tiết…) hoặc có tiền sử bố mẹ
hoặc bản thân bị hen hoặc các bệnh dị ứng khác. Khó thở nặng trẻ có thể tím
tái, vã mồ hôi, nói từng từ, không ăn uống được. Có thể có các biến chứng
như: Tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, rối loạn nhịp thở, ngừng thở.
Nghiên cứu của Tạ Văn Trầm (2011) cho tỉ lệ ho là 35,0%, khò khè
28,6%, khó thở 14,7%, khạc đờm 13,7% và nặng ngực 8,0% [43]. Đối với các
trường hợp HPQ nặng thì các triệu chứng lâm sàng chiếm tỉ lệ cao: ho chiếm
99%, khò khè 98%, mạch nhanh 82,4%, nhịp thở nhanh 100%, thở co lõm
ngực 100%, tím tái chỉ chiếm 31,4% [3].
* Triệu chứng thực thể
- Nhìn: Nhịp thở nhanh, co rút lồng ngực.
- Gõ: Có thể thấy vang hơn bình thường, vùng đục trước tim giảm.
- Nghe: Phổi có ran rít, ran ngáy, tiếng thở khò khè, đặc biệt rõ khi thở
ra mạnh và kéo dài. Trường hợp nặng rì rào phế nang giảm, có thể nghe thấy
ran ẩm ở trẻ nhỏ ở cả 2 thì thở ra và thở vào.
- Trường hợp HPQ mạn tính kéo dài, lồng ngực như bị giãn ra, lồng
ngực có thể biến dạng nhô ra phía trước, vai nhô lên, các xương sườn nằm
ngang, các khoang liên sườn giãn rộng… những trẻ này thường chậm lớn.
Nghiên cứu của Vũ Thị Hồng (2016) thấy triệu chứng lâm sàng khi
khám thu nhận bệnh nhân: rale rít 76,0%, rale ngáy 38,0% [26].
* Cận lâm sàng
- Công thức máu: tăng bạch cầu.
- Định lượng IgE toàn phần: thường tăng so với lứa tuổi.
- Khí máu: trong cơn hen có thể giảm SpO2, có thể có toan hô hấp (PH


20

giảm, PCO2 tăng, BE âm) nếu khó thở kéo dài. Ngoài cơn hen khí máu ở giá
trị bình thường [7].

- Thăm dò chức năng hô hấp: có giá trị trong việc đánh giá mức độ hen,
mức độ tắc nghẽn hô hấp, mức độ rối loạn thông khí trong hen phế quản, cũng
như đánh giá hiệu quả điều trị. Phương pháp này đòi hỏi trẻ phối hợp phải hít
vào và thở ra gắng sức. Rối loạn thông khí được đánh giá bằng các thông số:
+ Dung tích sống (VC) (VC - Vital capacity: thể tích của các khí trong
phổi sau khi thở vào tối đa) giảm < 80% so với lý thuyết
+ FEV1 (Forced expiratory volume in one second: thể tích thở ra gắng
sức trong giây đầu tiên), FEV1 < 80% so với lý thuyết
+ Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 80% so với lý thuyết
+ Chỉ số Tiffeneau (FEV1/VC) < 70% so với lý thuyết [2].
+ Đo lưu lượng đỉnh (PEF: Peak Expiratory Flow: lưu lượng đỉnh):
nhằm dự đoán cơn hen cấp. PEF tăng 60 lít/phút hoặc ≥ 20% sau khi hít thuốc
giãn phế quản so với trước khi hít thuốc giãn phế quản hoặc PEF thay đổi
hàng ngày ≥ 20% (giá trị đo buổi sáng giảm ≥ 20% so với chiều hôm trước)
có thể gợi ý chẩn đoán hen. Ngoài ra có thể theo dõi nếu PEF giảm hơn 15%
sau 6 phút chạy hoặc vận động gắng sức cũng là một gợi ý chẩn đoán hen.
+ VMES (Thể tích khí thở ra trung bình/giây) giảm
+ Thể tích cặn (RV-Residual volume) tăng [2].
- Các test trong thăm dò chức năng hô hấp
+ Test phục hồi phế quản: đo chức năng thông khí trước và sau khi
dùng salbutamol dạng phun hít với liều lượng 200µg sau 10 phút. Nếu FEV 1
tăng ≥ 12% (hoặc ≥ 200ml) thì coi là test phục hồi phế quản dương tính, điều
đó chứng tỏ rối loạn thông khí tắc nghẽn có đáp ứng với thuốc giãn phế quản.
+ Test kích thích phế quản: Sử dụng test methacholin, test gắng sức
hoặc hít liều tăng dần nồng độ dị nguyên nghi ngờ. Test dương tính khi giảm
FEV1 >20% so với trước khi thử test [2].


21


- X quang phổi: Trong cơn hen lồng ngực căng, phổi sáng do ứ khí, nếu
hen lâu ngày có thể thấy hình ảnh khí phế thũng do giãn phế nang, tâm phế
mạn… Trẻ nhỏ có thể thấy hình ảnh xẹp phổi trong trường hợp tắc một nhánh
phế quản do đờm dãi xuất tiết nhiều [7].
- Các xét nghiệm khác:
+ Đờm: Có nhiều bạch cầu ái toan, vòng xoắn cushman và tinh thể
Charcot-Leyden.
+ Test lẩy da: Thường dương tính với các dị nguyên dạng hít [2].
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Toàn (2012) thấy đa số bệnh nhi bị HPQ
có tăng số lượng bạch cầu (72,6%) và tăng bạch cầu đa nhân trung tính
(66,0%) [42]. Nghiên cứu của Hoàng Lan Anh (2014) trên bệnh nhân HPQ
cho kết quả: Chức năng thông khí phổi có 50% rối loạn thông khí tắc nghẽn;
47,7% rối loạn thông khí hỗn hợp; 28,6% thay đổi PEF > 15% và 7,1% thay
đổi PEV1 > 15% sau test hồi phục phế quản [4]. Nghiên cứu của Vũ Thị Hồng
(2016) thấy hình ảnh trên bệnh nhi HPQ là phổi tăng sáng 40,0% [26].
* Tiền sử
- Bản thân: Trẻ có cơ địa dị ứng như chàm thể tạng, viêm mũi dị ứng,
mề đay. Hoặc có tiền sử tiếp xúc với dị nguyên hô hấp (bụi khói, phấn hoa,
lông xúc vật...), dị nguyên thức ăn (tôm, cua, trứng, sữa...), các hoá chất và
thuốc sau đó lên cơn hen hoặc khò khè. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quỳnh
Lê (2012) trên trẻ HPQ cho tỉ lệ trẻ HPQ có viêm mũi dị ứng là 65,8%. Tỉ lệ
trẻ hen bậc 1 có viêm mũi dị ứng là 12,5%, bậc 2 là 50,0% và bậc 3 là 37,5%
[30]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thái Hà (2017) trên trẻ HPQ cho tỉ lệ trẻ có
kèm viêm mũi dị ứng là 22,4%; viêm da cơ địa, mề đay là 17,3% [20].
Nghiên cứu của Trịnh Thị Hồng Nhiên và cs (2007) cho kết quả: trẻ có bậc
hen càng nặng, càng phản ứng mạnh với mạt nhà và gián. Trẻ có dị ứng với
mạt nhà, chó, mèo và nấm mốc có tỉ lệ có cơn hen nặng nhiều hơn [34].


22


- Gia đình: Có bố, mẹ, anh chị em bị hen hoặc các bệnh dị ứng như
viêm mũi dị ứng, mề đay. Nghiên cứu cho thấy trẻ có nguy cơ bị HPQ cao
gấp 4 lần nếu cả bố mẹ và ông bà đều bị HPQ (OR = 4,27); trẻ có nguy cơ bị
HPQ cao gấp 1,52 lần nếu có ông bà bị HPQ [78]. Nghiên cứu cho thấy, trẻ có
nguy cơ bị HPQ gấp 2,4 lần (95%CI: 1,2 - 4,6) nếu mẹ bị hen phế quản, có
nguy cơ bị HPQ gấp 2,6 lần (95%CI: 1,2 - 5,4) nếu có tiền sử dị ứng [68].
1.2.2. Chẩn đoán hen phế quản trẻ em
Chẩn đoán HPQ trẻ em khó hơn ở người lớn, nhất là trẻ nhỏ dưới 5
tuổi, triệu chứng lâm sàng không rõ ràng, khó phát hiện, nguyên nhân khò
khè, ho, khó thở. Ở lứa tuổi này rất phức tạp và sự hợp tác của trẻ trong việc
tiến hành các thăm dò chức năng hô hấp khó thực hiện. Vì vậy phải khai thác
tiền sử, thăm khám tỉ mỉ, toàn diện để xác định chẩn đoán [2], [7], [53].
Bốn bước để chẩn đoán hen phế quản trẻ em
(1) Khai thác bệnh sử, tiền sử gia đình và bản thân
(2) Khám lâm sàng
(3) Thăm dò cận lâm sàng
(4) Chẩn đoán phân biệt
* Khai thác bệnh sử, tiền sử gia đình và bản thân
- Trẻ có các dấu hiệu: Ho, thở khò khè, khó thở, nặng ngực. Những dấu
hiệu này xuất hiện nhiều lần, tái đi tái lại và thường xảy ra nặng hơn vào ban đêm
làm trẻ phải thức giấc.
- Tiền sử tái phát nhiều lần, tiền sử gia đình có người bị hen.
- Cơ địa dị ứng, chàm, mẩn mề đay.
- Phát hiện các dị nguyên hô hấp, thức ăn và thời tiết.
- Tìm các ổ nhiễm khuẩn mạn tính ở đường hô hấp như viêm amydal,
VA, viêm xoang... coi như gai kích thích [11], [12].
* Khám lâm sàng
- Thở khò khè với âm độ cao khi thở ra, khò khè có tính chất tái diễn,



23

thường xuất hiện nhiều về ban đêm
- Ho xuất tiết tăng nhiều về ban đêm
- Khó thở: thở nhanh, rút lõm lồng ngực. Khó thở tái phát, trường hợp nặng
trẻ phải ngồi chống tay cúi về phía trước, không nằm được, trẻ vật vã, kích thích
khó chịu, tím tái….
- Nghe phổi có nhiều ran rít, ran ngáy
- Lồng ngực hình thùng (hen lâu ngày)
- Đánh giá mức độ nặng nhẹ của cơn hen theo lâm sàng (hoặc theo
GINA-Global Initiative for Asthma)
Bảng 1.2. Đánh giá mức độ nặng nhẹ của cơn hen theo lâm sàng [11]
Mức độ nặng nhẹ
Triệu chứng lâm sàng
Nhẹ
Không hoặc khó thở nhẹ
Khó thở, nhịp thở nhanh, rút lõm
Trung bình
lồng ngực
Khó thở (phải ngồi thở), rút lõm
Nặng

lồng ngực, co kéo cơ ức đòn chũm,

Cơn nguy kịch

không ăn, không bú được
Tím tái, vật vã, hôn mê


SpO2
SpO2 > 95%
SpO2 91 - 95%

SpO2 61 - 90%
SpO2 ≤ 60%

* Thăm dò cận lâm sàng
- Theo dõi sự thay đổi PEF
- Tăng bạch cầu ái toan, IgE trong máu, test lẩy da với các dị nguyên
- Xquang có dấu hiệu khí phế thũng hoặc có thể có xẹp phổi trong
trường hợp tắc một nhánh phế quản do đờm dãi xuất tiết nhiều
- Điều trị thử thuốc giãn phế quản kích thích β2 và ICS có hiệu quả [11], [12].
* Chẩn đoán phân biệt
- Trẻ đẻ non, mềm sụn thanh quản, hút thuốc thụ động…
- Nhiễm khuẩn hô hấp do virus:
+ Trẻ <2 tuổi: Thường do virus hợp bào hô hấp (Respiratory Syncitial
Virus). Thường là khò khè lần đầu với triệu chứng cấp tính, khó thở, suy hô


24

hấp nặng do tắc nghẽn các phế quản nhỏ (tiểu phế quản). Có thể khò khè tái
phát mỗi khi nhiễm khuẩn đường hô hấp.
+ Trẻ ≥ 2 tuổi: Thường do nhiều loại virus khác. Đặc điểm của loại khò
khè này là trẻ không có cơ địa dị ứng. Phần lớn khò khè dưới 3 tuổi mà không
có cơ địa dị ứng thường là nhiễm khuẩn hô hấp do virus.
- Tắc mũi: Do các nguyên nhân gây phù nề, xuất tiết nhiều do viêm mũi
họng, nhiễm khuẩn hô hấp trên, hẹp lỗ mũi sau, polip mũi và các dị vật ở mũi.
- Viêm tiểu phế quản: thường gặp ở trẻ nhỏ bụ bẫm có cơ địa dị ứng,

thuốc giãn phế quản ít tác dụng. Bệnh có thể gây khò khè kéo dài, ít tái phát.
- Stridor thanh quản bẩm sinh: Thường xuất hiện triệu chứng sau khi
sinh. Trẻ có tiếng thở rít thanh quản ở thì thở vào.
- Bệnh quánh niêm dịch: Bệnh có triệu chứng khò khè giống như hen,
cần thử nghiệm test mồ hôi. Ngoài ra trẻ có thể có dấu hiệu rối loạn tiêu hóa.
Bệnh bắt đầu từ nhỏ và có tiền sử nhiễm khuẩn đường hô hấp nhiều lần.
- Dị vật phế quản: Xuất hiện khó thở, khò khè, nhiều khi rất dễ nhầm với
HPQ. Thường xảy ra đột ngột và có hội chứng xâm nhập.
- Các nguyên nhân chèn ép: Hạch lao đặc biệt là các hạch vùng trung
thất, tuyến hung to.
- Hội chứng Wiskott Aldrich (suy giảm miễn dịch - giảm tiểu cầu và
chàm thể tạng) giảm đáp ứng với kháng nguyên Polysaccharid với số lượng
IgG bình thường nhưng IgA và IgM giảm [2], [11], [12].
1.3. Điều trị dự phòng hen phế quản
1.3.1. Mục tiêu điều trị dự phòng hen phế quản
Cho đến nay việc chữa khỏi hẳn bệnh HPQ vẫn còn là thách thức lớn,
nhưng những tiến bộ trong điều trị dự phòng hen đã không chỉ dừng lại ở mức
kiểm soát được các triệu chứng mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống của các bệnh nhân HPQ. Bệnh có thể điều trị dự phòng và kiểm soát một
cách hoàn toàn, đáp ứng các mục tiêu sau:


25

- Giảm tối thiểu hoặc không có triệu chứng của bệnh, kể cả về đêm.
- Giảm tới mức tối thiểu các cơn hen cấp tính.
- Hạn chế sử dụng thuốc cường β2 tác dụng ngắn.
- Không tử vong, không cấp cứu do cơn hen cấp.
- Không hạn chế hoạt động thể lực.
- Lưu lượng đỉnh gần mức bình thường và chênh lệnh lưu lượng đỉnh

dưới 20% trong ngày.
- Giảm tới mức tối thiểu hoặc không có tác dụng không mong muốn
của thuốc [7], [13], [57].
1.3.2. Nội dung điều trị dự phòng hen phế quản
Điều trị dự phòng hen theo mức độ nặng nhẹ của bệnh theo khuyến cáo
của GINA [57] đối với từng bậc hen cụ thể như sau:
- Bậc 1 (Hen nhẹ, ngắt quãng): không cần điều trị thuốc dự phòng.
- Bậc 2 (Hen nhẹ, dai dẳng): chỉ dùng một loại thuốc dự phòng cơn nếu
cần, đó là sử dụng ICS hoặc cromone hoặc leucotrien.
- Bậc 3 (Hen vừa, dai dẳng): phối hợp ICS với một trong các loại thuốc
khác như LABA dạng hít hoặc dạng uống hoặc theophyline phóng thích chậm
hoặc leucotrien.
- Bậc 4 (Hen nặng, dai dẳng): Dùng liều cao ICS hoặc uống, phối hợp
với LABA dạng hít hoặc uống, cộng với 1 trong 2 loại thuốc khác như
theophyline phóng thích chậm hoặc leukotrien.


×