Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN lý PHÁT TRIỂN đội NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU học HUYỆN lâm hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.46 KB, 28 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU
HỌC


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
- Những công trình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, công trình nghiên cứu được thừa nhận như một triết lý
giáo dục thế kỷ XXI đó là báo cáo của Ủy ban Quốc tế về giáo dục, với tên
gọi “học tập, một kho báu tiềm ẩn” của Jacques Delors, do UNESCO công
bố tháng 4 năm 1996. Trong đó một nền giáo dục cần thiết cho thế kỷ XXI
phải là học tập suốt đời và xã hội học tập. Học tập suốt đời được coi là chìa
khóa mở cửa vào thế kỷ XXI, xã hội học tập là xã hội mà ở đó tất cả mọi
người dân đều có cơ hội học tập để phát huy hết tiềm năng của mình.
Các nhà giáo dục hàng đầu thế giới như Alvin Toffler, Warren
Bennis, Stephen Covey, Gary Hamel, Kevin Kelly, Philip Kotler, John
Kotter Michael Porter, Perer Senge, Thoms L. Friedman, Raja.Roysingh,
Tsunesaburo Makiguchi đã phân tích các đặc trưng của xã hội hiện đại, một
xã hội được xây dựng trên nền tảng của tri thức đang phát triển rất nhanh,
biến đổi rất mau lẹ ở cấp độ toàn cầu, từ đó các ông kết luận rằng cần phải
xây dựng một xã hội học tập giúp cho mọi người dân được học tập thường
xuyên và suốt đời.
Công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên theo tiếp cận
quản lý nguồn nhân lực; chú trọng tới chất lượng đội ngũ giáo viên; đề cao
khía cạnh phát triển bền vững và thích ứng nhanh của từng giáo viên và cả
đội ngũ trước tiến trình phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế trên
thế giới. Trong những số đó, chúng ta phải đề cập đến các công trình
nghiên cứu của: David C.B (1979 “Teachers”); Harry Kwa (2004
“Information Technology Training Program for Student and Teachers”);
Fumiko Shinohara (2004 “ICTs in Teachers Training, UNESCO”) [25].
Tại Singapore chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao,


nơi đây luôn chú trọng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho những khu vực


nghiên cứu và đặc biệt quan tâm đến hệ thống các trường đại học. Đất
nước này thường xuyên gửi sinh viên giỏi đi đào tạo ở nước ngoài.
Ở Hàn Quốc chính sách và chiến lược phát triển giáo dục trong giai
đoạn mới được hoạch định dựa theo yêu cầu phát triển của quốc gia hướng
vào thế kỷ XXI với 3 đặc điểm: một quốc gia phúc lợi, công bằng, ổn định
và dân chủ; một xã hội phồn vinh, bình đẳng, công nghiệp hoá và định
hướng thông tin cao; một hệ thống tự do và năng động của xã hội mở và
định hướng toàn cầu hoá
Như vậy, hệ thống giáo dục luôn được các quốc gia quan tâm phát
triển và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nâng cao trình độ
dân trí, phát triển nguồn nhân lực và nhu cầu giáo dục của các tầng lớp cư
dân, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của quá
trình toàn cầu hoá và sự ra đời của nền kinh tế tri thức. Dù ở bất kỳ nơi đâu,
họ giàu hay nghèo, da trắng hay da màu, châu Á hay châu Âu, đội ngũ giáo
viên luôn có vị trí quan trọng và quyết định vị thế và trình độ phát triển của
đấtt nước mình
- Những công trình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán coi giáo dục và đào tạo là
Quốc sách hàng đầu, luôn đặt đội ngũ giáo viên vào vị trí trung tâm. Nhà
giáo luôn được xã hội tôn vinh, kính trọng, được gọi là nghề cao quý. Đối
với sự phát triển của đất nước; “Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị
quyết, Đề án, Chiến lược phát triển giáo dục; Luật giáo dục và nhiều giải
pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học
đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Những công trình
về đổi mới giáo dục và phát triển đội ngũ giáo viên đã nghiên cứu theo 3
hướng:
Thứ nhất là nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát

triển đội ngũ giáo viên trong thời kỳ hiện nay. Các công trình kể trên hầu


hết vẫn còn để lại khoảng trống nghiên cứu về quản lý đội ngũ giáo viên,
về chính sách tuyển dụng và về vai trò mới, vị trí mới của đội ngũ giáo viên
trong tiến trình phát triển nhà trường Việt Nam trong hội nhập quốc tế và
xu thế toàn cầu hoá. Thứ hai là nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Thứ ba nghiên cứu phát triển
đội ngũ giáo viên dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực.
Năm 2005, Giáo sư Đinh Quang Báo nghiên cứu; “Giải pháp đổi
mới phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên”.
Tác giả Đặng Quốc Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa năm 2007 đã
viết; “Cẩm nang nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ giáo viên”.
Cũng vào thời điểm đó, các tác giả Bùi Văn Quân, Nguyễn Ngọc Cầu
nghiên cứu về; “Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội
ngũ giảng viên” [21].
Một số đề tài, luận văn thạc sỹ, tiến sỹ chuyên ngành QLGD như:
luận văn thạc sỹ của tác giả Lưu Văn Hiệu (2014, Biện pháp xây dựng quy
hoạch phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ
đến năm 2020); Nguyễn Tấn Phát (2008, Quy hoạch phát triển đội ngũ
giáo viên tiểu học thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long đến năm 2015);
Nguyễn Hữu Thiên (2008, Quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học
tỉnh Hải Dương giai đoạn 2010- 2015); Lê Huy Chính (2012, Quản lý hoạt
động bồi dưỡng phát triển năng lực giáo viên THPT theo chuẩn nghề
nghiệp) [16].
Trên địa bàn huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng chưa có công trình
nghiêm cứu đề cập đến công tác phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học ở cấp
huyện một cách đầy đủ và có hệ thống. Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra một
số biện pháp phù hợp với đặc điểm tình hình của huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm
Đồng trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học huyện Lâm Hà

theo tiếp cận quản lý nguồn nhân lực.


- Một số khái niệm cơ bản
- Quản lý
Theo từ điển Tiếng Việt (2001), Viện Ngôn ngữ học định nghĩa:
“Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; là tổ chức và
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [18].
Theo PGS.TS. Trần Quốc Thành: "Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu của tổ chức đã đề ra"
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là các hoạt động được thực hiện
nhằm đảm bảo sự hình thành công việc qua nỗ lực của người khác. Hoặc:
Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người
cộng sự khác cùng chung một tổ chức” [10]
Quản lý là tác động của chủ thể vào đối tượng quản lý trong một tập
thể (hay một hệ thống xã hội) với những phương pháp vừa có tính khoa học
lại vừa có tính nghệ thuật, nhằm đạt mục tiêu chung cũng như mục tiêu
riêng của các đối tượng trong tổ chức. Nhà lý luận người Pháp Henry Fayol
(1841-1925) cha đẻ của thuyết quản lý hành chính cho rằng: “Quản lý hành
chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm
tra”. Tác giả Ferdrick Winslow Taylor (1856-1915) người được coi là cha
để của thuyết quản lý khoa học cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác
điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn
thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất”;
Theo Harold Kroon: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm
bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục
đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi
trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với
thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất…Với tư cách



thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là
một khoa học” [26]
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi cho rằng; “Quản lý là hoạt động có
ý thức của con người nhằm phối hợp hành động để đạt được các mục tiêu
đề ra một cách hiệu quả nhất” [19]
- Quản lý giáo dục
Quản lí giáo dục được hiểu; “là những tác động tự giác có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến
tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả
mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội”
[18]
Tác giả Trần Kiểm (2016), Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý
giáo dục, nhà xuất bản Đại học sư phạm, đưa ra định nghĩa: “Quản lí giáo
dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của
mình”. Như vậy, con người thể hiện cái nguyên mẫu lí tưởng của tương lai
được biểu hiện trong mục đích đang ở trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái hiện
thực.
Các tác giả Nguyễn Kì, Bùi Trọng Tuân (1984), Một số vấn đề của lí
luận quản lý giáo dục. Tủ sách Trường Cán bộ quản lý giáo dục - Bộ Giáo
dục, đưa ra định nghĩa như sau: “Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục,
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra
tính vượt trội của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ
hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong
điều kiện bảo đảm sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến
động”.
Các định nghĩa trên tương ứng với sự phát triển hệ thống giáo dục
trên quy mô cả nước. Chúng bổ sung cho nhau: đòi hỏi tính định hướng,



tính đồng bộ toàn diện đối với những tác động quản lý và đòi hỏi sự cụ thể
của những tác động quản lý vào các đối tượng nhằm đạt mục tiêu quản lý.
Qua những khái niệm trên; “quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức
của con người nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát, …
một cách hiệu quả nhất các nguồn lực giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát
triển giáo dục, kinh tế - xã hội”[18].
- Phát triển giáo viên
* Phát triển
Theo từ điển triết học: “Phát triển là một quá trình vận động từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đó cái cũ biến mất và cái mới ra
đời...”. Theo Từ điển Anh Việt định nghĩa: "Phát triển là làm cho ai/cái gì
tăng trưởng dần dần, trưởng thành hơn, tiến triển hơn hoặc có tổ chức hơn"
Qua hai định nghĩa trên, chúng tôi cho rằng: “Phát triển là sự vận
động đi lên của mọi sự vật, hiện tượng; tăng về số lượng, điều chỉnh cơ cấu,
nâng cao chất lượng tuân theo những quy luật nội tại khách quan của
chúng” [19].
* Giáo viên
Theo từ điển Tiếng Việt giáo viên được định nghĩa như sau: “Người
dạy học ở bậc phổ thông hoặc tương đương ” [18].
Ngày 4 tháng 12 năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục số 44/2009/QH12, ghi rõ: "Nhà giáo
giảng dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên
nghiệp gọi là giáo viên".
Theo Luật Giáo dục (2005); "Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác".


Như vậy, phát triển giáo viên là sự vận động đi lên; tăng về số

lượng, điều chỉnh cơ cấu, nâng cao chất lượng người làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác.
- Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học
Khái niệm đội ngũ dùng để chỉ các tổ chức trong xã hội như: đội ngũ
cán bộ quản lý, đội ngũ công nhân, đội ngũ giáo viên… “Đội ngũ là tập
hợp một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay
nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung
mục đích xác định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích
vật chất và tinh thần cụ thể”
Theo từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học [18]. “Đội ngũ là tập
hợp một số đông người, cùng chức năng nghề nghiệp thành một lực
lượng”. Qua việc nghiên cứu, phân tích một số khái niệm, chúng tôi kết
luận rằng; “đội ngũ giáo viên tiểu học là tập hợp những nhà giáo giảng dạy
trong các trường, các cơ sở giáo dục cấp tiểu học”.
Như vậy, phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học là sự vận động đi lên;
tăng về số lượng, điều chỉnh cơ cấu, nâng cao chất lượng những nhà giáo
giảng dạy trong các trường, các cơ sở giáo dục cấp tiểu học.
- Tiếp cận quản lý nguồn nhân lực
Tiếp cận quản lý nguồn nhân lực là xu hướng đã và đang diễn ra ở
mọi quốc gia trên thế giới. Qua đó thực hiện công tác tuyển chọn, quy
hoạch, luân chuyển, sử dụng, đánh giá, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Đưa ra những tiêu chí, ưu đãi nhằm thu hút, trọng dụng người có tài năng,
có đạo đức, có tình yêu nghề nhằm tạo động lực, khích lệ, đánh giá kịp thời
những nỗ lực, đóng góp, hăng say làm việc nhằm nâng cao năng suất, đặc
biệt là hiệu quả dạy và học trong tình hình giáo dục hiện nay
Quản lý nguồn nhân lực khởi đầu từ Anh quốc rồi lan rộng ra các
quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và nhiều


nước đang phát triển. Dựa trên năng lực của mỗi cá nhân nhà tuyển dụng sẽ

đưa ra những vị trí thích hợp với khung năng lực nhằm pháy huy được
những điểm mạnh của cá nhân đó.
Quản lý nguồn nhân lực theo mô hình KSA (Knowledge, Skill,
Attitudes) đồng thời quan tâm phát triển năng lực tư duy (IQ), năng lực
cảm xúc (EQ), và năng lực văn hóa (CQ) nhằm phát huy năng lực tổng hợp
con người trong tập thể. Để xác định các năng lực then chốt, các nhà quản
lý sử dụng khung năng lực (Competency Framework/model), đó là công cụ
xác định các yêu cầu về nhận thức, thái độ, hành vi.
Ngày 22/4/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 36/2013/NĐ-CP về
vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, trong đó có quy định về xây dựng
khung năng lực cho từng vị trí việc làm. Bên cạnh đó nhằm đáp ứng nhu cầu
xã hội phát triển năng lực con người, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý, có phẩm chất đạo đức; “có đức, có tài” Bộ Nội vụ đã ban hành
Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 36/2013/NĐ-CP, trong đó có
hướng dẫn về khung năng lực. Mục đích đề ra cho đến năm 2015 có 70% cơ
quan, tổ chức của Nhà nước từ Trung ương đến các huyện có thể đảm bảo
được 100% các chức danh và tiêu chuẩn công chức theo hướng đề cao trách
nhiệm, uy tín, giao việc đúng người, phát huy được năng lực cá nhân.
Việc quan tâm đến mức sống, chế độ đãi ngộ cần phân định rõ nét,
chú trọng năng lực và sự sáng tạo đối với tầng lớp trẻ. Tránh việc chỉ chú
trọng đến thâm niên là lương cao dẫn đến hiện tượng chây ỳ, thiếu nỗ lực,
cống hiến, sáng tạo của giới trẻ. Thực tế khi làm việc trong môi trường
nước ngoài, tính cạnh tranh và đòi hỏi công việc đã cho thấy tầm quan
trọng của công tác đánh giá năng lực, kết quả thực thi công tác và việc áp
dụng chính sách đãi ngộ dựa trên kết quả đánh giá đó. Từ đó, tạo động lực
làm việc, tạo tâm lý vui vẻ, bình yên trong cuộc sống, thích thú, say mê, tập


trung và toàn tâm toàn ý phục vụ và bồi đắp niềm tự hào khi đảm đương
một chức vụ, hay chức danh công chức nhất định.

Như vậy, tiếp cận quản lý nguồn nhân lực là một phương thức quan
trọng trong công tác cán bộ để xây dựng chế độ nhằm đảm bảo mọi người
đều có cơ hội bình đẳng, công bằng khi gia nhập, cống hiến và thăng tiến
trong sự nghiệp
- Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học theo tiếp cận quản lý nguồn nhân
lực
Phát triển đội ngũ giáo viên có đầy đủ phẩm chất và năng lực của cá
nhân cũng là mục tiêu của ngành giáo dục. Việc quản lý công chức, viên
chức dựa trên năng lực nhằm thu hút và trọng dụng người có năng lực. Khi
có trình độ, được động viên, khuyến khích, được chăm lo đảm bảo cuộc
sống, được sống trong môi trường thuận lợi, mọi người quan tâm, ủng hộ.
Đặc biệt được trọng dụng và giao phó những công việc phù hợp với năng
lực, sở trường, tránh hiện tượng: “chảy máu chất xám”. Chẳng hạn như; tại
một số cơ sở giáo dục đã tạo điều kiện để cá nhân tham gia học tập nâng
cao trình độ. Bên cạnh đó, có một số cơ sở giáo dục, một số doanh nghiệp
khi cá nhân hoàn thành các bậc học thạc sỹ, tiến sỹ nhưng chậm có những
ưu đãi, sắp xếp vị trí công việc hợp lý gây nên tâm trạng buồn chán, nản
lòng trước áp lực, trách nhiệm công việc. Thậm chí cả những bất mãn khi
cống hiến và phấn đấu mà chưa được ghi nhận. Vì vậy, các chế độ, sự quan
tâm kịp thời nhằm thu hút người có tài năng nhằm tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn
thông qua cơ chế, chính sách để những người có năng lực vượt trội, trình
độ cao và phẩm chất đạo đức tốt vào làm việc cho các cơ quan nhà nước.
Tóm lại, phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học là sự vận
động đi lên; tăng về lượng, điều chỉnh cơ cấu, nâng cao chất
lượng những giáo viên giảng dạy trong các trường, các cơ sở
giáo dục cấp tiểu học nhằm đảm bảo mọi người đều có cơ


hội bình đẳng, công bằng khi gia nhập, cống hiến và thăng
tiến.

- Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học
- Vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên và giáo viên tiểu học
Giáo viên có một vị trí vai trò vô cùng quan trọng. Công việc đảm
nhiệm của họ là công việc vất vả, không chỉ giờ lên lớp giảng bài họ còn
soạn giáo án, chấm bài. Giáo viên là người lao động trí óc, nghiên cứu khoa
học và đòi hỏi tính nghệ thuật, tính sáng tạo cao. Do đó nghề giáo đòi hỏi
người giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng, tự tích lũy kinh nghiệm, cập
nhật kiến thức một cách liên tục, thường xuyên trong suốt quá trình dạy
học. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã chỉ ra rằng : “Giáo viên là
nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo
viên phải có đủ đức, đủ tài. Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng
Giáo dục và Đào tạo trong nhà trường. Chất lượng của quá trình đó thể
hiện chủ yếu ở chất lượng của sản phẩm giáo dục. Đó chính là trình độ và
sự phát triển nhân cách của học sinh sau khi kết thúc một quá trình đào
tạo. Giáo viên là nguồn nhân lực, có vị trí cao quý trong xã hội nói chung
và trong sự nghiệp "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài"
Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì Giáo dục và Đào tạo càng được
coi trọng bấy nhiêu; “Giáo dục là nền móng vững chắc cho sự phát triển
kinh tế xã hội và đem lại sự thịnh vượng cho các quốc gia. Giáo dục góp
phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển và giữ gìn, phát huy bản sắc
nền văn hoá dân tộc theo xu hướng toàn cầu trong khu vực và quốc tế”.
Như vậy, vị trí và vai trò của người giáo viên, những người hàng ngày hàng
giờ đang cống hiến, dùng nhân cách để giáo dục nhân cách trong lĩnh vực
Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng “biến các mục tiêu
giáo dục thành hiện thực”.


Theo Luật Giáo dục; “Tuổi học sinh bắt đầu học lớp 1 là 6 tuổi. Trẻ
em 6 tuổi lúc này bắt đầu chuyển hẳn sang một giai đoạn mới - giai đoạn

học tập. Giáo dục tiểu học nhằm đạt đến mục tiêu: giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục
học lên trung học cơ sở" (Điều 27, khoản 2, Luật Giáo dục).
Chúng ta phải khẳng định rằng: giáo dục tiểu học là cấp học bắt buộc
, phổ cập nên quy mô rộng lớn nhất. Việc đào đạo đội ngũ giáo viên, bố trí,
sắp xếp công việc, khuyến khích động viên giáo viên tích cực nghiên cứu,
học tập, tập trung, say mê trong hoạt động nghề nghiệp là điều quan trọng,
cấp bách và khả thi. Vì xét cho cùng “ngôi nhà” tiểu học có bình yên, nền
móng đó có vững chắc thì “ngôi nhà” giáo dục Việt Nam mới thay da đổi
thịt, khởi sắc, chuyển mình vượt bậc, “sánh vai với các cường quốc năm
châu”.
Tại mục 1, Điều 17, Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày
22 tháng 01 năm 2014 Thông tư ban hành Điều lệ trường tiểu học có quy
định: "Mỗi lớp học có một giáo viên chủ nhiệm phụ trách giảng dạy một
hoặc nhiều môn học. Biên chế giáo viên một lớp theo quy định hiện hành
của Nhà nước”.
Vị trí, vai trò của người giáo viên tiểu học (GVTH) trong hệ thống
giáo dục của nước ta giai đoạn hiện nay:
Giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hoàn thành phổ cập Giáo
dục tiểu học của từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Giáo viên
tiểu học người thầy đầu tiên của các em thơ. Mỗi khi các em gặp khó khăn,
giáo viên tiểu học luôn gần gũi, động viên. Thậm chí, ở những vùng sâu vùng
xa, khó khăn, giáo viên tiểu học còn trèo đèo, lội suối vận động các em tới
trường.


Giáo viên tiểu học đóng vai trò then chốt, quan trọng trong việc nâng
cao dân trí. Dạy các em biết đọc, biết viết, biết chăm ngoan, từng bước
hoàn thiện nhân cách

Giáo viên tiểu học là người có uy tín, là "thần tượng" đối với học
sinh. Lời nói, cử chỉ, việc làm của thầy cô là sự chuẩn chỉ, mẫu mực và là
tấm gương đối với các em, giúp các em có những nhận thức, phát triển
đúng hướng, tạo ấn tượng, ký ức tốt đẹp đối với tuổi thơ của các em.
Theo Thông tư 07/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 3 năm 2016 quy
định về điều kiện bảo đảm và nội dung, quy trình, thủ tục kiểm tra công
nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ tại Điểm C, Khoản 1, Điều 4
quy định “100% số giáo viên đạt yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu
học theo quy định tại Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04 tháng 5
năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học”;
- Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học
Quyết định số 14/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 04 tháng 5 năm
2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo
viên tiểu học. Nội dung chủ yếu đối với giáo viên tiểu học được quy định
cụ thể ở ba lĩnh vực cụ thể:
Lĩnh vực 1: Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
Lĩnh vực 2: Kiến thức
Lĩnh vực 3: Kỹ năng sư phạm
Theo Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2000 của
Chính phủ, giáo viên ở bậc tiểu học sẽ được xếp vào 3 ngạch; “Giáo viên
tiểu học; Giáo viên tiểu học chính; Giáo viên tiểu học cao cấp”
Trong đó, kết cấu tiêu chuẩn nghiệp vụ giáo viên gồm 3 phần; “Chức
trách; Hiểu biết; Yêu cầu trình độ”


Hầu hết giáo viên tiểu học hiện nay đang công tác tại các trường tiểu
học công lập là những viên chức trong biên chế Nhà nước. Do đó, giáo viên
tiểu học còn phải thực hiện theo Pháp lệnh công chức Nhà nước. Người
giáo viên tiểu học luôn thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành các công việc

được giao. Khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ họ được khen thưởng và khi
vi phạm Pháp lệnh họ sẽ chịu trách nhiệm và bị xử lý kỷ luật tùy theo mức
độ vi phạm.
Tóm lại, phẩm chất của người giáo viên tiểu học bao gồm đạo đức
lối sống, tư tưởng chính trị, thái độ đối với cán bộ quản lý, đối với đồng
nghiệp và uy tín đối với các em học sinh thân yêu. Năng lực của người giáo
viên tiểu học bao gồm: sự uyên thâm về tri thức, chuyên môn nghiệp vụ và
quá trình giảng dạy đồng thời là ứng xử trong những tình huống sư phạm
trong nhà trường cũng như gia đình và cộng đồng dân cư. Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học sẽ là mục tiêu để giáo viên tiểu học phấn đấu,
nhiệt huyết trau dồi tri thức, học hỏi đồng nghiệp. Thông qua chuẩn, người
giáo viên biết được những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân nhằm nỗ lực
phát huy mặt mạnh, khắc phục điểm yếu, biết biến yếu thành mạnh, luôn tự
tin, yêu nghề, yêu trẻ. Cũng thông qua chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu
học, các cấp quản lý và các trường đào tạo giáo viên có cơ sở lên kế hoạch
đào tạo; “bồi dưỡng theo hướng đạt chuẩn và trên chuẩn, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của giáo dục tiểu học”. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu
học có tính ổn định tương đối, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác
nhau thì chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học cũng thay đổi nhằm phù hợp
với xu hướng phát triển đất nước.
- Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học đảm bảo số lượng, chất lượng
Phát triển đội ngũ giáo viên phải mang tính đón đầu và liên tục. Có
thể nhận thấy rằng; “Những thiếu sót trong khâu đào tạo nghiệp vụ, các
nhu cầu cập nhật các kỹ năng cần thiết không phải là lý do căn bản duy


nhất dẫn đến phát triển đội ngũ giáo viên cũng như việc bồi dưỡng mang
tính chất chữa cháy, lại càng không thể đóng vai trò chủ chốt trong công
tác phát triển đội ngũ giáo viên. Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học là
xây dựng đội ngũ đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, loại hình và nâng cao

chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học” [11].
Trên thực tế, đội ngũ giáo viên đầy đủ về số lượng và đảm bảo về
chất lượng là niềm mong mỏi của mỗi cán bộ quản lý, là mục tiêu của Bộ
giáo dục và đào tạo. Khi số lượng giáo viên đảm bảo sẽ tạo điều kiện tốt
cho sự phát triển về chất lượng; việc cử giáo viên đi tập huấn, hội thảo, học
tập nâng cao trình độ như thạc sỹ, tiến sỹ sẽ đảm bảo chất lượng, phẩm
chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học trong thời kỳ
đổi mới.
- Phát triển số lượng:
Các nhà trường tiểu học cần được đáp ứng đủ số lượng giáo viên
theo Thông tư 16/2017/TT-BGDĐT ngày 12/7/2017 của Bộ GD&ĐT về
hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm
việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông và công lập:
Đối với trường tiểu học dạy 1 buổi trong ngày được bố trí tối đa 1,20
giáo viên trên 1 lớp;
Đối với trường tiểu học dạy 2 buổi trong ngày; trường phổ thông bán
trú cấp tiểu học và trường dành cho người khuyết tật cấp tiểu học được bố
trí tối đa 1,50 giáo viên trên 1 lớp.
- Đảm bảo chất lượng
Theo Luật Giáo dục 2005, tại Mục 1, Điều 70, Chương IV quy định
tiêu chuẩn của nhà giáo như sau: “Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; Đạt
trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; Đủ sức khoẻ theo
yêu cầu nghề nghiệp; Lý lịch bản thân rõ ràng”


Người giáo viên tiểu học cần thiết phải có các kiến thức và năng lực
cơ bản như:
- Kiến thức về lý luận dạy học, giáo dục học và tâm lý
học sinh tiểu học:
Giáo viên tiểu học cần nắm vững các phương pháp dạy học hiện đại,

đi sâu đi sát vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, luôn thấu hiểu, thương yêu
học trò như con. Luôn linh hoạt, mềm dẻo, có cương có nhu, chân thành
không ngại khó, ngại khổ để có biện pháp giáo dục thích hợp. Từ đó tạo
môi trường học tập ấm áp, yêu thương để các em cảm nhận được tình thầy
trò, tình bạn bè và say mê học tập; “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
- Các môn học trong chương trình
Hiện nay, lớp 1, 2, 3 bao gồm các môn học; “Toán, Tiếng Việt, Âm
nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Đạo đức, Tự nhiên xã hội và Thủ công. Lớp 4, 5
bao gồm các môn; Toán, Tiếng Việt, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Đạo đức,
Kỹ thuật, Lịch sử và Địa lý, Khoa học; Môn tự chọn Tiếng Anh, Tin Học”.
Như vậy, người giáo viên tiểu học cần vững kiến thức, không chỉ
hiểu sâu chuyên môn mà cần có lòng nhiệt tình và có trái tim yêu trẻ, sẵn
sàng vì trách nhiệm mà rèn luyện bản thân; biết kiềm chế, biết thuyết phục,
biết vươn lên trau dồi kiến thức.
Không chỉ đáp ứng về kiến thức, mỗi giáo viên tiểu học cần trang bị
cho bản thân những kỹ năng sau đây; “Kỹ năng chuẩn bị bài giảng và tiến
hành bài giảng; Kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học; Kỹ năng tổ chức và kỹ
năng giao tiếp”
- Đối với việc chuẩn bị bài giảng và tiến hành bài giảng
Khi xác định nội dung kiến thức, giáo viên biết vận dụng linh hoạt
những hiện tượng thực tiễn nhằm minh họa sinh động, đồng thời chọn sách,
tài liệu tham khảo, phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp với trình độ
tiếp thu của học sinh. Có những tiết giảng phối hợp một cách mềm dẻo,


linh hoạt các phương pháp; thuyết trình, kể chuyện, sắm vai sao cho các em
thật sự cuốn hút, hấp dẫn các em qua từng bài giảng
- Đối với kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học
Việc sử dụng thành thạo các thiết bị dạy học làm tăng sự say mê học
tập cho các em. Mỗi hình ảnh đẹp, chính xác với đủ sắc màu sẽ giúp cho tư

duy học sinh phát triển tốt hơn, trí tưởng tượng bay bổng của các em sẽ tô
đẹp thêm cho cuộc sống đời thường.
- Đối với kỹ năng tổ chức và kỹ năng giao tiếp
Đối tượng giao tiếp của giáo viên tiểu học là các em học sinh nhỏ
tuổi, lứa tuổi coi thầy, cô là thần tượng, luôn biết nghe lời và mong muốn
được thầy, cô yêu thương, dạy dỗ; “Người giáo viên tiểu học biết tổ chức
giao tiếp, tổ chức các hoạt động vui chơi, các trò chơi học tập tạo môi
trường cho trẻ em được thể hiện năng lực cá nhân giúp các em học tập tốt
hơn, biến hoạt động giảng dạy thành nghệ thuật cảm hóa con người”
Tóm lại, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học là giúp đội
ngũ đó có được trình độ hiểu biết pháp luật, có trình độ lý luận sắc bén, có
hiểu biết sâu rộng, có các kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu của cấp học.
- Phát triển giáo viên tiểu học là yêu cầu tất yếu, đáp ứng tiếp cận quản
lý nguồn nhân lực
Hệ thống quản lý nguồn nhân lực bao gồm hoạch định nguồn nhân
lực, đào tạo - phát triển nhân sự, đánh giá nguồn nhân lực và đãi ngộ theo
năng lực.
Việc trả lương theo kết quả công việc, nhiều tổ chức áp dụng hệ
thống 3Ps; “Position - vị trí chức danh gắn với mô tả công việc; Person năng lực cá nhân phù hợp với chiều hướng phát triển, Performance - kết
quả thực thi. Các nguyên tắc trả lương này khiến hai yếu tố năng lực và
lương thưởng gắn kết với nhau, mức lương gắn chặt với tính chất, đặc thù,
độ phức tạp của công việc, vị trí việc làm và đề cao năng lực cá nhân”. Việc


trả lương theo khả năng mỗi giáo viên cúng góp phần khiến các thành viên
trong nhà trường đề cao trách nhiệm nhằm mang lại lợi ích và đảm bảo sự
công bằng trong quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân
Việc phát triển giáo viên tiểu học là cần thiết, khả thi, đáp ứng tiếp
cận quản lý nguồn nhân lực. Vấn đề này nếu thực hiện đầy đủ, sát thực sẽ
tạo hiệu quả cao cho giáo dục tiểu học, giảm kinh phí, góp phần vào thành

công của sự nghiệp giáo dục nước nhà đặc biệt đối với giáo dục tiểu học.
-Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học
Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên là quản lý phát triển nguồn nhân
lực; “Quản lý phát triển nguồn nhân lực là một nhiệm vụ quản lý của một
tổ chức, thể hiện trong việc lựa chọn, đào tạo, xây dựng và phát triển các
thành viên của tổ chức, đơn vị do mình phụ trách”.
Theo UNESCO "Con người vừa là mục đích, vừa là tác nhân của sự
phát triển" và "Con người được xem như là một tài nguyên, một nguồn lực
hết sức cần thiết".
Quản lý phát triển nguồn nhân lực bao gồm 3 phạm trù là: “Quản lý
việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, bao gồm: giáo dục và đào tạo; bồi dưỡng
và tự bồi dưỡng; Sử dụng hợp lý đội ngũ nhân lực, bao gồm: tuyển dụng,
sử dụng, đề bạt, sàng lọc một cách hợp lý để đáp ứng yêu cầu phát triển của
tổ chức. Tạo môi trường thuận lợi để nhân lực phát triển. Bao gồm việc tạo
môi trường làm việc thuận lợi, môi trường sống lành mạnh, cũng như xây
dựng các chính sách và môi trường pháp lý phù hợp để nhân lực phát triển.
Theo tác giả: Leonard Nadle (Mỹ), năm 1980 đã đưa ra khái niệm
phát triển nguồn nhân lực và được sơ đồ hóa như sau:
Quản lý nguồn nhân lực

Giáo dục và đào tạo

- Giáo dục, đào tạo
- Bồi dưỡng
- Tự bồi dưỡng

Sử dụng
nguồn nhân lực

- Tuyển dụng

- Bố trí, sử dụng
- Đánh giá
- Đề bạt
- Sàng lọc

Tạo môi trường
thuận lợi cho nhân
lực phát triển
- Môi trường làm việc
- Môi trường sống
- Môi trường pháp lý
- Các chính sách đãi ngộ


Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý nguồn nhân lực
Như vậy, “phát triển nguồn nhân lực là làm gia tăng giá trị con
người trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực... làm
cho con người trở thành những người lao động có những năng lực, phẩm
chất mới và cao hơn đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội” [11]. Hiện nay các nhà giáo dục học cho rằng;
“phát triển nguồn nhân lực là phát triển sinh thể; phát triển nhân cách và
tạo một môi trường thuận lợi cho nguồn nhân lực phát triển”
- Nội dung quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học
- Xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển giáo viên tiểu học
Muốn phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học trước hết phải tiến hành
quy hoạch đội ngũ giáo viên, thực hiện các định hướng của huyện, phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện về công tác tổ chức nhân sự. Công tác nhân sự
càng sát sao, kịp thời càng tạo động lực làm việc cho đội ngũ giáo viên. Từ
đó, phục vụ cho việc phân công nhiệm vụ, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, nâng cao tinh thần phấn đấu, hoàn thiện bản thân của mỗi giáo

viên. Trong bài phát biểu, cán bộ Phòng giáo dục huyện Lâm Hà đã nói:
“Việc lập quy hoạch đội ngũ giáo viên trường tiểu học cho từng giai đoạn
cụ thể là một công việc cần thiết trong công tác quản lý. Quá trình lập quy
hoạch đội ngũ giáo viên tiểu học cần lưu ý: một mặt phải đáp ứng yêu cầu
trước mắt, mặt khác phải chuẩn bị tốt đội ngũ giáo viên tiểu học kế cận để
có một đội ngũ đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ và hợp lý về cơ
cấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới”


Không chỉ lập quy hoạch, mà cần có kế hoạch sử dụng đội ngũ giáo
viên. Nếu sử dụng không hợp lý sẽ khó có thể phát huy được sức mạnh
tiềm ẩn của từng giáo viên thậm chí sẽ làm cho sức mạnh đó yếu đi, kém
hiệu quả, sức ỳ ngày càng lớn và đặc biệt gây tâm lý chán nản, ức chế, bất
mãn và đôi khi là đối phó cho xong nhiệm vụ của người giáo viên.
- Công tác tuyển giáo viên mới
Tuyển mới giáo viên là việc bổ sung vào đội ngũ những giáo viên đủ
tiêu chuẩn theo quy định phù hợp với nhu cầu của mỗi trường tiểu học.
Theo phân cấp quản lý, việc tuyển viên chức giáo viên hiện nay do UBND
huyện chủ trì, các cơ quan tham mưu giúp việc là Phòng Nội Vụ và Phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện; các đơn vị trường học có trách nhiệm tiếp nhận
và phân công nhiệm vụ đối với những giáo viên trúng tuyển.
- Sử dụng đội ngũ giáo viên
Sử dụng đội ngũ giáo viên đạt hiệu quả cao đòi hỏi công tác quản lý
phải làm tốt một số công việc sau:
- Tìm hiểu tâm lý, hoàn cảnh riêng biệt của từng cá nhân, nhóm. Phát
hiện những điểm yếu, điểm mạnh nhằm bố trí, sắp xếp hợp lý công việc cho
họ.
- Trên cơ sở hiệu quả công việc đạt được, cần phân công nhiệm vụ
đúng, phù hợp, phát huy được năng lực, sở trường của họ.
- Để đảm bảo nội quy, quy định được thực hiện đầy đủ, đưa ra quy

chế làm việc rõ ràng, minh bạch, công bằng.
- Đảm bảo nghĩa vụ với quyền lợi của người giáo viên. Thỏa đáng và
công bằng trong đãi ngộ.
Tóm lại, để có thể sử dụng đội ngũ giáo viên một cách hiệu quả đòi
hỏi các cấp quản lý, lãnh đạo phải hoạch định được các chính sách, chế độ rõ
ràng. Đồng thời phân công sử dụng đội ngũ lao động trong từng đơn vị thể


hiện ở việc điều động giáo viên từ điểm chính đến điểm lẻ ở các thôn, bản
đảm bảo sự hài hòa, hợp lý.
Mỗi giáo viên tiểu học đều dạy nhiều môn học, đòi hỏi năng lực tổng
hợp. Tuy nhiên, áp lực công việc đó khá nặng nề, vì họ không phải là toàn
tài, hoàn hảo nên khi phân công nhiệm vụ cần khích lệ động viên và đặc
biệt là lựa chọn công việc phù hợp sẽ có chất lượng và hiệu quả đạt được
tương xứng.
- Công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
Công tác bồi dưỡng thường xuyên là việc làm cần thiết đòi hỏi các
cấp quản lý đặc biệt quan tâm. Đây là hoạt động cần thiết và cấp bách và có
thể tiến hành với nhiều mục đích như: “Bồi dưỡng để đạt chuẩn theo quy
định của ngành học, cấp học; Bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,
nâng chuẩn lên trên chuẩn trình độ đào tạo”
Bồi dưỡng cho họ có thể thực hiện với nhiều hình thức đa dạng,
phong phú như: “Bồi dưỡng thường xuyên hàng năm; Bồi dưỡng theo
chuyên đề ngắn hạn; Bồi dưỡng vào thời gian hè hàng năm; Bồi dưỡng tại
chức, chuyên tu, từ xa...” [11].
- Thực hiện chế độ chính sách đối với đội ngũ giáo viên
Việc thực hiện tốt chế độ chính sách đối với giáo viên là điều kiện
cần thiết để động viên, khuyến khích giáo viên an tâm cống hiến cho ngành
giáo dục. Khi các chế độ, chính sách xã hội dành nhiều sự quan tâm ưu ái
hơn sẽ tiếp thêm động lực lòng yêu nghề, yêu trẻ, tâm huyết hơn đối với

nghề. Mỗi giáo viên trở thành chiếc chìa khóa vạn năng mở cánh cửa tâm
hồn non nớt của các em thơ đón nhận nguồn ánh sáng tri thức, sưởi ấm và
tắm mát cho tâm hồn các em đủ phẩm chất và trí tuệ đón nhận cuộc sống,
xây dựng đất nước.
- Một số yêu cầu đối với công tác phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học


- Dự báo nhu cầu giáo viên là cơ sở để phát triển đội ngũ giáo viên tiểu
học
Về mặt bản chất, dự báo là sự phản ánh trước hiện thực. Do đó, để
làm tốt công tác phát triển giáo viên tiểu học, công tác dự báo trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết; “Dự báo gắn liền với một khái niệm rộng hơn đó là
sự tiên đoán. Dự báo được hiểu là những thông tin được kiến giải có căn cứ
khoa học về trạng thái khả dĩ của đối tượng dự báo trong tương lai, về các
con đường để đạt tới trạng thái trong tương lai ở các thời điểm khác nhau
của đối tượng. Dự báo dựa trên cơ sở nhận thức những quy luật vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy” [11].
Dự báo chính xác dựa trên sự kế thừa sự phát triển theo lộ trình của
ngành giáo dục, nếu bỏ qua quá khứ, thì khó có thể đảm bảo tương lai sẽ ra
sao và không thể dự báo đúng tương lai; “Xét về mặt tính chất, thì dự báo
chính là khả năng nhìn trước, ước tính được những diễn biến khách quan
để xây dựng, quy hoạch, kế hoạch và giải pháp thực hiện đúng mục đích.
Với những quan điểm trên, dự báo quá trình phát triển đội ngũ giáo viên
tiểu học là một tài liệu tiền kế hoạch, nó là nội dung quan trọng nhất của
công tác quản lý. Tuy nhiên kết quả của dự báo không mang tính pháp lệnh
mà chỉ mang tính chất khuyến cáo” [15].
Như vậy, dự báo đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất chiến
lược, quy hoạch tổng thể của quá trình phát triển giúp cho các nhà quản lý có
tầm nhìn xa, đào tạo đội ngũ kế cận một cách có bài bản, tránh những rủi ro
không đáng có trong ngành giáo dục.

- Phát triển đội ngũ giáo viên gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội.
Vai trò to lớn, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
giáo dục được thể hiện qua những hoạt động: “Cung cấp nguồn nhân lực
chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Giáo dục là


nhân tố nòng cốt trong phát triển khoa học - công nghệ; Nâng cao mặt bằng
dân trí làm nền tảng cho sự phát triển đất nước hiện tại và tương lai”.
Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
phát triển kinh tế xã hội có chất lượng được phản ánh qua hệ thống các chỉ
tiêu chủ yếu:
- Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ.
- Chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá.
- Chỉ tiêu phản ánh năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Những chỉ tiêu trên đều được thực hiện qua việc học tập: biển học là
vô bờ, chuyên cần thì cập bến. Do vậy đội ngũ giáo viên phải được đào tạo,
bồi dưỡng để có năng lực trình độ tương xứng. Sự hạn chế về trình độ năng
lực cũng như sự lạc hậu về khoa học, kỹ thuật, công nghệ là nguy cơ làm
giảm chất lượng nguồn nhân lực cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Việc xây dựng đội ngũ giáo viên đã được xác định là một trong những giải
pháp nhằm phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Do
đó cần phải có sự quan tâm đồng bộ từ khâu tuyển chọn đào tạo trong các
trường sư phạm, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng thường xuyên đến việc thay
đổi các chính sách nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của
giáo viên để họ thực sự yên tâm công tác và cống hiến.
- Phát triển đội ngũ giáo viên gắn với chiến lược phát triển ngành Giáo
dục và Đào tạo.
Phát triển đội ngũ giáo viên dù ở mỗi vùng, mỗi địa phương có đặc
điểm khác nhau song nó phải là một bộ phận nằm trong chiến lược chung

của toàn ngành nhằm đảm bảo tính thống nhất và phát triển đúng định
hướng.
Theo định hướng đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay thì hệ
thống trường lớp tiểu học trên địa bàn huyện cơ bản đủ về số trường, lớp, sĩ
số học sinh trên lớp, đảm bảo đủ phòng học để tổ chức dạy học 2


buổi/ngày. Việc còn lại là bố trí, sắp xếp cho hợp lý, đủ số lượng giáo
viên/lớp theo quy định cũng như đủ giáo viên các môn chuyên biệt như:
Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Tin học đặc biệt là giáo viên Tiếng Anh đáp
ứng việc dạy và học Ngoại ngữ đến năm 2020 theo Quyết định 1400/QDTTg ngày 30/9/2008 - Quyết định về việc phê duyệt Đề án "Dạy và học
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020"
Trước yêu cầu đó, đội ngũ giáo viên tiểu học trên địa bàn huyện Lâm
Hà phải đảm bảo đủ số lượng để phục vụ việc dạy 2 buổi/ngày theo tỷ lệ
quy định, kiến thức, kỹ năng bồi dưỡng thường xuyên đáp ứng theo định
hướng đổi mới giáo dục.
- Phát triển đội ngũ giáo viên bằng chính nội lực của địa phương
Trước hết để phát triển đội ngũ giáo viên cần phải có đủ nguồn lực
đầu tư để tăng cường thêm về mặt số lượng, đào tạo, bồi dưỡng để nâng
cao dần chất lượng, có cơ chế, chính sách hợp lý để điều hoà về cơ cấu.
Chính vì vậy huyện Lâm Hà luôn chủ động trong việc phát triển đội ngũ
giáo viên Tiểu học; chủ động và tích cực trong việc phát huy những ưu
điểm, thế mạnh của địa phương đó là:
- Quê hương có truyền thống hiếu học, thường xuyên tổ chức phát
hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, năng lực nổi trội.
- Sự quan tâm của các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể của
huyện trong việc tuyển dụng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cấp tiểu học.
- Mặc dù là huyện trung bình nhưng hàng năm huyện đã dành khoản
ngân sách tối đa chi cho giáo dục trên 20 % tổng ngân sách của huyện chi
cho đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng trường chuẩn quốc gia, mua sắm trang

thiết bị dạy học. Ở cấp tiểu học, số trường đạt chuẩn quốc gia tính đến
tháng 5 năm 2018 là 21/35 trường, đạt tỷ lệ 60%.


- Giáo viên tích cực, hăng hái học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
tham gia các hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh được quan tâm
đầu tư và đạt được kết quả cao.
- Công tác xã hội hóa giáo dục được toàn xã hội quan tâm đầu tư cơ
sở vật chất, trang thiết bị đạt chuẩn tối thiểu, đảm bảo cho hoạt động dạy và
học, cha mẹ học sinh thường xuyên qua tâm đến việc học tập của các em;
công các khuyến học, khuyến tàì được quan tâm hàng năm huyện tổ chức
hội nghị tuyên dương học sinh năng khiếu, gia đình hiếu học…Xây dựng
và đưa vào hoạt động các trung tâm học tập cộng đồng của 16 xã, thị trấn
trong huyện.
- Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học phải cân đối theo địa bàn hành
chính và các cơ cấu khác (độ tuổi, môn dạy, giới tính...)
Lâm Hà là một huyện nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chủ yếu
là chăn nuôi, trồng cà phê, dâu tằm, rau và hoa theo hướng công nghệ cao.
Song những năm gần đây do xu thế phát triển của đất nước nói chung, các
công ty, nhà máy, khu du lịch nghỉ dưỡng được hình thành và phát triển
trên địa bàn huyện đã thu hút một lượng lớn lao động ở địa phương cũng
như các khu vực lân cận vì vậy mật độ dân cư tăng và vấn đề phát triển cân
đối đội ngũ giáo viên tiểu học giữa khu trung tâm và các khu vực khác
trong huyện càng thực sự cần thiết, cần có sự cân đối về tỉ lệ giáo viên giữa
các khu vực trên địa bàn huyện.
- Các yếu tổ ảnh hưởng đến phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học
- Yếu tố cơ sở vật chất
Yếu tố cơ sở vật chất giúp dạy học có chất lượng và hiệu quả cao. Từ
xa xưa con người đã tìm ra và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cho
mục đích này. Cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục phục vụ cho phương pháp

dạy học cũng ra đời và phát triển. Cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục đóng
vai trò hỗ trợ tích cực cho quá trình Dạy - Học. Bởi vì có thiết bị dạy học


×