Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích vấn đề về thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp của DSB thông qua vụ việc EU Các biện pháp đối kháng đối với mặt hàng PET của Pakistan (DS486)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.39 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


Mở đầu
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hiện nay được xem như cơ chế giải quyết tranh chấp
hiệu quả nhất trong hệ thống luật pháp quốc tế. Cơ chế này không chỉ đóng vai trò như một cơ quan
tư pháp mà còn như là một cơ chế phòng ngừa tranh chấp, giúp làm cân bằng giữa các quyền và
nghĩa vụ của các thành viên WTO. Nó thực hiện ba chức năng chính: (i) đảm bảo hệ thống thương
mại đa phương hoạt động một cách an toàn và dễ dự đoán bằng cách củng cố và tăng cường tính bắt
buộc phải thi hành các quy định của pháp luật (rule of law); đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của các
thành viên WTO; và làm rõ quyền và nghĩa vụ này thông qua việc giải thích Hiệp định WTO phù
hợp với các qui tắc có tính tập quán về giải thích công pháp quốc tế. Với các chức năng này, các bên
tranh chấp bắt buộc phải tuân thủ các cam kết của họ theo các hiệp định liên quan. Các khuyến nghị
và phán quyết của Cơ quan giải quyết tranh chấp mang tính bắt buộc thực thi đối với các bên trong
vụ tranh chấp.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa, Việt Nam dần dần có
chỗ đứng và tiếng nói trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, đi kèm với đó là những rủi ro đến từ các
biện pháp của chính phủ hay từ các doanh nghiệp của Việt Nam có thể bị khiếu kiện do sự không
phù hợp với quy định của WTO, từ đó bị áp đặt các khoản thuế đối kháng, khiến các doanh nghiệp
Việt Nam không đạt được mục tiêu tiếp cận thị trường và đạt doanh số xuất khẩu đặt ra khi tham gia
các hiệp định thương mại quốc tế. Vì vậy, điều kiện cần thiết hiện nay là các doanh nghiệp và chinh
phủ của Việt Nam cần phải liên tục cải thiện những tồn tại, phát huy thế mạnh, trau dồi kiến thức về
pháp luật thương mại quốc tế để có thể có chỗ đứng vững chắc, và sẵn sàng đối phó với những rủi ro
đến từ các quốc gia nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Trong bài tiểu luận này, dưới góc độ của một sinh viên, với khả năng nghiên cứu trong phạm
vi những kiến thức đã học, em lựa chọn vụ tranh chấp “Liên minh châu Âu – Biện pháp đối kháng
đối với mặt hàng Poliethylene Teraphtalate của Pakistan” để làm đề tài nghiên cứu cho môn học
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Bài tiểu luận này nghiên cứu dưới góc độ thủ tục áp dụng
và thẩm quyền của DSB trong tranh chấp này, để có thể có cái nhìn tổng quan về cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO trong một vụ việc cụ thể được đưa ra giải quyết tranh chấp tại DSB và đưa ra
những nhận định chung, giải pháp cụ thể cho Việt Nam trong quá trình tham gia nền thương mại


quốc tế.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Giảng viên TS. Nguyễn Ngọc Hà trong
những buổi học trong chương trình học tập của chúng em và cũng mong nhận được sự chỉ bảo tận

2


tình từ thầy để hoàn thiện đề tài của mình, cũng như bổ sung, hoàn thiện hệ thống kiến thức của bản
thân mình.

3


1

Tổng quan vụ việc

1.1 Các bên trong vụ tranh chấp
Nguyên đơn: Pakistan
Bị đơn: Liên minh châu Âu (European Union)
Cơ quan giải quyết tranh chấp được: Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB)
Biện pháp bị khiếu kiện: Việc áp dụng thuế chống trợ cấp của EU đối với mặt hàng
polyethulene terephtalate (PET) từ Pakistan và một số nước trung đông khác

1.2 Bối cảnh của tranh chấp
Trong giai đoạn các năm từ 2005 đến năm 2010, Pakistan và một số quốc gia Trung Đông
khác là những quốc gia xuất khẩu polyethylene terephthalate (PET) sang châu Âu. Trong giai đoạn
này, các nước châu Âu đã phát hiện rằng chính phủ Pakistan có thực hiện Kê hoạch trợ cấp sản xuất
(MBS – Manufacturing Bond Scheme) và các quốc gia châu Âu cho rằng Pakistan đã vi phạm một
số điều khoản của Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO (SCM) và đã cho tiến

hành các cuộc điều tra về các biện pháp trợ cấp mà Pakistan đang áp dụng.
Trong cuộc điều tra về thuế đối kháng, Ủy ban châu Âu (Ủy ban) đã điều tra một số đề án
liên quan đến việc cấp trợ cấp của Chính phủ Pakistan, bao gồm MBS. MBS cho phép nhập khẩu
nguyên liệu miễn thuế với điều kiện nó được sử dụng như một đầu vào trong sản xuất hàng hóa sau
đó được xuất khẩu.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2010, Ủy ban đã ban hành một quy định áp đặt thuế đối kháng tạm
thời đối với hàng nhập khẩu PET có nguồn gốc từ Iran, Pakistan và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập
Thống nhất. Ủy ban cũng nhận thấy rằng việc nhập khẩu PET từ Iran, Pakistan và các Tiểu vương
quốc Ả Rập thống nhất đã gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành công nghiệp của EU. Trong việc thực
hiện phân tích hậu quả, Ủy ban đã kiểm tra các yếu tố khác so với hàng nhập khẩu PET được trợ cấp
nhưng thấy rằng không có yếu tố nào khác góp phần gây thương tích cho ngành công nghiệp EU đến
mức họ đã phá vỡ mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu PET được trợ cấp và thiệt hại mà EU
phải gánh chịu.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2010, Liên minh châu Âu đã ban hành một quy định áp đặt các
biện pháp đối kháng ngay lập tức và thu thuế với hàng nhập khẩu PET có nguồn gốc từ Iran,
Pakistan và Các Tiểu Vương quốc Ả-rập Thống nhất.
Ngay sau đó, Pakistan đã đưa vụ việc trên ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO và
thành lập một Ban Hội thẩm để giải quyết vụ việc trên. Ban Hội thẩm được lập ra vào ngày
4


25/03/2015 để xem xét khởi kiện của Pakistan tiên quan đến các biện pháp đối kháng được ban hành
bởi EU đối với việc nhập khẩu PET từ Pakistan.
Năm năm sau khi áp dụng các biện pháp thuế của Liên minh Châu âu, ngày 26 tháng 9 năm
2015, một thông báo hết hạn của các biện pháp đối kháng có liên quan đã được công bố trên Tạp chí
chính thức của Liên minh châu Âu.

1.3 Yêu cầu của các bên và nhận định của Ban Hội thẩm
1.3.1 Yêu cầu của Pakistan
Trước Ban Hội thẩm, Pakistan cho rằng các biện pháp đối kháng áp đặt bởi Liên minh châu

Âu không phù hợp với một số điều khoản của Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng (Hiệp
định SCM) và Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994). Đặc biệt, Pakistan
đã bác bỏ những điều tra của Ủy ban rằng MBS của Pakistan và Tài trợ dài hạn của các dự án định
hướng xuất khẩu (LTF-EOP) là phần trợ cấp đối kháng tùy thuộc vào hiệu suất xuất khẩu. Pakistan
cũng tuyên bố rằng, trong phân tích nhân quả của Ủy ban, Ủy ban đã hành động không nhất quán
với Điều 15.5 của Hiệp định SCM. Ngoài ra, Pakistan tuyên bố rằng Ủy ban đã hành động không
nhất quán với Điều 12.6 của Hiệp định SCM liên quan đến nghĩa vụ tiết lộ kết quả chuyến thăm xác
minh cho nhà sản xuất xuất khẩu ở Pakistan.
1.3.2 Ý kiến của Liên minh châu Âu
Vào ngày 3 tháng 3 năm 2016, Liên minh châu Âu đã đệ trình yêu cầu phán quyết sơ bộ yêu
cầu Ban Hội thẩm ngừng giải quyết tranh chấp này vì các biện pháp đối kháng liên quan của EU đối
với PET từ Pakistan đã hết hạn vào ngày 30 tháng 9 năm 2015. Nếu Ban Hội thẩm từ chối yêu cầu
ngừng giải quyết tranh chấp này, thì Ban Hội thẩm phải thay vào đó đưa ra tuyên bố rằng một số
yêu cầu của Pakistan nằm ngoài các điều khoản tham chiếu của Ủy ban theo các tiêu chuẩn được
nêu trong Điều 6.2 của DSU.
1.3.3 Nhận định của Ban Hội thẩm
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2016, Ban Hội thẩm đã gửi một thông báo tới các bên rằng Ban
Hội thẩm từ chối yêu cầu của Liên minh châu Âu rằng Ủy ban chấm dứt tất cả công việc trong tranh
chấp này. Ban Hội thẩm đã đưa ra lý do cho quyết định của mình trong Báo. Ban Hội thẩm cũng đề
cập trong Báo cáo của Ban Hội thẩm liên quan đến yêu cầu của Liên minh Châu âu về phán quyết sơ
bộ liên quan đến các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm theo Điều 6.2 của DSU 1.

1 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 7.13

5


Liên minh châu Âu đã yêu cầu Ủy ban chấm dứt tất cả công việc trong tranh chấp này bởi vì
biện pháp được đề cập đã hết hạn. Liên minh châu Âu đề cập đến các điều 3.4, 3.7 và 11 của DSU
củng cố khẳng định rằng vai trò của một ban hội thẩm là đưa ra các khuyến nghị hoặc phán quyết

khi những đóng góp này đảm bảo một giải pháp tích cực cho tranh chấp. Theo Liên minh Châu Âu,
khi biện pháp được đề cập đã hết hạn, có thể hiểu là đã bị "rút 2" theo nghĩa 3.7 của DSU, và do đó
một giải pháp tích cực đã được bảo đảm.
Pakistan yêu cầu Ban Hội thẩm từ chối yêu cầu của Liên minh châu Âu. Dựa trên các báo
cáo của Cơ quan phúc thẩm trong quá khứ, Pakistan khẳng định rằng việc hết hạn của một biện pháp
không giới hạn thẩm quyền của Ban Hội thẩm để đưa ra các phát hiện liên quan đến biện pháp đó,
và một Ủy ban không thể từ chối điều chỉnh toàn bộ các tuyên bố mà nó có thẩm quyền. Đặc biệt,
Pakistan thông báo cho Ban Hội thẩm rằng MBS là đối tượng của các cuộc điều tra thuế đối kháng
khác của các Thành viên WTO khác, bao gồm Hoa Kỳ và các Thành viên khác đã dựa vào quyết
định của Liên minh Châu Âu cũng giống như một trong những lý do cho việc bắt đầu điều tra thuế
đối kháng của họ.
Ban Hội thẩm đã ghi nhận rằng biện pháp được đưa ra đã hết hạn vào ngày 30 tháng 9 năm
2015, tại thời điểm đó khoản thuế đối kháng đối với PET từ Pakistan đã bị loại bỏ. Do đó, Ban Hội
thẩm cho rằng biện pháp được đề cập đã chấm dứt hiệu lực pháp lý. Đối với Ban Hội thẩm, điều này
có nghĩa là Liên minh Châu Âu không thể “rút” biện pháp được đề cập theo Điều 3.7 của DSU. Ghi
chú của WTO và Cơ quan Phúc thẩm cho rằng các Ban Hội thẩm có quyết định trong quyết định
liệu có nên đưa ra những ý kiện về các biện pháp đã hết hạn hay không, Ban Hội thẩm chỉ ra rằng họ
không xác định bất kỳ lý do gì để loại trừ vấn đề này.
Khi quyết định cách thực hiện theo quyền tùy nghi, Ban Hội thẩm đầu tiên lưu ý rằng biện
pháp hết hạn sau khi Ủy ban đã được thành lập. Thứ hai, Ban Hội thẩm đã xem xét thực tế là
Pakistan tiếp tục yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra các ý kiến liên quan đến biện pháp đã hết hạn. Thứ
ba, Ban Hội thẩm coi đây là một khả năng hợp lý mà Liên minh châu Âu có thể áp dụng các biện
pháp đối kháng đối với hàng hóa Pakistan theo cách có thể dẫn đến một số mâu thuẫn WTO tiềm ẩn
giống như, hoặc về mặt vật chất tương tự như những người bị cáo buộc trong vụ tranh chấp này. Đặc
biệt, Ban Hội thẩm đã lưu ý khẳng định của Pakistan rằng một loạt các mặt hàng xuất khẩu của
Pakistan được hưởng lợi từ MBS, và thực tế là các bên tranh chấp, ở cấp độ cơ bản, các cơ quan
điều tra nên xác định mức độ MBS có thể cấu thành các khoản trợ cấp đối ứng theo nghĩa của Hiệp
định SCM.
2 Yêu cầu của Liên minh Châu âu, đoạn 34


6


Ban Hội thẩm đã gửi Báo cáo cho các thành viên của WTO vào ngày 6/7/2017. Căn cứ vào
các Quy trình làm việc bổ sung của Ban Hội thẩm về Thông tin Bí mật Doanh nghiệp, Ủy ban đã
biên soạn lại một số thông tin nhất định từ Báo cáo của mình. Trong đó, về thẩm quyền của Ban Hội
thẩm báo cáo có nêu:
i.

đối với yêu cầu của Liên minh châu Âu về phán quyết sơ bộ liên quan đến các điều

ii.

khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm theo Điều 6.2 của DSU3;
Ban Hội thẩm đã phát hiện rằng tuyên bố của Pakistan rằng Ủy ban đã hành động không
nhất quán với Phụ lục II (II) (1) và / hoặc Phụ lục III (II) (2) đối với Hiệp định SCM "vì
không kiểm tra được 'thực tiễn thương mại được chấp nhận chung' hiện hành ở Pakistan
khi kiểm tra hệ thống xác minh và thủ tục theo MBS "nằm ngoài các điều khoản tham
chiếu của Ban Hội thẩm vì Pakistan đã không trình bày rõ ràng vấn đề trong yêu cầu

thành lập một ban hội thẩm4;
iii.
Ban Hội thẩm đã bác bỏ sự phản đối của Liên minh châu Âu đối với tuyên bố của
Pakistan theo Điều 1.1 (a) (1) (ii) của Hiệp định SCM, và do đó thấy rằng tuyên bố này
iv.

nằm trong các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm5;
Ban Hội thẩm đã bác bỏ sự phản đối của Liên minh châu Âu đối với yêu cầu bồi
thường của Pakistan theo Điều 12.6 của Hiệp định SCM, và do đó thấy rằng tuyên bố
này nằm trong các thẩm quyền của Ban Hội thẩm6.


Ban Hội thẩm giải thích rằng, do các biện pháp được đề cập trong tranh chấp này đã hết hạn,
nên sẽ không đưa ra đề xuất nào cho Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) theo Điều 19.1 của
DSU.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2017, Liên minh châu Âu đã thông báo cho Cơ quan Giải quyết
Tranh chấp, theo Điều 16.4 và 17 của DSU, về việc kháng nghị một số vấn đề nhất định được trình
bày trong Báo cáo Ủy ban và một số giải thích pháp lý được Ủy ban soạn thảo và nộp Thông báo
Kháng cáo nộp đơn kháng cáo theo Quy tắc 20 và Quy tắc 21 của Quy trình làm việc đối với đánh
giá phúc thẩm.
Vào ngày 4 tháng 9 năm 2017, Pakistan đã thông báo cho Cơ quan Giải quyết Tranh chấp, về
ý định kháng cáo của họ về một số vấn đề nhất định được trình bày trong Báo cáo Ủy ban và một số
3 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 8.1.d.i
4 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 8.1.d.ii
5 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 8.1.d.iii
6 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 8.1.d.iv

7


giải thích pháp lý được Ủy ban soạn thảo và đệ trình Thông báo Kháng cáo khác và đệ trình của
người kháng cáo khác theo Quy tắc 23 của Thủ tục Làm việc.
Phiên điều trần trong kháng cáo được tổ chức vào ngày 8 và 9 tháng 2 năm 2018. Nguyên
đơn, Bị đơn và bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã đưa ra những lời tuyên bố của họ và trả lời
các câu hỏi do Ủy ban đặt ra.

2

Yêu cầu EU trước Cơ quan Phúc thẩm về vấn đề thẩm quyền của Ban Hội thẩm
Lập luận của Liên minh châu Âu như dưới đây:
Liên minh châu Âu bảo vệ quan điểm biện pháp được đề cập đến trong tranh chấp này đã hết


hạn, vì vậy, biện pháp này không phải là đối tượng được đề cập hay xem xét đến trong tranh chấp
này. Để củng cố cho lập luận của mình, Liên minh châu Âu đã đưa ra những nhận định như sau:
Liên minh châu Âu đệ trình rằng biện pháp được đề cập đã hết hạn và đã chấm dứt hiệu lực
pháp lý sau khi Ủy ban bắt đầu công việc của mình, từ đó đưa ra quyết định thực hiện giải quyết
tranh chấp trước Ủy ban. Liên minh châu Âu cho rằng Ban Hội thẩm đã bỏ qua các nghĩa vụ cơ bản
của mình theo Điều 11 của DSU, theo thông báo của Điều 3 DSU, bằng cách quyết định đưa ra
những phát hiện về tuyên bố của Pakistan mặc dù đã hết hạn. Do đó, Liên minh châu Âu yêu cầu Cơ
quan Phúc thẩm bác bỏ toàn bộ Báo cáo của Ban Hội thẩm và tuyên bố nhận định của Ban Hội thẩm
không có hiệu lực pháp lý cùng các ý kiến và diễn trong đó7.
Tuyên bố của Liên minh châu Âu căn cứ theo Điều 11 của DSU nêu lên các vấn đề liên quan
đến quyền tài phán của Ban Hội thẩm trong việc giải quyết các tranh chấp và, cụ thể là các giới hạn
của Ban Hội thẩm trong việc thực thi thẩm quyền đó. Đặc biệt, Liên minh châu Âu nêu bật các điều
3.3, 3.4, 3.7, 3.8 và 3.9 như nhấn mạnh tuyên bố của mình theo Điều 11 của DSU. Liên minh Châu
âu khẳng định rằng Điều 11 của DSU quy định việc thực hiện theo quyết định của một Ban Hội
thẩm. Liên minh châu Âu còn lập luận rằng Điều 3.3 của DSU, cho thấy rằng "việc giải quyết nhanh
chóng các tình huống ... là rất cần thiết cho việc hoạt động hiệu quả của WTO", cho thấy việc giải
quyết các tranh chấp về các biện pháp sau khi hết thời hạn áp dụng, không còn bất kỳ ảnh hưởng
nào làm mất đi bất kỳ lợi ích nào ", cả hai đều không cần thiết và trái với mục tiêu của hệ thống giải
quyết tranh chấp WTO".
Điều 3.3 DSU quy định “Việc giải quyết nhanh chóng tình huống, khi có một Thành viên
cho rằng các lợi ích trực tiếp hay gián tiếp của mình có được theo những hiệp định có liên quan đang
7 Bản yêu cầu phúc thẩm của Liên minh châu Âu, đoạn 75

8


bị xâm hại do những biện pháp của một Thành viên khác thực hiện, là vấn đề có ý nghĩa thiết yếu
đối với việc thực hiện có hiệu quả chức năng của WTO và duy trì sự cân bằng thích hợp giữa các
quyền và nghĩa vụ của các Thành viên”.

Liên minh châu Âu cũng nhấn mạnh rằng, theo điều 3.4 của DSU, một “sự giải quyết thỏa
đáng một vấn đề” đã đạt được trong tranh chấp này khi mà EU đã hủy bỏ biện pháp phòng vệ được
đề cập tới trong tranh chấp này. Tương tự như vậy, khi dẫn chiếu đến điều 3.7 của DSU, EU cho
rằng trong tranh chấp này, việc hết hạn của biện pháp phòng vệ do EU đề ra trước đó được xem như
“một giải pháp tích cực cho tranh chấp 8”, và “đã đạt được mục tiêu cho cuộc tranh chấp và đạt được
mục tiêu đầu tiêu, hàng đầu của cơ chế giải quyết tranh chấp9”.
EU còn lập luận rằng trên thực thế, việc hết hạn các biện pháp đối kháng ít nhất đã hình
thành “suy đoán mặc định10” rằng các biện pháp này tiếp tục gây ra những “ảnh hưởng bất lợi 11”
theo cách hiểu của Điều 3.8 DSU. Trong trường hợp này, EU tiếp tục đưa ra quan điểm rằng việc
tiếp tục tiến hành giải quyết tranh chấp này sẽ rất vô nghĩa, bởi lẽ không và sẽ không có sự “vô hiệu
hay suy giảm12” nào trong hoạt động thương mại (theo GATT 1994).
EU cũng đưa ra quan điểm rằng quy trình giải quyết tranh chấp của WTO nhằm mục đích để
đưa ra một giải pháp tích cực cho tranh chấp và không nên được thực hiện như là một phương điện
để có được “ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp lý 13”. Dựa vào điều 3.9 của DSU (Những quy định
của Thỏa thuận này không làm phương hại đến các quyền của các Thành viên muốn được giải thích
theo thẩm quyền các điều khoản của hiệp định có liên quan thông qua việc ra quyết định theo Hiệp
định WTO hoặc một hiệp định có liên quan là một Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số
Thành viên), EU cho rằng những thủ tục khác cho phép Các thành viên có được sự giải thích một
cách hợp lý về các điều khoản của một hiệp định được WTO điều chỉnh mà không nên làm phương
hại đến các quyền và nghĩa vụ của WTO.
EU bác bỏ sự xem xét của Ban Hội thẩm về “khả năng hợp lý” rằng EU có thể áp dụng biện
pháp đối kháng với hàng hóa của Pakistan theo cách đã làm nổi lên tranh chấp tương tự hoặc trùng
8 Bản yêu cầu phúc thẩm của Liên minh châu Âu, đoạn 38
9 Bản yêu cầu phúc thẩm của Liên minh châu Âu, đoạn 38
10 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 7.13
11 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 7.13
12 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 7.13
13 Bản yêu cầu phúc thẩm của Liên minh châu Âu, đoạn 46 và 51-52

9



khớp với mâu thuẫn bị cáo buộc trong tranh chấp này. EU cho rằng, trong thập kỉ vừa qua, biện pháp
đối kháng duy nhất mà EU áp dụng đối với hàng hóa của Pakistan là những biện pháp được đề cập
tới trong tranh chấp này. Theo EU, Ban Hội thẩm đã có sai sót trong việc kiểm tra các biên bản, ghi
nhận về các điều tra về các biện pháp đối kháng của EU đối với Pakistan và giả định rằng đó là một
“nguy cơ” của việc áp đặt lại các biện pháp đã hết hạn. Tuy nhiên EU khẳng định rằng không có một
nguy cơ nào như vậy đối với PET hay bất kì sản phẩn nào của Pakistan. Đối với EU, Ban Hội thẩm
đã làm rõ những điều khoản hiện có của SCM ngoài bối cảnh giải quyết một vấn đề cụ thể trong
tranh chấp.

3

Phân tích nhận định của Cơ quan Phúc thẩm

3.1 Nhận định của Cơ quan Phúc thẩm về lập luận của Liên minh châu Âu
Điều 6.1 của DSU quy định rằng DSB có quyền thành lập Ban Hội thẩm theo yêu cầu của
Thành viên khiếu nại. Điều 6.2 của DSU quy định các yêu cầu áp dụng cho yêu cầu của Thành viên
khiếu nại về việc thành lập một Ban Hội thẩm. Một yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm phải đáp hai
yêu cầu riêng biệt: (i) xác định các biện pháp cụ thể đang được đề cập 14; và (ii) cung cấp một bản
tóm tắt ngắn gọn về cơ sở pháp lý của khiếu nại (hoặc các khiếu nại) 15. Cùng với nhau, hai yếu tố
được đề cập trong Điều 6.2 của DSU - các biện pháp cụ thể và các yêu cầu - bao gồm "vấn đề được
đề cập đến DSB", tạo cơ sở cho các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm theo Điều 7.1 của
DSU khiến cho Ban Hội thẩm được thiết lập bởi DSB. Vì vậy, bằng cách thành lập Ban Hội Thẩm,
DSB cũng thiết lập thẩm quyền đối với Ban Hội thẩm đó để xem xét "vấn đề" trước đó, như được
quy định bởi các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm.
Khi thẩm quyền của Ban Hội thẩm được thiết lập, những thẩm quyền này phải được yêu cầu
nhấn mạnh những “vấn đề” trước nó căn cứ theo điều 11 của DSU: “Chức năng của ban hội thẩm là
giúp DSB làm tròn trách nhiệm theo Thỏa thuận này và các hiệp định có liên quan. Do đó, ban hội
thẩm cần phải phải đánh giá một cách khách quan về các vấn đề đặt ra cho mình, gồm cả việc đánh

giá khách quan các tình tiết của vụ việc và khả năng áp dụng và sự phù hợp với các hiệp định có liên
quan, và đưa ra những nhận xét, kết luận khác có thể giúp DSB trong việc đưa ra các khuyến nghị
hoặc các phán quyết được quy định trong các hiệp định có liên quan. Ban hội thẩm cần phải đều đặn
tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cho họ những cơ hội thích hợp để đưa ra một giải pháp thỏa
đáng đối với cả hai bên”.
14 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 8.1.a.i
15 Báo cáo của Ban Hội thẩm, đoạn 8.1.a.ii

10


Ban Hội thẩm của WTO có các quyền hạn nhất định vốn có trong chức năng xem xét vụ việc
của họ theo Điều 11 của DSU. Ví dụ, Ban Hội thẩm có quyền xác định liệu họ có thẩm quyền trong
một trường hợp cụ thể và để xác định phạm vi và giới hạn của quyền hạn đó, như được định nghĩa
bởi các điều khoản tham chiếu. Ban Hội thẩm cũng có “một phạm vi cụ thể để giải quyết trên cơ sở
tuân theo đúng quy trình, với các tình huống cụ thể có thể phát sinh trong một trường hợp cụ thể mà
không được quy định rõ ràng.16”.
Vì vậy, Ban Hội thẩm có phạm vi quyết định trong việc thực hiện quyền hạn xét xử vốn có
của nó. Tuy nhiên, theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong vụ Mexico – Taxes on Soft Drinks, nó
không nhất thiết phải tuân theo sự tồn tại của các quyền xét xử vốn có này, khi quyền tài phán đã
được thiết lập hợp lệ, một Ban Hội thẩm của WTO có quyền từ chối thực thi quyền tài phán. Cơ
quan Phúc thẩm lưu ý, trong trường hợp đó, quyết định của một Ban Hội thẩm từ chối thực hiện
quyền tài phán được thiết lập hợp lệ sẽ có vẻ "làm giảm" quyền của Thành viên khiếu nại để "tìm
cách giải quyết vi phạm nghĩa vụ17 "theo nghĩa 23 của DSU. Pakistan đề cập đến những tuyên bố
của Cơ quan phúc thẩm ở vụ việc Mexico – Taxes on Soft Drinks để ủng hộ lập luận của họ rằng"
nếu Ban Hội thẩm không có đủ các biện pháp cần thiết được đặt ra trước đó, nó tương đương với
việc sai phạm trong từ chối một một khiếu nại liên quan đến quyền của thành viên trong WTO của.”
Cơ quan Phúc thẩm trong vụ việc này xem xét lại vụ việc Mexico – Taxes on Soft Drinks liên quan
đến yêu cầu của Mexico rằng Ban Hội thẩm trong cuộc tranh chấp đó đã từ chối thực thi quyền tài
phán của mình về để vấn đề có thể được xem xét, trong bối cảnh "tranh chấp rộng hơn", bởi một Ủy

ban được thành lập theo Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) . Việc từ chối yêu cầu đó
đã bị kháng cáo bởi Mexico. Trong tranh chấp đó, Cơ quan Phúc thẩm nhấn mạnh rằng "lưu ý đến
vấn đề mà Mexio kháng cáo18", và bày tỏ "quan điểm liệu có thể có những hoàn cảnh khác mà trong
đó các trở ngại pháp lý có thể tồn tại mà sẽ ngăn cản Ban Hội thẩm khỏi phán quyết về giá trị của
các tuyên bố trước đó19".
Trong vụ việc này, Cơ quan Phúc thẩm nhận thấy rằng có những trường hợp, được quy định
rõ ràng trong DSU, trong đó Ban Hội thẩm có thẩm quyền đã được thiết lập hợp lệ bởi DSB bị loại
trừ khỏi phán quyết về giá trị của các tuyên bố trước đó. Ví dụ, khi các bên tranh chấp dẫn đến một
giải pháp thỏa đáng lẫn nhau, Điều 12.7 của DSU quy định rằng "Khi các bên tranh chấp không tìm
16 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.23
17 Báo cáo của Ban Hội thẩm trong tranh châp Mexico – Taxes on Soft Drinks, đoạn 5.45
18 Báo cáo của Ban Hội thẩm trong tranh châp Mexico – Taxes on Soft Drinks, đoạn 5.45
19 Báo cáo của Ban Hội thẩm trong tranh châp Mexico – Taxes on Soft Drinks, đoạn 5.45

11


ra được một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên, thì ban hội thẩm phải đệ trình bản ý kiến của mình
dưới dạng báo cáo bằng văn bản lên DSB. Trong trường hợp như vậy, bản báo cáo của ban hội thẩm
phải đưa ra các ý kiến về các tình tiết, về khả năng áp dụng các điều khoản liên quan và lý lẽ đằng
sau bất cứ kết luận và khuyến nghị nào được đưa ra. Nếu có sự hoà giải giải quyết vấn đề giữa các
bên tranh chấp, thì bản báo cáo của ban hội thẩm phải được hạn chế ở mức mô tả ngắn gọn về vụ
việc này và báo cáo rằng đã đạt được một giải pháp". Tương tự, theo Điều 12.12 của DSU, Ban hội
thẩm có thể tạm ngừng công việc bất cứ lúc nào theo yêu cầu của bên nguyên đơn trong một thời
hạn không quá 12 tháng. Trong trường hợp tạm ngừng như vậy, các thời hạn được nêu tại khoản 8
và 9 của Điều này, khoản 1 của Điều 20, và khoản 4 của Điều 21 phải được kéo dài một khoảng thời
gian bằng thời gian công việc đó bị tạm ngừng. Nếu công việc của ban hội thẩm bị tạm ngừng hơn
12 tháng, thì thẩm quyền thành lập ban hội thẩm phải hết thời hiệu.
Hơn nữa, đối với tranh chấp này, Cơ quan Phúc thẩm ghi nhận rằng Liên minh châu Âu rằng
không có vướng mắc gì rằng Ban Hội thẩm trong tranh chấp này có thẩm quyền để quy định vấn đề

này. Thay vào đó, Liên minh châu Âu lập luận rằng Ban Hội thẩm, trong việc thực thi quyền tài
phán của mình, "đã thực hiện sai quyền hạn của mình khi vi phạm Điều 11 của DSU khi đưa ra kết
luận trong tranh chấp này", mặc dù các biện pháp do Liên minh Châu âu đưa ra đã hết thời hạn áp
dụng. Cơ quan Phúc thẩm cho rằng Ban Hội thẩm có quyền quyết định trong việc thực hiện quyền
tài phán vốn có của mình theo Điều 11 của DSU. Trong phạm vi quyền hạn này, Ban Hội thẩm sẽ
quyết định cách tính đến các sửa đổi tiếp theo, hoặc hết hạn hoặc bãi bỏ, biện pháp được đề cập. Cơ
quan Phúc thẩm cho rằng, các biện pháp đã hết thời hạn áp dụng trước đó không bác bỏ thẩm quyền
của Ban Hội thẩm về biện pháp này. Do đó, Cơ quan Phúc thẩm có cơ sở để phân biệt giữa một tình
huống trong đó một Ủy ban WTO từ chối thực thi quyền tài phán của mình ngay từ đầu của một tiến
trình ủng hộ một diễn đàn xét xử khác và một tình huống trong đó thực hiện thẩm quyền của mình
đánh giá liệu "vấn đề" trước đó, theo mục đích của Điều 7.1 và Điều 11 của DSU, đã được giải
quyết hoàn toàn hay vẫn cần phải được kiểm tra sau khi đã hết thời hạn áp dụng20.
Thực tế, các lập luận của Liên minh châu Âu ủng hộ tuyên bố của mình theo Điều 11 liên
quan đến kháng cáo chủ yếu dựa vào các điều khoản của Điều 3 của DSU. Đặc biệt, Liên minh châu
Âu nêu bật các điều 3.3, 3.4, 3.7, 3.8 và 3.9 như nhấn mạnh tuyên bố của mình theo Điều 11 của
DSU. Liên minh Châu âu khẳng định rằng Điều 11 của DSU quy định việc thực hiện theo quyết
định của một Ban Hội thẩm. Đối với Liên minh Châu Âu, trong việc thực hiện theo quyết định của
mình, một Ban Hội thẩm phải tính đến mục đích mà cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO phục vụ,
20 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.33

12


như được quy định tại Điều 3 của DSU. Liên minh châu Âu không tranh cãi theo Điều 11 của DSU
độc lập với các lập luận của nó theo Điều 3. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm xem xét các quy định cụ
thể của Điều 3 được Liên minh châu Âu nhắc đến để xem xét về việc thực hiện chức năng của Ban
Hội thẩm theo Điều 11 của DSU.
Những ý kiến của EU phản ánh đề xuất của EU cho rằng tranh chấp này không nên được đưa
ra sau khi các biện pháp phòng vệ của EU không còn tồn tại. Tuy nhiên, “Cơ quan Phúc thẩm đã bác
bỏ quan điểm của EU rằng việc bãi bỏ các biện pháp phòng vệ là ‘sự giải quyết thỏa đáng’ theo cách

hiểu của điều 3.4, hay là ‘một giải pháp tích cực cho tranh chấp’ theo cách hiểu của điều 3.7” 21.
Thực tế, việc biện pháp phòng vệ của EU hết hiệu lực không loại bỏ được câu hỏi liệu rằng Ban Hội
thẩm có thể giải quyết các khiếu nại liên quan đến biện pháp đó hay không.
Liên quan đến vấn đề này, Cơ quan Phúc thẩm nhắc lại về “vấn đề” được đưa ra trước Ban
Hội thẩm theo quy định tại Điều 11 của DSU là “một vấn đề được đưa ra trước DSB” theo lời yêu
cầu của một Thành viên theo cách hiểu của điều 7.1 DSU. Như đã được đề cập ở trên, “vấn đề” này
bao gồm những biện pháp cụ thể trong yêu cầu của Pakistan. Thật vậy, theo quy định tại Điều 11
DSU, Ban Hội thẩm có nghĩa vụ “ đánh giá một cách khách quan về các vấn đề đặt ra cho mình,
gồm cả việc đánh giá khách quan các tình tiết của vụ việc và khả năng áp dụng và sự phù hợp với
các hiệp định có liên quan, và đưa ra những nhận xét, kết luận khác có thể giúp DSB trong việc đưa
ra các khuyến nghị hoặc các phán quyết được quy định trong các hiệp định có liên quan”. Vì vậy,
việc biện pháp đối kháng mà EU đưa ra đã hết hạn không làm tách biệt với “vấn đề” mà Ban Hội
thẩm phải xem xét. Theo điều 7.2 DSU thì “Ban hội thẩm phải xử lý các điều khoản liên quan trong
bất kỳ hiệp định có liên quan nào hoặc các hiệp định được các bên tranh chấp dẫn chiếu tới 22”. Vì
vậy, dưới quan điểm của Cơ quan Phúc thẩm, họ cho rằng việc các biện pháp đối kháng hết hạn sau
khi Ban Hội thẩm được thành lập không cấu thành việc Ban Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ của Ban
Hội thẩm theo Điều 11 DSU một cách không cần thiết.
Cơ quan Phúc thẩm cho rằng, bằng việc nhấn mạnh về vấn đề “vô hiệu hoặc suy giảm” trong
thương mại, EU đã hiểu điều 3.8 DSU theo một nghĩa khác. Bởi vì “sự vi phạm những nghĩa vụ đã
cam kết trong thỏa thuận” thiết lập suy đoán mặc định về (một sự suy đoán dựa trên những hành vi,
biểu hiện, chứng cứ… ban đầu mà sẽ trở thành một tình tiết của vụ việc trừ phi có bên phản đối và
đưa ra được minh chứng cho sự phản đối này) “sự vô hiệu hay suy giảm”, việc đưa ra sự vô hiệu hay
suy giảm không phải là điều kiện tiên quyết để vụ việc được đưa ra giải quyết tranh chấp dưới các
21 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.26
22 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.28

13


quy định của DSU. Hơn nữa, khi EU cho rằng việc tiến hành giải quyết tranh chấp này là “hành

động vô nghĩa”, Cơ quan Phúc thẩm cho rằng quan điểm như vậy không đúng với quy định của
Điều 3.7 DSU. Điều 3.7 quy định rằng: “Mục đích của cơ chế giải quyết tranh chấp là để đảm bảo
có một giải pháp tích cực đối với vụ tranh chấp. Một giải pháp mà các bên tranh chấp có thể chấp
nhận được và phù hợp với các hiệp định có liên quan thì rõ ràng cần được ưu tiên. Nếu không đạt
được một giải pháp các bên tranh chấp cùng nhất trí, thì mục tiêu số một của cơ chế giải quyết tranh
chấp thường là bảo đảm việc rút lại những biện pháp có liên quan nếu những biện pháp này bị quyết
định là không phù hợp với những quy định trong bất kỳ hiệp định có liên quan”.
EU cũng đưa ra quan điểm rằng quy trình giải quyết tranh chấp của WTO nhằm mục đích để
đưa ra một giải pháp tích cực cho tranh chấp và không nên được thực hiện như là một phương điện
để có được “ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp lý”. Dựa vào điều 3.9 của DSU (Những quy định của
Thỏa thuận này không làm phượng hại đến các quyền của các Thành viên muốn được giải thích theo
thẩm quyền các điều khoản của hiệp định có liên quan thông qua việc ra quyết định theo Hiệp định
WTO hoặc một hiệp định có liên quan là một Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành
viên), EU cho rằng những thủ tục khác cho phép Các thành viên có được sự giải thích một cách hợp
lý về các điều khoản của một hiệp định được WTO điều chỉnh mà không nên làm phương hại đến
các quyền và nghĩa vụ của WTO. Trong vụ việc này, Pakistan không yêu cầu sự giải thích nào liên
quan đến điều khỏa nào của các hiệp định hay thỏa thuận. Thay vào đó, sự giải thích và lập luận của
Ban Hội thẩm là dựa trên các yêu cầu đòi lại quyền lợi từ Pakistan về việc bác bỏ một biện pháp đối
kháng được đưa ra bởi EU trong khoảng thời gian mà Ban Hội thẩm được thành lập nhằm mục đích
tham vấn. Vì vậy, Cơ quan Phúc thẩm cho rằng lập luận của EU dựa trên Điều 3.9 DSU là hoàn toàn
không có căn cứ.
Từ những lý do trên, Cơ quan phúc thẩm cho rằng “không có bất kì lập luận nào của EU liên
quan đến các điều 3.3, 3.4, 3.7, 3.8, 3.9 DSU thể hiện rằng, thông qua việc đưa ra ý kiến về một biện
pháp đối kháng đã hết thời hạn áp dụng, Ban Hội thẩm đã sai sót trong việc tuân thủ các quy định về
chức năng và nhiệm vụ của họ theo Điều 11 DSU23.”.

3.2 Phân tích nhận định của Cơ quan Phúc thẩm về ý kiến và nhận định của Ban Hội thẩm
Đầu tiên, Ban Hội thẩm lưu ý rằng biện pháp được đề cập tới đã hết hạn sau Ban Hội thẩm
được thành lập. Ban Hội thẩm nhận đình rằng, trước kia các Ban Hội thẩm từ chối đưa ra nhận định
về một biện pháp đối kháng khi mà biện pháp đó bị bãi bỏ trước khi Ban Hội thẩm được thành lập,

không Ban Hội thẩm nào từ chối việc lắng nghe yêu cầu của các bên về tranh chấp vì một biện pháp
23 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.34

14


đã hết hạn sau khi Ban Hội thẩm được thẩm lập. Trong phiên phúc thẩm, EU dường như đã bỏ qua
sự khác biệt về các mốc thời điểm, cho rằng là “các vụ việc trước đó cho thấy, liệu Ban Hội thẩm
hay Cơ quan Phúc thẩm đã đưa ra nhận định, ý kiến trong các vụ việc về các biện pháp của một bên
đưa ra đã hết hạn trước khi hay trng quá trình tố tụng tại WTO24”.
Ban Hội thẩm căn cứ vào Điều 7 của DSU, điều kiện tham vấn của Ban Hội thẩm được điều
chỉnh và căn cứ vào yêu cầu giải quyết gửi đến Ban Hội thẩm. Hơn nữa, để thiết lập thẩm quyền của
Ban Hội thẩm, các điều khoản tham vấn của Ban Hội thẩm đáp ứng được yêu cầu quan trọng trong
quy trình thủ tục bằng việc cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến các yêu cầu trong vụ việc
này cho các bên và cả bên thứ ba, và trao cho bị đơn cơ hội phúc đáp các yêu cầu của nguyên đơn.
Như Cơ quan phúc thẩm đã giải thích, yêu cầu quan trong của việc tuân thủ các quy trình thủ tục tố
tụng là bên yêu cầu không được thay đổi các yêu cầu củ họ xuyên suốt quá trình tranh chấp diễn ra
để đối phó với vấn đề trong các tranh chấp đó là “các mục tiêu thay đổi liên tục 25”. Bởi vậy, nếu Ban
Hội thẩm từ chối đưa ra nhận định về biện pháp đã bị bãi bỏ hay hết hạn sau khi Cơ quan GQTC của
WTO đã hành lập Ban Hội thẩm và thiết lập nên các quyền tham vấn, trên cơ sở là sự hết thời hạn
của các biện đó, điề này có thể gây ra hậu quả ngoài ý muốn đó là sẽ tạo ra công cụ, phương tiện bảo
vệ cho một biện pháp nào đó khỏi sự giám sát của Ban Hội thẩm, hay Cơ quan Phúc thẩm. Từ
những lý do trên, Cơ quan Phúc thẩm không cho rằng Ban Hội thẩm đã thực hiện sai thẩm quyền
của họ bằng cách đưa ra một bằng chứng quan trọng đó là DSB đã thành lập Ban Hội thẩm trước khi
biện pháp của EU hết hạn.
Như đã bàn luận ở phần trên, bằng việc thành lập Ban Hội thẩm, DSB cũng thành lập nên
thẩm quyền của Ban Hội thẩm đó để điều chỉnh những vấn đề được đưa ra trước DSB. Để thực hiện
thẩm quyền của họ, Ban Hội thẩm “phải có những thẩm quyền nhấn định vốn là những thẩm quyền
trong việc trong chức năng giám sat, điều chỉnh của họ 26”. Dưới quan điểm của Cơ quan Phúc thẩm,
Theo cách giải thích của Điều 7.1 và Điều 11 DSU, trong những quyền hạn này của Ban Hội thẩm là

thẩm quyền thẩm định khách quan liệu vấn đều được đưa ra đã hoàn toàn được được giải quyết hay
vẫn cần phải được kiểm tra. Đây là một trường hợp đặc biệt trong vụ tranh chấp mà biện pháp do
EU đưa ra đã hết hạn và không còn gây ảnh hưởng pháp lý nữa.
Hơn nữa, mốc thời gian hết hạn của biện pháp được đề cập trong tranh chấp, Ban Hội thẩm
đã tính tới yếu tố rằng Pakistan đã tiếp tục yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra nhận định liên quan đến
24 Bản yêu cầu phúc thẩm của Liên minh châu Âu, đoạn 22
25 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.36
26 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.40

15


biện pháp đã hết hạn này. Trong phiên phúc thẩm, EU cho rằng Pakistan tự mình yêu cầu Ban Hội
thẩm đưa ra nhận định không phải là yếu tố để Ban Hội thẩm tiếp tục đưa ra nhận định cho tranh
chấp này. Theo EU, Ban Hội thẩm cần nhìn vào thực tế rằng liệu có tồn tại “nhu cầu thực tế” để điều
chỉnh vấn đề này không.
Cơ quan Phúc thẩm quan sát thấy rằng Ban Hội thẩm nhận định yêu cầu tiếp tục đưa ra nhận
định của Pakistan là một trong ba yêu tố cân nhắc rằng để xác định việc ra quyết định rằng liệu có
nên tiếp tục đưa ra nhận định cho vụ tranh chấp hay không. Ban Hội thẩm không cân nhắc yêu cầu
tiếp tục đưa ra nhận định của Pakistan để loại trừ sự cần thiết Ban Hội thẩm đưa ra nhận định trong
trnah chấp này. Cơ quan Phúc thẩm tiếp tục nhắc lại, theo Điều 3.3 DSU, một Thành viên ký kết có
thể đưa một vấn để giải quyết bằng cơ chết GQTC của WTO bất cứ khi nào Thành viên đó nhận
thấy có lợi ích của họ bị hạn chế bởi những pháp bởi những Thành viên khác. Tương tự, căn cứ vào
điều 3.7, Các Thành viên luôn được dự đoán là chủ yếu sẽ đựơc điều chỉnh trong việc quyết định
nếu bất kì hành động nào theo DSU là “hiệu quả”. Điều này có nghĩa là yêu cầu của Thành viên đưa
nhận định sau một biện pháp hết hạn được đề cập tới trong vụ tranh chấp là một sự cân nhắc có liên
quan27.
Như đã đề cập ở trên, sự tuân thủ dựa trên thực hiện yêu cầu của Thành viên đưa vụ tranh
chấp ra giải quyết không hoàn toàn là không có giới hạn. Trong đó, như đã đề cập ở trên về việc các
biện pháp được đề cập tới đã hết hạn trong quá trình Ban Hội thẩm đang giải quyết vụ tranh chấp,

Ban hội thẩm trong việc thực hiện thẩm quyền của mình cần đánh giá khách quan “vấn đề” được
đưa ra giải quyết, theo cách hiểu của Điều 7.1 và Điều 11 DSU, rằng biện pháp này đã được giải
quyết hay vẫn cần được kiểm tra. Vì vậy, Cơ quan Phúc thẩm đồng ý với EU rằng sự cân nhắc của
Ban Hội thẩm cần mở rộng hơn yêu cầu tiếp tục giải quyết yêu cầu của nguyên đơn trong việc đưa
ra nhận định và đánh giá liệu vẫn còn tồn tại “vấn đề” liên quan đến việc đưa ra một biện pháp tích
cực, bất kể biện pháp được đề cập đã hết hạn.
Theo mạch của vụ việc, để đưa ra nhận định đánh giá khách quan về tình tiết trong vụ tranh
chấp, dưới sự điều chỉnh của Điều 11 DSU, Ban Hội thẩm có nghĩa vụ “Đưa ra đánh giá khách quan
về vụ việc … trong khả năng và phù hợp với những hiệp định điều chỉnh có liên quan”. Như đề cập
ở trên, việc biện pháp được đề cập trong vụ việc hết hạn, không có sự phân biệt đối với “vấn đề” mà
Ban Hội thẩm đang xem xét. Như Điều 7.2 quy định: “Ban hội thẩm phải xử lý các điều khoản liên
quan trong bất kỳ hiệp định có liên quan nào hoặc các hiệp định được các bên tranh chấp dẫn chiếu
tới”.Mức độ mà Ban Hội thẩm giải quyết một vụ việc là không ràng buộc và cần phải được thông tin
27 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.45

16


thông qua những trường hợp cụ thể trong vụ việc được đưa ra giải quyết, bao gồm những mặt cụ thể
của biện pháp được đề cập tới là đối tượng của yêu cầu của một trong các bên. Vì vậy, việc một biện
pháp bị hết hạn không có nghĩa là biện pháp đó và những yếu tố xung quanh vụ việc phải bị bác bỏ
tư cách đóng vai trò là khung pháp lý điều chỉnh cần thiết để xử lý những điều khoản của WTO có
liên quan được trích dẫn bởi các bên theo Điều 7.2 DSU. Do đó biện pháp được đề cập mặc dù đã
hết hạn những vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho nhiệm vụ của Ban Hội thẩm theo điều 11 của
DSU để đánh giá khách quan “khải năng áp dụng và phù hợp với hiệp định có liên quan”.
Cơ quan Phúc thẩm đánh giá rằng Ban Hội thẩm đánh giá đó là “khả năng hợp lý" đó là EU
đã có thể áp dụng biện pháp đối kháng đối với hàng hóa của Pakistan theo cách có thể đã làm nổi lên
tranh chấp tương tự hoặc trùng khớp với mâu thuẫn bị cáo buộc trong tranh chấp này. Cụ thể hơn,
Ban Hội thẩm đã lưu ý đến sự khẳng định của Pakistan rằng một loạt mặt hàng xuất khẩu của
Pakistan được hưởng lợi từ MBS. Ban Hội thẩm cũng đã xem xét thực tế là các bên đã không thống

nhất “mức độ cơ bản” trong việc làm thế nào để xác định MBS cấu thành nên trợ cấp đối kháng
trong phạm vi giải thích của Hiệp định SCM.
EU bác bỏ sự xem xét của Ban Hội thẩm về “khả năng hợp lý” rằng EU có thể áp dụng biện
pháp đối kháng với hàng hóa của Pakistan theo cách đã làm nổi lên tranh chấp tương tự hoặc trùng
khớp với mâu thuẫn bị cáo buộc trong tranh chấp này. EU cho rằng, trong thập kỉ vừa qua, biện pháp
đối kháng duy nhất mà EU áp dụng đối với hàng hóa của Pakistan là những biện pháp được đề cập
tới trong tranh chấp này. Theo EU, Ban Hội thẩm đã thất bại trong việc kiểm tra các biên bản, ghi
nhận về các điều tra về các biện pháp đối kháng của EU đối với Pakistan và giả định rằng đó là một
“nguy cơ” của việc áp đặt lại các biện pháp đã hết hạn. Tuy nhiên EU khẳng định rằng không có một
nguy cơ nào như vậy đối với PET hay bất kì sản phẩn nào của Pakistan. Đối với EU, Ban Hội thẩm
đã làm rõ những điều khoản hiện có của SCM ngoài bối cảnh giải quyết một vấn đề cụ thể trong
tranh chấp.
Cơ quan Phúc thẩm lưu ý rằng sự xem xét của Ban Hội thẩm về “khả năng hợp lý" rằng EU
có thể áp dụng biện pháp đối kháng với hàng hóa của Pakistan theo cách đã làm nổi lên những tranh
chấp tương tự hoặc trùng khớp với mâu thuẫn được đưa ra trong tranh chấp này. Hiểu rộng ra rằng
lập luận này của Ban Hội thẩm có thể hiểu như là Ban Hội thẩm xem xét vấn đề này là “khả năng
hợp lý” rằng EU có thể áp dụng lại biện pháp y hệt đã hết hạn và hết hiệu lực pháp luật, Cơ quan
Phúc thẩm không đồng ý với nhận định như vậy. Như EU đã khẳng định, Ủy ban đầu tiên cần phải
bắt đầu với điều tra mới về biện pháp đối kháng theo cách hiểu của Điều 11 của hiệp định SCM.

17


Cuộc điều tra mới này sẽ bao quát một giai đoạn điều tra khác được bao gồm bởi sự điều tra về vấn
đề được đề cập tới trong vụ việc này.
Theo quan điểm của Cơ quan phúc thẩm, Ban Hội thẩm đã quan tâm đến cách diễn giải đúng
đối với những điều khoản của hiệp định SCM, và GATT 1994, và sự phù hợp, của lập luận và nhận
định của Ủy ban là cơ sở cho các biện pháp hiện tại đã hết hạn. Bởi vì Ban Hội thẩm đặc biêt giải
thích những nhận đình của Ban Hội thẩm liên quan đến MBS theo cách giải thích của họ của những
sự bất đồng của các bên, Cơ quan Phúc thẩm lưu ý rằng, trong báo cáo của Ủy ban, Ban hội thẩm đã

điều chỉnh một vài mặt bổ sung của nhận đình của Ban Hội thẩm, bao gồm cả phân tích của Ban Hội
thẩm về các nguyên nhân của vụ việc. Vì vậy, biện pháp được đề cập tới dù cho đã hết hạn, vẫn tiếp
tục cung cấp khung cơ sở cho nhiệm vụ của Ban Hội thẩm theo điều 11 DSU, để đánh giá khách
quan “khả năng áp dụng và sự phù hợp đối với những hiệp định có liên quan” theo viện dẫn của
nguyên đơn.
Từ quan điểm của Cơ quan Phúc thẩm về tranh luận của các bên ở trước Ban Hội thẩm, và
lập luận của Ban Hội thẩm được bàn luận ở trên, rõ ràng là có tồn tại tranh chấp giữa các bên về
“khả năng áp dụng và sự phù hợp của các hiệp định có liên quan” liên quan đến nhận định của Ủy
ban tạo nên cơ sở cho biện pháp được đề cập đến, dù cho nó đã hết hạn. Như đã lưu ý, Ban Hội thẩm
tham chiếu đến “Những mâu thuẫn của WTO được cáo buộc trong tranh chấp này” và ghi nhận rằng
các bên vẫn bất đồng về phương thức tiến hành điều tra để xác định liệu MSB có cấu thành trợ cấp
đối kháng hay không theo cách giải thích của Hiệp định SCM. Vì vậy, “vấn đề” trong phạm vi thẩm
quyền của Ban Hội thẩm chưa hoàn toàn được giải quyết bởi vì sự hết hạn của các biện pháp được
đề cập trong tranh chấp này. Do Ban Hội thẩm xác định một cách khách quan rằng tranh chấp vẫn
tồn tại giữa các bên liên quan đến "khả năng áp dụng và phù hợp với các hiệp định có liên quan" liên
quan đến biện pháp đã hết hạn, Ban Hội thẩm sẽ không hoàn thành nghĩa vụ theo Điều 11 của DSU
nếu Ban Hội thẩm từ chối thực thi thẩm quyền mà đã được thành lập hợp lệ và không đưa ra bất kỳ
nhận định nào về "vấn đề" trước đó. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm không đồng ý với Liên minh
Châu Âu rằng các lập luận, nhận định và kết luận của Ban Hội thẩm có trong Báo cáo của mình liên
quan đến biện pháp hết hạn được đề cập đã được đưa ra "bên ngoài bối cảnh giải quyết tranh chấp
này.28”.
Vì những lý do trên, Cơ quan Phúc thẩm nhận định rằng: “EU không chứng minh được Ban
Hội thẩm không tuân thủ theo nghĩa vụ của họ theo Điều 11 DSU, cũng như Điều 3 của DSU thông

28 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.49

18


qua việc Ban Hội thẩm tiến hành đưa ra nhận định dựa trên yêu cầu của Pakistan trong tranh chấp

này, bất kể biện pháp được đề cập tới đã hết hạn29”.

3.3 Kết luận của Cơ quan Phúc thẩm:


Ban Hội thẩm có quyền tùy nghi trong việc thực hiện quyền điều chỉnh vốn có của Ban Hội thẩm
theo quy định của Điều 11 DSU. Trong phạm vi của quyền tùy nghi này, Ban Hội thẩm có quyền
quyết dịnh cách để thay đổi, hay bãi bỏ biện pháp được đề cập tới trong tranh chấp. Thực tế là biện
pháp được đề cập tới đã hết hạn không loại trừ câu hỏi liệu rằng Ban Hội thẩm có thể đánh giá
những yêu cầu liên quan đến biện pháp đó hay không. Hơn nữa, Ban hội thẩm trong việc thực hiện
thẩm quyền của mình, có quyền hạn để đánh gá khách quan liệu rằng “vấn đề” được đưa ra theo
cách hiểu của Điều 7.1 DSU và Điều 11 DSU đã được hoàn toàn giải quyết hay vẫn cần phải kiểm
tra theo sự hết hạn của biện pháp được đề cập. Trong quan điểm của Cơ quan phúc thẩm, Ban Hội
thẩm trong tranh chấp này đã có sự đánh giá khách quan về “vấn đề” được đưa ra rằng nó vẫn cần
phải kiểm tra bởi các bên vẫn không thống nhất được về “khả năng áp dụng và sự phù hợp với các
hiệp định có liên quan” trong mối quan hệ với nhận định của Ủy ban Châu âu là cơ sở của biện pháp

được đề cập hết hạn30;
− Từ đó, Cơ quan phúc thẩm nhận định rằng EU đã không chứng minh được Ban Hội thẩm đã không
tuân thủ theo nhiệm vụ của họ theo Điều 11 DSU, Điều 3 DSU bằng việt quyết định thực hiện quy
trình này để đưa ra nhận định trên yêu cầu của Pakistan trong ranh chấp, dù cho biện pháp được đề
cập tới đã hết hạn31;
− Vì thể Cơ quan Phúc thẩm từ chối yêu cầu của EU về việc thay đổi toàn bộ nội dung của Báo cáo
của Ban Hội thẩm, tuyên bố phiên tòa và tuyên bố các nhận định và các diên giải về mặt pháp lý của
Ban Hội thẩm trong Báo cáo trên không có hiệu lực pháp lý32.

4

Nhận định chung từ vụ việc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tính đến nay, theo báo cáo hằng năm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam


(VCCI), hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đã là đối tượng của 107 vụ điều tra phòng vệ thương mại.
Trong đó, có 78 vụ điều tra chống bán phá giá, 12 vụ chống trợ cấp và 17 vụ điều tra chống lẩn tránh
thuế.

29 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.50
30 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.51
31 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.52
32 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, đoạn 5.53

19


Điều đáng lưu ý, trong số 78 vụ kiện chống bán phá giá thì có 37 vụ là liên quan đến sắt
thép, chiếm 1/2 số vụ kiện. Điều tra chống trợ cấp thì lớn hơn, chiếm gần 3/4 các vụ kiện là liên
quan đến mặt hàng sắt thép. Còn trong tổng số 17 vụ kiện chống lẩn tránh thuế có 16 vụ các nguyên
đơn nghi ngờ là hàng hóa từ Trung Quốc (đang bị áp thuế chống bán phá giá cao) được hợp thức hóa
qua các cơ sở tại Việt Nam để lẩn tránh thuế trước khi xuất đi. Nguyên đơn cho rằng hàng hóa sản
xuất tại Việt Nam thực ra là sản xuất từ nước khác, đang bị đánh thuế cao hơn, hợp thức hóa qua
Việt Nam để đi đến nước thứ ba nhằm lợi dụng nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam tránh thuế cao.
Mỹ là một trong những bạn hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng cũng là nơi hàng
hóa xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với nhiều vụ điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và điều
tra chống lẩn tránh thuế nhất trong số các thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể, hàng hóa Việt
Nam phải đối mặt với nhiều vụ việc điều tra chống bán phá giá nhất là ở Mỹ chiếm khoảng 20%
tổng số các vụ việc, đứng thứ 2 là Ấn Độ; Thổ Nhĩ Kỳ và Australia đứng thứ 3 với 7 vụ điều tra.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam mới chỉ là nguyên đơn 3 vụ kiện chống bán phá giá cũng là
kiện các sản phẩm thép có xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Đài Loan. Đã có
3 biện pháp áp thuế cao cho các vụ kiện này. Ngoài ra, 6 vụ kiện khác đã được Việt Nam khởi xướng
đối với hàng hóa nhập khẩu mang tính kiện tự vệ để bảo vệ hàng hóa trong nước. Trong số này có
hai vụ kiện tự vệ đối với mặt hàng thép, phân bón, bột ngọt, dầu thực vật, kính.

Đối với một quốc gia trong quá trình đang hoàn thiện hệ thống pháp luật để đẩy mạnh quá
trình hội nhập với thế giới, việc tạo ra những biện pháp “phòng thủ” là yếu tố cần thiết. Hiện nay
Luật Quản lý Ngoại thương 2017 đã ra đời, cùng với Nghị định 10/2018 quy định về các biện pháp
tự vệ trong thương mại quốc tế góp phần giúp hoàn thiện hệ thống bảo hộ phù hợp với quy định của
WTO. Tuy nhiên, những quy định này mới dừng lại ở mức quy định chung, chưa có những biện
pháp cụ thể cứng rắn phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế ra đời, vì vậy việc nghiên cứu các
án lệ là một trong những việc cần được đẩy mạnh để từ đó, có những cơ sở phù hợp để đưa ra những
biện pháp tương thích và áp dụng một cách hợp lý, thông qua vụ việc trên, dựa trên sự hiểu biết và
khả năng nghiên cứu của cá nhân, em xin phép đưa ra những nhận định dưới đây, cũng như từ đó
đưa ra bài học cho Việt Nam trong quá trình tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.

20


4.1 Việc bãi bỏ các biện pháp tự vệ sau khi Ban Hội thẩm thành lập không loại trừ thẩm
quyền của Ban Hội thẩm
4.1.1 Việc biện pháp được bãi bỏ sau khi Ban Hội thẩm được thành lập coi như là biện pháp
này không phải rút nhằm mục đích giải quyết tranh chấp này
Trong vụ tranh chấp được phân tích ở trên, Cơ quan Phúc thẩm của DSB đã đưa ra những lập
luận nhằm ủng hộ thẩm quyền của Ban Hội thẩm về việc xử lý tranh chấp này. Cơ quan Phúc thẩm
chỉ rõ, sau khi biện pháp chống trợ cấp của Liên minh châu Âu hết hạn, Pakistan vẫn có yêu cầu cơ
quan giải quyết tranh chấp của WTO đưa ra nhận định và kết luận về biện pháp này, từ đó, tạo nên
thẩm quyền cho Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm trong tranh chấp. Biện pháp mặc dù đã hết
hạn, nhưng trên thực tế, trước đó, biện pháp này đã gây ra những thiệt hại đáng kể cho nước xuất
khẩu là Pakistan, và thực tế cho thấy rằng, các bên vẫn chưa có bất kì những đàm phán này để giải
quyết triệt để tranh chấp này. Một sự giải quyết thỏa đáng được Cơ quan Phúc thẩm xem xét đến khi
mà chỉ khi các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc áp dụng hay hủy bỏ các biện pháp do một thành
viên ban hành. Từ đó, không có bất kì yêu cầu nào của các bên trong tranh chấp được đưa ra trước
cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Hơn nữa, khi tranh chấp đang diễn ra, một sự giải quyết
thỏa đáng giữa các bên cần phải được lập thành một báo cáo để gửi đến cơ quan giải quyết tranh

chấp của WTO để Ủy ban đánh giá các giải pháp được đề ra, khả năng áp dụng các giải pháp theo
quy định của các hiệp định có liên quan của WTO.
Cơ quan giải quyết tranh chấp luôn tạo điều kiện để các bên có thể có một sự giải quyết thỏa
đáng theo những phương pháp khác ngoài đưa vụ việc ra xem xét trước Ban Hội thẩm. Tuy nhiên,
trong quá trình đàm phán để giải quyết các vấn đề giữa các bên, việc tạm ngừng hoạt động của Ban
Hội thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn cần phải tuân thủ thời hạn 12 tháng. Việc ngừng hoạt động
này sẽ không được tính vào các thời hạn khác trong quy trình giải quyết tranh chấp tại WTO. Nếu
trong vòng 12 tháng mà các bên không đưa yêu cầu ra trước Ban Hội thẩm để giải quyêt tiếp tranh
chấp thì thẩm quyền của Ban Hội thẩm trong tranh chấp trên sẽ không còn hiệu lực.
4.1.2 Việc rút biện pháp này không được xem như là giải pháp tích cực cho vụ tranh chấp
Cũng tương tự như một sự giải quyết thỏa đáng cho một tranh chấp, Liên minh châu Âu
cũng lập luận rằng việc bãi bỏ hiệu lực của một biện pháp được xem xét trong tranh chấp được coi
như là một giải pháp tích cực cho vụ tranh chấp, từ đó, tranh chấp đã đạt được mục đích cuối cùng
và loại trừ thẩm quyền của cơ quan giải quyết tranh chấp trong tranh chấp trên. Điều 3.7 quy định
rằng: “Mục đích của cơ chế giải quyết tranh chấp là để đảm bảo có một giải pháp tích cực đối với vụ
tranh chấp. Một giải pháp mà các bên tranh chấp có thể chấp nhận được và phù hợp với các hiệp
21


định có liên quan thì rõ ràng cần được ưu tiên. Nếu không đạt được một giải pháp các bên tranh
chấp cùng nhất trí, thì mục tiêu số một của cơ chế giải quyết tranh chấp thường là bảo đảm việc rút
lại những biện pháp có liên quan nếu những biện pháp này bị quyết định là không phù hợp với
những quy định trong bất kỳ hiệp định có liên quan”. Tuy nhiên, Cơ quan Phúc thẩm cho rằng việc
một biện pháp hết hiệu lực sau khi Ban Hội thẩm được hình thành coi như biện pháp đó không thể
được “rút” ra khỏi tranh chấp này, và những biện pháp này của Liên minh châu Âu vẫn có khả năng
được áp dụng lại sau khi tranh chấp được kết thúc. Từ đó, Cơ quan Phúc thẩm không thể chối bỏ
thẩm quyền của mình theo yêu cầu của một thành viên khác trong một biện pháp được đề cập đến
trong tranh chấp có mối liên hệ đến cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.
Việc rút lại một biện pháp được đưa ra bởi cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO nhằm
mục đích loại trừ khả năng áp dụng của các biện pháp giống, hoặc tương tự như vậy của thành viên

ban hành ra biện pháp này trong bối cảnh giống, hoặc tương tự đối với những mặt hàng xuất khẩu về
sau. Vì vậy, việc Liên minh châu Âu rút biện pháp này trong khi tranh chấp được diễn ra không thể
được coi như một giải pháp tích cực cho tranh chấp.
4.1.3 Vấn đề vô hiệu hoặc suy giảm trong thương mại của một bên không phải là điều kiện
tiên quyết để thành lập Ban Hội thẩm giải quyết một vụ việc
Vấn đề cốt yếu để xác định điều 3.8 của DSU có được áp dụng hay không chính là liệu một
thành viên của WTO có đưa ra một biện pháp mà từ đó vi phạm nghĩa vụ của WTO hay không. Sự
vi phạm này một khi đã được xác định, từ đó, sẽ xác lập nên một bằng chứng ban đầu về sự vô hiệu
hoặc suy giam về mặt lợi ích của Thành viên bị áp dụng biện pháp trên và nghĩa vụ chứng minh rằng
liệu biện pháp này có phù hợp với các quy định của WTO hay không thuộc về bên sử dụng biện
pháp được cho là vi phạm trong một vụ việc cụ thể.
Sự vô hiệu hay suy giảm lợi ích, theo hiệp định GATT 1994, của một quốc gia thành viên
trong hoạt động thương mại quốc tế bị ảnh hưởng bởi một biện pháp được đưa ra bởi một quốc gia
thành viên khác là việc rất đáng chú ý. Theo đó, một sự mâu thuẫn có thể được xem xét khi có sự vô
hiệu hay suy giảm này, và cũng được xem như là nền tảng của một cuộc tranh chấp trong WTO. Tuy
nhiên, sự vô hiệu hay suy giảm được Liên minh châu Âu đề cập tới trong tranh chấp trên dựa trên cơ
sở rằng biện pháp đã hết hiệu lực, vì thế biện pháp này không thể gây nên sự vô hiệu hay suy giảm
nào về sau, từ đó loại bỏ thẩm quyền của cơ quan giải quyết tranh chấp trong trường hợp này. Bác
bỏ lập luận này của Liên minh châu Âu, Cơ quan Phúc thẩm cho rằng “sự vô hiệu hay suy giảm”, ở
đây, không loại trừ thẩm quyền xem xét giải quyết vụ việc của cơ quan giải quyết tranh chấp. Hơn
nữa, việc đánh giá khách quan liệu một biện pháp có gây ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của một
22


thành viên trong WTO là nhiệm vụ và chức năng của cơ quan giải quyết tranh chấp, từ đó thiết lập
một phạm vi thẩm quyền của mình theo yêu cầu của thành viên của WTO. Thực tế cho thấy, trong
những vụ tranh chấp trước đây, rất nhiều bị đơn đã viện dẫn “sự vô hiệu hoặc suy giảm về lợi ích”
của một bên để chứng minh rằng biện pháp bị phiếu kiện không đẫn đến tình trạng vô hiệu hay suy
giảm lợi ích của thành viên khác, tuy nhiên, chưa một bị đơn nào thành công trong việc bác bỏ suy
đoán này.

Vì vậy, đối với Việt Nam, dưới vị trí là một nước nhập khẩu, luôn phải đánh giá những rủi ro
có thể xảy đến khi áp đặt một biện pháp phòng vệ thương mại. Một biện pháp được đặt ra cần phải
có những cuộc điều tra, nghiên cứu cụ thể, có những bằng chứng xác thực. Bởi lẽ, một khi một biện
pháp đã được ban hành, và biện pháp đó được đưa ra để xem xét trong một tranh chấp thì sẽ rất khó
tránh khỏi việc biện pháp này của Việt Nam bị coi như là một biện pháp trợ chống trợ cấp không
phù hợp với quy định của WTO, gây nên những thiệt hại đáng kể, trự tiếp hoặc gián tiếp, cho nền
thương mại trong nước trong quá trình hội hiện nay.
Trên cương vị là một nước xuất khẩu, Việt Nam luôn phải cẩn trọng trong những chính sách
khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh như thép, dệt may, linh kiện điện tử, thủy sản, giày
dép, máy móc phụ tùng, sản phẩm gỗ, phương tiện vận tải, cà phê, dầu thô, những chính sách này,
dưới một số hình thức cụ thể như hỗ trợ doanh nghiệp, trợ cấp mua lại hàng hóa,… có thể được xem
như là biện pháp trợ cấp không phù hợp với quy định của WTO và từ đó có thể bị một số nước thành
viên đánh thuế chống trợ cấp lên một số mặt hàng cụ thể này.

4.2 Yêu cầu của một thành viên trước DSB sẽ là yếu tố quan trọng cấu thành thẩm quyền
của Ban Hội thẩm
Theo quy định tại điều 6.1 của DSU, “Nếu bên nguyên đơn có yêu cầu, một ban hội thẩm
phải được thành lập chậm nhất là tại cuộc họp của DSB tiếp theo cuộc họp mà tại đó yêu cầu này lần
đầu tiên được đưa ra như một mục của chương trình nghị sự DSB, trừ khi tại cuộc họp đó DSB
quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập ban hội thẩm”. Vì vậy, việc quyết định thành lập
một Ban Hội thẩm để giải quyết tranh chấp phụ thuộc rất nhiều vào phía nguyên đơn yêu cầu giải
quyết tranh chấp, sau khi thủ tục tham vấn được hoàn tất.
Việc yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm để giải quyết tranh chấp của nguyên đơn tạo nên thẩm
quyền và một số quyền tùy nghi cho Ban Hội thẩm trong tranh chấp về các biện pháp được đề cập
tới. Một khi Ban Hội thẩm đã được thành lập, Ban Hội thẩm sẽ xem xét những yêu cầu của nguyên
đơn cùng với các điều khoản tham chiếu liên quan dưới góc độ khách quan và phù hợp với các hiệp
23


định của WTO. Ban Hội thẩm sẽ phải tự xem xét về chức năng, nhiệm vụ của mình trong tranh chấp

thông qua các lập luận của nguyên đơn, bị đơn, và trên cơ sở quyền tùy nghi của Ban Hội thẩm.

4.3 Trong hoạt động xuất nhập khẩu, các bên cần phải thống nhất được với nhau về mức độ
trợ cấp nhất định đối với một mặt hàng
Trong tranh chấp được phân tích ở trên, một ý kiến của Ban Hội thẩm, được sự ủng hộ của
Cơ quan Phúc thẩm, rằng là các bên đã không thống nhất được với nhau về “mức độ cơ bản” của
khoản trợ cấp để có thể cấu thành hành vi vi phạm theo các hiệp định có liên quan. Mặt bằng chung
theo các hiệp định của WTO mang tính chất cởi mở, khái quát, vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ
thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ có những mức cam kết nhất định về các rào cản trong thương
mại. Trợ cấp cũng là một trong những vấn đề rất khó để xác định khi mà các quốc gia ngày càng
tinh vi hơn trong việc đề xuất ra những chính sách trợ cấp cho các doanh nghiệp ngày càng khó có
thể phát hiện.
Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế, các quốc gia nói chung và Việt
Nam nói riêng, cần phải có sự thống nhất, thông qua các văn bản, các cam kết về mức độ trợ cấp của
các chính phủ, đối với những loại hàng hóa được đề cập cụ thể trong các cam kết đó, từ đó tạo nên
cơ sở pháp lý vững chắc để xem xét liệu một khoản hỗ trợ của một quốc gia có được xem như là
một khoản trợ cấp không phù hợp với quy định của WTO hay không.

Kết Luận
Kết luận của Cơ quan Phúc thẩm về vấn đề thẩm quyền của DSB trong quá trình giải quyết
tranh chấp vụ việc đã làm sáng tỏ những tranh luận của các bên về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của một Ban Hội thẩm được thành lập để giải quyết một vụ tranh chấp được một nước Thành viên
đưa ra trước DSB. Những lập luận của Cơ quan quan Phúc thẩm đưa ra phần nào đó góp phần vào
việc giải thích, hoàn thiện những vấn đề còn vướng mắc trong các quy định của WTO về giải quyết
tranh chấp cũng như là cơ hội để các quốc gia khác có thể đưa ra nhận định, quan điểm và bài học
cho riêng mình khi tham gia vào giải quyết tranh chấp
Đối với Việt Nam, quốc gia được đánh giá là một nước ít kinh nghiệm trong việc tham gia
giải quyết tranh chấp tại DSB, thông qua mỗi vụ việc như trên là cơ hội để có thể rút ra được những
kinh nghiệm quý báu, cũng như hiện thực hóa các quy định chưa có, hoàn thiện, cải thiện các quy
định chưa phù hợp và góp phần nâng cao sức mạnh, tiếng nói trên thị trường thương mại quốc tế.


24


Về bản thân mình, thông qua bài tiểu luận này, em cũng đã có thể tiếp thu được những kiến
thức và kinh nghiệm đáng giá trong quá trình học tập tại ghế nhà trường, bổ sung những kiến thức
còn thiếu và hoàn thiện khả năng tư duy pháp lý.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Giảng viên TS. Nguyễn
Ngọc Hà đã giúp đỡ chúng em thông qua bộ môn Giải quyết tranh chấp Thương mại quốc tế trong
thời gian qua.

25


×