Tải bản đầy đủ (.doc) (151 trang)

HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MẦM NON HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.83 KB, 151 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐỖ VĂN SƠN

HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC CỘNG ĐỒNG
TRONG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MẦM NON
HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng khoa học:
PGS.TS. VŨ LỆ HOA

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Đề tài khoa học “Huy động nguồn lực cộng đồng trong phát triển giáo
dục mầm non huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên” là một đề tài mà tôi rất tâm
huyết. Trên cơ sở lý luận, vốn kiến thức đã được lĩnh hội trong quá trình học
tập và nghiên cứu, được sự giảng dạy, hướng dẫn của các thầy cô giáo, sự
cộng tác giúp đỡ của các đồng nghiệp... Luận văn tốt nghiệp của tôi đã được
hoàn thành.
Với tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo, các nhà khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học Tây
Bắc đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Xin cảm ơn
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tuần Giáo, cán bộ quản lý các trường mầm


non trong huyện, các cơ quan ban ngành liên quan, bạn bè đồng nghiệp đã
giúp đỡ, động viên tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Đặc biệt, tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với
PGS.TS Vũ Lệ Hoa - người đã quan tâm và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng song do nhiều nguyên nhân mà luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý bổ
sung các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện một
cách tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Điện Biên, tháng 8 năm 2016
Tác giả
Đỗ Văn Sơn


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................132
PHỤ LỤC.........................................................................................................136


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
1. BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng trường, nhóm lớp, trẻ tham gia..........61
thực hiện Chương trình GDMN................................61
Bảng 2.2. Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp........................62
Bảng 2.3.Chất lượng chăm sóc trẻ...........................63
Bảng 2.4. Chất lượng giáo dục trẻ..........................64
Bảng 2.5. Đội ngũ CBQL, GVmầm non qua các năm..............65
Bảng 2.6. Thống kê trình độ chuyên môn bậc học Mầm non qua

các năm....................................................65
Bảng 2.7. Cơ sở vật chất (phòng học bậc học Mầm non qua các
năm........................................................66
Bảng 2.8.Thống kê số phòng học từ năm học 2005-2006 đến năm
học 2015-2016..............................................82
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát về tính cần thiết và huyện khả thi
..........................................................121
của các giải pháp.........................................121
Bảng 3.2. Tương quan giữa giải pháp quản lý huy động các
nguồn lực trong cộng đồng tham gia phát triển giáo dục mầm
non.......................................................123
và phát triển giáo dục....................................123
Bảng 3.3. Các tần suất kỳ vọng về quan hệ huy động các nguồn
lực trong cộng đồng nhằm phát triển giáo dục..............123

2. SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Bản chất của huy động các lực lượng trong cộng
đồng cho GD................................................11
Biểu đồ 2.1.Số lượng trường, nhóm lớp, trẻ tham gia thực hiện
...........................................................62
Chương trình GDMN..........................................62
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp.....................63
Biểu đồ 2.3. Chất lượng chăm sóc trẻ.......................64
Biểu đồ 2.4. Chất lượng giáo dục trẻ.......................65
Biểu đồ 2.5. Đội ngũ bậc học Mầm non qua các năm...........65
Biểu đồ 2.6. Thống kê trình độ chuyên môn bậc học MN qua các
năm........................................................66
Biểu đồ 2.7. Về cơ sở vật chất (phòng học bậc học Mầm non qua
các năm....................................................67



DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
CBQL

Cán bộ quản lý

CBGV

Cán bộ giáo viên

CNH-HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GV

Giáo viên

CB

Cán bộ

MN

Mầm non


GDMN

Giáo dục mầm non

GDTX

Giáo dục thường xuyên

GVCNV

Giáo viên công nhân viên

KT-XH

Kinh tế - xã hội

NXBĐHQG

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia

NXB

Nhà xuất bản

PGD

Phòng Giáo dục và Đào tạo

GDĐT


Giáo dục đào tạo

CSGD

Chăm sóc giáo dục

DTTS

Dân tộc thiểu số

GVMN

Giáo viên mầm non

SDD

Suy dinh dưỡng

CTGDMN

Chương trình giáo dục mầm non

ƯDCNTT

Ứng dụng công nghê thông tin

CNTT

Công nghê thông tin


CSVC

Cơ sở vật chất

QLGD

Quản lý giáo dục

QLNN

Quản lý nhà nước

THCS

Trung học cơ sở

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI - thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, tri thức và kĩ năng của
con người quyết định năng suất lao động, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của
một đất nước. Muốn tiếp cận được những tiến bộ vượt bậc của kỉ nguyên mới
thì các quốc gia phải không ngừng đổi mới. Hòa trong xu thế đó, Việt Nam đã
và đang đổi mới một cách toàn diện và mạnh mẽ, mau chóng tiến kịp với các
quốc gia khác, hội nhập với quốc tế, nhằm nắm bắt kịp thời những tiến bộ
khoa học công nghệ trong sự nghiệp phát triển của đất nước. Để những bước

đi ngày một vững chắc thì giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì: “Giáo
dục đào tạo là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai”.
Giáo dục mầm non (GDMN) là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục
quốc dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình
cảm, ngôn ngữ, thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Trẻ được tiếp cận với GDMN
càng sớm, càng thúc đẩy quá trình học tập và phát triển của các giai đạn tiếp
theo. Khoa học đã chứng minh tiềm năng của trẻ được khơi dậy trong những
năm đầu đời – từ những giây phút chào đời đến những năm tháng được chăm
sóc chủ yếu ở gia đình và đến trường mầm non (từ 0 đến 6 tuổi). Đây là
những năm tháng đặt nền móng tạo sự khởi đầu tốt đẹp và hứa hẹn về tương
lai thành công cho trẻ. Do đó, đầu tư cho GDMN là một trong các biện pháp
hiệu quả nhất để chuẩn bị tốt cho việc học tập của trẻ ở trường phổ thông và
thành công trong cuộc sống sau này.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách nhấn mạnh vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, trong đó đặc
biệt quan tâm đến giáo dục mầm non, coi việc “chăm lo phát triển giáo dục
mầm non” và “mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5
tuổi” là nhiệm vụ quan trọng cấp bách. Triển khai đường lối chỉ đạo của

1


Đảng, hàng loạt các văn bản chính sách của nhà nước có sự liên quan đến
phát triển GDMN lần lượt ra đời làm cơ sở cho chất lượng và công bằng xã
hội trong GDMN.
Công tác xã hội hóa trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng xác định: “Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho
cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng
gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân, chúng ta chủ trương
giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó nhà nước giữ

vai trò nòng cốt... sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Nhà nước và nhân dân cùng làm, mọi việc đều phải dựa
vào nhân dân”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta khẳng
định: “...Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khuyến khích
mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc
học...” (27 tr204). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đã chỉ rõ “Chăm lo phát triển mầm non”, thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá”. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mầm non là một quy luật và
là khâu then chốt để thực hiện “Chuẩn hoá”, “Hiện đại hoá”. Thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2020 là “Xây dựng hoàn chỉnh và
phát triển bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến
thức chăm sóc, giáo dục trẻ cho các gia đình”.
Thực hiện nghị quyết số 29 – NQ/TW, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. Một trong 7
nội dung của đề án là công tác xã hội hóa giáo dục.
Thời gian qua, đặc biệt giai đoạn từ 2006 đến 2015, Chính phủ, Thủ

2


tướng Chính phủ đã ban hành 11 văn bản quy định các chính sách phát triển
GDMN, gồm 02 Nghị định, 08 Quyết định; 01 Chỉ thị. Đặc biệt, Quyết định
số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
“Đề án Phát triển Giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015” (Quyết định 149),
Quyết định số 239/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, Quyết định số 60/2011/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ quy định một số chính sách phát triển GDMN
giai đoạn 2011-2015, những chính sách trên đã có những tác động sâu sắc,

mạnh mẽ đối với sự phát triển GDMN.
Là một tỉnh miền núi khó khăn, nhưng xác định vai trò và tầm quan
trọng của giáo dục mầm non, thời gian qua tỉnh Điện Biên đã chỉ đạo quyết
liệt, triển khai những việc làm cụ thể nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ. Bằng công tác huy động các nguồn lực trong cộng đồng cùng
chăm lo phát triển giáo dục mầm non, tỉnh đã phấn đấu hoàn thành phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi vào năm 2014.
Đối với huyện Tuần Giáo, quán triệt tư tưởng huy động các nguồn lực
trong cộng đồng cho giáo dục được định hướng từ các Nghị quyết Đại hội
Đảng những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Tuần Giáo, công
tác huy động các nguồn lực được tiến hành tích cực với nhiều hình thức
phong phú, cùng với việc vận động xã hội đóng góp nhân lực, vật lực, huy
động các nguồn đầu tư cho giáo dục. Đặc biệt là bậc học mầm non thực hiện
đa dạng hoá các loại hình trường lớp, gắn kết giáo dục nhà trường với cộng
đồng xã hội để huy động học sinh đến trường lớp. Do vậy, sự nghiệp giáo dục
mầm non của huyện Tuần Giáo đã thu được những thành tựu đáng tự hào về
sự phát triển quy mô, số lượng và chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, việc huy động các
nguồn lực trong cộng đồng cho giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo vẫn
còn gặp không ít khó khăn, trở ngại như ở một số xã, cấp uỷ Đảng, chính

3


quyền, đoàn thể phụ huynh chưa nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của
giáo dục mầm non.Cùng với những khó khăn chung khi thực hiện huy động
các nguồn lực trong cộng đồng cho giáo dục mầm non như cơ sở vật chất
trường lớp còn thiếu, nhiều phòng học nhờ, học tạm; đội ngũ giáo viên còn
thiếu, vẫn còn nhiều bất cập, kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục, chăm
sóc trẻ còn hạn chế; nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của giáo viên

mầm non và GDMN, thì Tuần Giáo còn có những khó khăn riêng, đặc thù của
một huyện miền núi vùng cao.
Đó là tỷ lệ phòng học toàn huyện mới chỉ có 50,3% phòng học kiên cố,
còn lại là các lớp, điểm trường học nhờ, phòng mượn tạm, phòng tranh tre
nứa lá. Còn nhiều điểm bản mầm non ghép với tiểu học, vấn đề quy hoạch
quỹ đất ở một số xã dành cho trường mầm non còn nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng được quy mô phát triển đảm bảo đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trường
lớp để huy động trẻ ra lớp.
Nhiều xã 100% đồng bào người dân tộc thiểu số, nhận thức chưa đầy
đủ về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục mầm non nên chưa chú ý, quan tâm
đến việc đưa con em mình, hầu hết họ phó mặc cho giáo viên, kể cả việc đưa
đón trẻ đến trường lớp. Trong khi đó giữa cô và trẻ còn bất đồng về ngôn ngữ,
những rào cản về văn hóa, về phong tục tập quán sinh hoạt khiến việc chăm
sóc, giáo dục trẻ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trẻ những ngày đầu mới đến
lớp còn nhút nhát, không mạnh dạn tự tin, chưa có thói quen ăn uống, vệ sinh
… Việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non và đảm bảo chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ cũng là một thách thức.
Tất cả những khó khăn trên tạo nên diện mạo đặc thù của một huyện
vùng núi cao. Xuất phát từ thực trạng trên, nhằm từng bước tháo gỡ khó khăn,
nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ thơ,chúng tôi chọn đề tài “Huy
động nguồn lực cộng đồng trong phát triển giáo dục mầm non huyện Tuần
Giáo, tỉnh Điện Biên.”

4


2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận, thực trạng nhằm đề xuất các biện pháp đẩy
mạnh công tác huy động các nguồn lực cộng đồng trong phát triển giáo dục
mầm non huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên nhằm góp phần nâng cao chất

lượng, hiệu quả phát triển công tác giáo dục mầm non nói riêng, cộng đồng
huyện Tuần Giáo, Điện Biên nói chung hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Huy động nguồn lực cộng đồng trong phát triển GDMN trên địa bàn
cấp huyện
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp huy động các nguồn lực cộng đồng trong phát triển GDMN
huyện Tuần Giáo, huyện Điện Biên
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác huy động nguồn lực cộng
đồng trong phát triển giáo dục mầm non trên địa bàn cấp huyện
4.2. Khảo sát thực trạng công tác huy động các nguồn lực trong cộng
đồng nhằm phát triển giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên hiện nay
4.3. Xây dựng các biện pháp công tác huy động nguồn lực cộng đồng
trong phát triển giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
hiện nay và khảo nghiệm các biện pháp
5. Giả thuyết khoa học
Xã hội hoá giáo dục là vấn đề tất yếu khách quan trong sự nghiệp phát
triển giáo dục ở nước ta. Việc thực hiện công tác huy động các nguồn lực
trong cộng đồng phát triển giáo dục mầm non huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên trong thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn

5


còn có những hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan. Nếu xây dựng được các biện pháp huy động các nguồn lực trong
cộng đồng mang tính đồng bộ, phù hợp bao quát cả hai chiều nhà trường và

cộng đồng thì công tác huy động các nguồn lực cộng đồng trong phát triển
GDMN ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên sẽ đạt hiệu quả, trên cơ sở đó
nâng cao chất lượng giáo dục mầm non góp phần vào sự phát triển chung của
huyện Tuần Giáo –tỉnh Điện Biên hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát: GV, CBQLGD, các tổ chức xã hội, cha mẹ trẻ
- Địa bàn: huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá những vấn đề lý luận cơ bản của đề
tài làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác huy động các nguồn lực trong cộng đồng nhằm phát triển sự nghiệp
giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát các hoạt động huy động các nguồn lực trong
cộng đồngở các trường mầm non trong huyện để thu thập số liệu, phát hiện
những vấn đề mới. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phù hợp.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Các đối tượng cán bộ quản lý,
giáo viên, cha mẹ trẻ để đánh giá thực trạng.
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn sâu một số chuyên viên phòng
GDMN sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Điện Biên; tham khảo các văn bản tổng
kết, đánh giá và rút kinh nghiệm hàng năm về tình hình huy động các nguồn
lực trong cộng đồng phát triển GDMN trên địa bàn huyện, từ đó phân tích,
tổng hợp, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm để tạo tiền đề cho việc

6


đề xuất các biện pháp quản lý để tăng cường công tác huy động các nguồn lực
trong cộng đồng GDMN trong giai đoạn hiện nay.

- Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động giáo dục
7.3. Phương pháp hỗ trợ: sử dụng thống kê toán học trong xử lý kết
quả khảo sát
8. Cấu trúc luận văn
- Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác huy động nguồn lực cộng đồng
trong phát triển GD mầm non trên địa bàn cấp huyện
- Chương 2: Thực trạng công tác huy động nguồn lực cộng đồng trong
phát triển giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên hiện nay
- Chương 3: Biện pháp công tác huy động nguồn lực cộng đồng trong
phát triển giáo dục mầm non ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên hiện nay

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC
CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MẦM NON
TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
- Vấn đề huy động các nguồn lực trong cộng đồng cho sự nghiệp giáo
dục mầm non ở nước ngoài
Các Luật giáo dục của Hoa kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức... các
chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020 của nhiều nước trên thế giới đều
coi trọng phương thức huy động cộng đồng. Các quốc gia Đông Nam Á cũng
đang tích cực đẩy mạnh phát triển giáo dục bằng cách phát huy sức mạnh của
cộng đồng trong việc tham gia phát triển giáo dục.
Tầm quan trọng và lợi ích của GDMN ngày càng được công nhận ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày càng có nhiều quốc gia nhận thấy sự cần

thiết của GDMN và quan tâm phát triển GDMN. Mục tiêu phát triển bền vững
được Liên hợp quốc công bố năm 2015 nhấn mạnh đến đầu tư chăm sóc, giáo
dục trẻ thơ toàn diện để đảm bảo bền vững, xóa đói giảm nghèo. Các tổ chức
UNICEF, UNESCO và nhiều tổ chức quốc tế khác đều ưu tiên hỗ trợ cho các
hoạt động vì trẻ thơ. UNESCO chủ trương đẩy mạnh phát triển giáo dục theo
chiến lược gồm 21 điểm, trong đó giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường là
một mục tiêu lớn trong chiến lược giáo dục.
- Vấn đề huy động các nguồn lực trong cộng đồng cho sự nghiệp giáo
dục mầm non ở Việt Nam
Trong định hướng phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước, phát triển
giáo dục và đào tạo luôn được coi là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục
là đầu tư phát triển. Chủ trương, chính sách đầu tư phát triển giáo dục và đào
tạo đã được Đảng và Nhà nước điều chỉnh phù hợp với định hướng phát triển
kinh tế - xã hội qua các thời kỳ phát triển của đất nước.

8


Đẩy mạnh huy động các nguồn lực trong cộng đồng nhằm phát triển
giáo dục và đào tạo là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về đầu tư
phát triển giáo dục và đào tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa). Nhiều văn bản liên quan đến chủ trương, chính sách xã hội hóa
giáo dục và đào tạo đã được ban hành trong thời gian qua, tạo cơ sở pháp lý
cho việc đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài nhằm phát triển
giáo dục và đào tạo.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Cộng đồng
Cộng đồng: Theo UNESCO: Cộng đồng là một tập hợp người có cùng
chung một lợi ích, cùng làm việc vì cùng một mục đích chung nào đó và cùng
sinh sống trong một khu vực xác định. Những người chỉ sống gần nhau, không

có sự tổ chức lại thì đơn thuần chỉ là sự tập trung của một nhóm các cá nhân và
không thực hiện chức năng như một thể thống nhất.
Tóm lại, cộng đồng là toàn thể những người cùng chung sống, có những
điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội.
1.2.2. Nguồn lực; nguồn lực cộng đồng
Nguồn lực: Nơi bắt đầu, nơi phát sinh và cung cấp vật chất và tinh thần,
nguồn gốc của sức mạnh để có thể tạo nên một tác động nhất định.
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản
quốc gia, hệ thống chính trị, nguồn nhân lực, vốn và thị trường ở cả trong và
ngoài nước có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của
một vùng lãnh thổ nhất định.
Căn cứ vào tính chất, hình thức biểu hiện có thể phân biệt hai loại nguồn
lực sau đây:
Nguồn lực vật chất: như quỹ đất, vị thế địa lý, cơ sở hạ tầng, các nguồn
vốn tài chính, các nguyên vật liệu và các tiềm năng kinh tế…
Nguồn lực phi vật chất: bao gồm có con người, sự vững mạnh và ổn định

9


của hệ thống chính trị, những thành quả về kinh tế, chính trị văn hóa xã hội và
giáo dục, những chủ trương giải pháp, sự đồng tình ủng hộ của người dân, các tổ
chức đoàn thể với giáo dục, trình độ nhận thức của dân trí, kho tàng quý báu về
kinh nghiệm làm giáo dục.
Nguồn lực cộng đồng: Nguồn là nguồn gốc; lực là sức mạnh; cộng đồng

là nhiều người họp lại, vậy nguồn lực cộng đồng là tập thể nhiều người là
nguồn gốc và sức mạnh để thực hiện công việc nào đó việc nào đó.
1.2.3. Huy động; huy động cộng đồng


Huy động: nhằm chỉ cách làm, cách thực hiện một hoạt động xã hội
bằng con đường giác ngộ.
Huy động các nguồn lực trong cộng đồng: tổ chức huy động tổng lực
sức mạnh của toàn dân cả về vật chất và tinh thần, làm cho tất cả các ngành,
các giới, cũng như mỗi người dân đều nhận thấy đó là nhiệm vụ của chính
mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối hợp hành động thực hiện. Đồng thời
chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả do hoạt động đó đem lại. Có 4
tiêu chí sau trong công tác huy động.
+ Phát huy được sự tham gia tích cực và tự nguyện (về nhân lực, trí lực,
vật lực, tài lực. của tất cả các tổ chức, cá nhân vào cùng thực hiện một hoạt
động, nhằm góp phần không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của chính họ.
+ Có sự phối hợp liên ngành để đạt mục đích chung và mục đích riêng
của mỗi ngành với hiệu quả cao. Sự phối hợp này không có tính chất nhất thời
mà mang tính chiến lược lâu dài.
+ Nguồn lực vật chất huy động phục vụ cho hoạt động đó được đa dạng
hoá: Từ ngân sách nhà nước và các nguồn ngoài ngân sách.
+ Có sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, quản lý của các cấp chính quyền
một cách thường xuyên và chặt chẽ, đảm bảo cho hoạt động này phát triển.
Như vậy, huy động các nguồn lực trong cộng đồng là thuật ngữ được

10


quy ước để chỉ cách làm cách thực hiện hoạt động giáo dục bằng con đường giác
ngộ, tổ chức và huy động tổng lực sức mạnh của toàn dân làm cho hoạt động
giáo dục không chỉ được thực hiện bởi ngành giáo dục. Công việc giáo dục học
sinh không chỉ được thực hiện bởi giáo viên, mà được tất cả các ngành, các giới,
các lực lượng xã hội, cũng như mỗi người dân đều nhận thấy đó là nhiệm vụ của
chính mình nên đều tự nguyện, tự giác và tích cực phối hợp hành động thực hiện.


Huy động các nguồn lực trong cộng đồng là quá trình tương tác giữa
con người với con người, con người với xã hội. Qua đó con người với tư cách
là cá thể học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận quy tắc văn hoá của xã hội như: hành vi,
giá trị, chuẩn mực văn hoá xã hội, kiến thức, kỹ năng, phương pháp để đóng
góp phù hợp với vai trò, vị thế xã hội nhất định của mình. Nhờ thế, con người
dần dần hoà nhập vào xã hội.
Huy động các nguồn lực trong cộng đồng cho sự nghiệp giáo dục thuộc

phạm trù cách làm giáo dục, là làm cho toàn xã hội cùng làm giáo dục, tất cả
cho giáo dục và giáo dục cho mọi người.

Giáo dục cho

Mọi người

mọi người

cho giáo dục

Huy động các
nguồn lực trong
cộng đồng cho GD
Quản lý giáo dục
Sơ đồ 1.1. Bản chất của huy động các lực lượng trong cộng đồng cho GD

Huy động các nguồn lực cho GD bao hàm trách nhiệm, nghĩa vụ và cả
thực hiện quyền lợi của mọi người về giáo dục. "Mọi người cho giáo dục" và
"Giáo dục cho mọi người" là 2 vấn đề liên quan chặt chẽ và tác động qua lại
với nhau, là 2 đặc trưng của "Xã hội học tập". Muốn mọi người có trách


11


nhiệm đối với giáo dục thì giáo dục phải phục vụ cho tất cả mọi người.
Nghị quyết 90/CP đã nêu: “xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các
tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường KT-XH lành
mạnh và thuận lợi cho các hoạt động. Ở mỗi địa phương, đây là cộng đồng
trách nhiệm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, các cơ quan Nhà nước, các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp ở tại địa phương và
của từng người dân”.
Riêng trong lĩnh vực GD&ĐT là: “Tạo ra phong trào học tập sâu rộng
trong toàn xã hội theo nhiều hình thức”, “Vận động toàn dân chăm sóc thế hệ
trẻ tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà
trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hôi, tăng cường trách nhiệm của
cấp uỷ Đảng, Hội đồng nhân dân, UBND, các đoàn thể quần chúng, các
doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục”.
Bản chất của huy động các nguồn lực trong cộng đồng cho giáo dục
được xác định trong nghị quyết TW4, khoá VII (14/01/1993) là: "Huy động
toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng
nền giáo dục nhân dân dưới sự quản lý của nhà nước". Để có quan niệm đúng
về huy động các nguồn lực trong cộng đồng, cần quán triệt một số vấn đề sau:
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng không phải là một ý đồ
chiến thuật, được vận dụng một cách nhất thời, cho một giải pháp tình thế khi
đất nước còn nghèo, điều kiện đầu tư cho giáo dục còn quá eo hẹp. Huy động
các nguồn lực trong cộng đồng là một quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm làm
cho hoạt động giáo dục thực sự là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng không có nghĩa là giảm nhẹ
trách nhiệm và vai trò của Nhà nước. Trái lại, huy động các nguồn lực trong
cộng đồng chỉ có thể thực hiện thành công khi có sự lãnh đạo trực tiếp và
thường xuyên của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và vai trò, chủ


12


động, nòng cốt của ngành giáo dục.
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng không chỉ nhằm huy động
"Mọi người cho giáo dục”, mà còn chủ yếu nhằm tạo cơ hội "Giáo dục cho
mọi người”.
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng không phải chỉ là huy động
các lực lượng xã hội hỗ trợ cho giáo dục, mà còn huy động; xã hội cùng làm
giáo dục.
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng không phải chỉ nhằm huy
động tiền của trong nhân dân, không phải là giảm gánh nặng cho ngân sách
Nhà nước. Huy động tiền của của nhân dân chỉ là một nội dung của huy động
các nguồn lực trong cộng đồng. Ngoài huy động tài lực, việc huy động nhân
lực, vật lực, trí lực là nội dung quan trọng của huy động các nguồn lực trong
cộng đồng nhằm đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục.
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng không đồng nhất với dân
chủ hoá giáo dục. Huy động các nguồn lực trong cộng đồng chỉ là một con
đường thực hiện dân chủ hoá giáo dục tạo điều kiện để mọi người trong xã
hội tham gia xây dựng và quản lý nhà trường và giúp cho quá trình dân chủ
hoá giáo dục được thuận lợi. Ngược lại, dân chủ hoá giáo dục là giải pháp,
đồng thời là động lực không thể thiếu được đối với huy động các nguồn lực
trong cộng đồng. Nhờ có dân chủ hoá giáo dục mà các thành phần tham gia
huy động các nguồn lực sẽ trở nên đông đảo, rộng khắp ở mỗi địa phương.
- Huy động các nguồn lực trong cộng đồng cũng không phải là đa dạng hoá
giáo dục. Thực ra, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp chỉ
là giải pháp, đồng thời là động lực không thể thiếu được đối với huy động các
nguồn lực và là một nội dung của huy động các nguồn lực trong cộng đồng.
1.2.4. Giáo dục

Giáo dục xuất hiện cùng với đời sống xã hội của loài người. Giáo dục

13


vốn là một hiện tượng xã hội, một phương thức để tồn tại và phát triển của xã
hội loài người với đặc trưng của nó là sự truyền thụ tri thức từ người này qua
người khác để thành người.
Giáo dục là tác động có hệ thống để con người có thêm năng lực và
phẩm chất cần thiết. Giáo dục theo nghĩa rộng là hoạt động (hay quá trình)
chuyển giao hệ thống tri thức, kinh nghiệm của thế hệ này cho các thế hệ kế
tiếp nhằm hình thành và phát triển nhân cách, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Theo nghĩa hẹp giáo
dục gắn với quá trình hình thành và phát triển hệ thống nhà trường (Giáo dục
nhà trường) là các hoạt động giáo dục có mục đích và nội dung chính xác cho
từng bậc học và loại hình nhà trường và được thực hiện một cách có kế hoạch,
có hệ thống trong khuôn khổ tổ chức nhà trường.
Vì vậy, khái niệm của A.Cardinet: sự giáo dục cơ bản tương tự như
“nhân cách cơ bản” đã được tổ chức Giáo dục-Khoa học-Văn hóa của Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) chấp nhận: là toàn bộ những hoạt động để tác thành
cho một nhóm người thiếu tổ chức hợp lý về những yếu tố văn hóa cần thiết
cho sự phát triển.
Theo Piaget: Giáo dục là “sự đào tạo thích nghi cho cá nhân với môi
trường xã hội của người lớn, tức là biến cải thể trạng tâm sinh lý của cá nhân
cho phù hợp với thực tiễn tập thể mà lương tri chung gán cho giá trị nào đó.
Vậy là có hai thuật ngữ trong quan hệ về giáo dục: một mặt là cá nhân đang
phát triển, mặt khác là các giá trị trong xã hội, trí tuệ và đạo đức mà nhà đào
tạo có nhiệm vụ truyền thụ”.
Theo Hà Thế Ngữ: “Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách
có mục đích, nhằm chuẩn bị con người tham gia đời sống xã hội, tham gia

lao động sản xuất bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của loài người”.

14


Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, từ các góc độ khác nhau, nhưng
chung quy lại có thể khẳng định: Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình
thành nhân cách, được tổ chức một các có mục đích, có kế hoạch, thông qua
các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục,
nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Như vậy, giáo dục với tư cách là hoạt động của con người trong xã hội
có bốn đặc trung chủ yếu:
- Là quá trình đào tạo con người, hình thành những sức mạnh bản chất
của con người, tác động đến sự phát triển của con người.
- Đó không phải là một quá trình tự phát mà là một quá trình tự giác có
mục đích đã được ý thức trước.
- Là quá trình chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội (với
những yêu cầu cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử) tham gia các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, mà lĩnh vực chủ yếu là lao động sản xuất.
- Quá trình đó được tiến hành bằng nhiều con đường, nhiều phương
tiện, nhiều biện pháp khác nhau, song tất cả đều phải nhằm tổ chức người dạy
và người học truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm đã tổng kết được
trong lịch sử của xã hội loài người.
1.2.5. Phát triển; Phát triển giáo dục
- Phát triển: Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một
phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Theo
quan điểm đó, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong
quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ

vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ
cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn
có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.

15


Theo từ điển tiếng Việt: phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ
ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp. Như vậy,
phát triển làm tăng cả về chất lượng và số lượng làm cho hệ giá trị được cải
tiến, được hoàn thiện.
- Phát triển giáo dục: Như chúng ta đã biết, con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải
chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận
thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội.
Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri
thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn
lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của
dân tộc, đất nước mình.
Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay,
giáo dục còn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri
thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài
sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu
quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là
chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia,
dân tộc bởi giáo dục góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm
giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ
sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội

nhập quốc tế và toàn cầu.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển, Đảng
và Nhà nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” theo đó có
nhiều chính sách được thực hiện. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định sự quan

16


điểm hướng tới mục tiêu công bằng trong phát triển giáo dục: “Nhà nước ưu
tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục
mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học
phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý” (Khoản 2
Điều 61) và “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật
và người nghèo được học văn hóa và học nghề” (Khoản 3 Điều 61).
1.3. Cơ sở khoa học của việc huy động nguồn lực cộng đồng trong phát
triển GDMN
1.3.1. Đặc điểm giáo dục mầm non trên địa bàn cấp huyện
Giáo dục mầm non của huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên
nói chung ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, chính
quyền địa phương và nhân dân các dân tộc trên địa bàn. Các chính sách phát
triển GDMN đặc biệt là các chính sách hỗ trợ trẻ ra lớp đã có tác động tích
cực đến chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Các điều kiện về cơ
sở vật chất, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi được quan tâm bổ sung, nâng cấp hằng
năm, tỉ lệ trường chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đội ngũ giáo viên đã có hiểu
biết về đặc thù, những nét văn hóa riêng của một số dân tộc thiểu số địa
phương và có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Các hoạt
động xã hội hóa giáo dục có nhiều đóng góp cho việc đảm bảo các điều kiện

chăm sóc giáo dục trẻ.
Tuy nhiên, Tuần Giáo là một huyện có nhiều dân tộc sinh sống (17 dân
tộc với gần 90% trẻ ra lớp là người dân tộc thiểu số), do vậy tỷ lệ trẻ là người
dân tộc thiểu số trong độ tuổi mầm non ngoài nhà trường còn khá lớn, đặc
biệt là trẻ trong độ tuổi nhà trẻ dẫn đến trẻ gặp khó khăn về ngôn ngữ tiếng

17


Việt khi ra lớp học mẫu giáo, chất lượng thực hiện chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Nhiều giáo viên dân tộc Kinh
không biết tiếng dân tộc của trẻ theo học. Một số nhóm, lớp chưa đảm bảo các
yêu cầu tối thiểu về phòng học, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi và học liệu. Hoạt
động tuyên truyền phổ biến kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ theo khoa học
trong cộng đồng chưa thực sự phong phú, hiệu quả chưa cao.
1.3.2. Ý nghĩa của các nguồn lực cộng đồng trong phát triển GDMN
Huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển giáo dục mầm
non góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
Thực hiện chủ trương huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát
triển giáo dục mầm non góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ, phát huy hiệu quả xã hội của giáo dục, xây dựng môi trường thuận lợi chăm
sóc, giáo dục trẻ, nhằm phát triển tốt nhất những khả năng của trẻ, đặt nền tảng
cho việc hình thành nhân cách cũng như việc học tập suốt đời. Không thể có
được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của một thế giới toàn
cầu nếu như ngày hôm nay thiếu sự quan tâm đến lứa tuổi mầm non.
Việc huy động các lực lượng trong xã hội tham gia vào giáo dục góp
phần tạo nên những chuyển biến căn bản về chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ,
điều mà tất cả các bậc cha mẹ đều mong đợi. Huy động tốt các nguồn lực sẽ
hỗ trợ nhiều hơn cho cả người dạy và người học, trẻ được hưởng lợi nhiều
hơn. Huy động tốt các nguồn lực sẽ tạo nên những điều kiện vật chất để nâng

cao chất lượng thực hiện chương trình GDMN và tạo nên những thuận lợi cho
việc tổ chức quá trình giáo dục chăm sóc trẻ của nhà trường, tạo nên chất
lượng tốt hơn.
Ngoài việc tạo điều kiện để phát huy hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ tại
các cơ sở GDMN, việc nâng cao chất lượng GDMN còn tạo tiền đề để phát
triển nguồn nhân lực cho tương lai. Với mục tiêu phát triển KT - XH của địa

18


phương sẽ quy định phương hướng, mục tiêu phát triển giáo dục ở địa phương
đó; kế hoạch giáo dục trong đó có GDMN phải nằm trong kế hoạch phát triển
KT - XH, đáp ứng những yêu cầu của việc hình thành lớp người có phẩm chất
và năng lực phục vụ cho sự phát triển KT - XH của địa phương đó. Với sức
mạnh của cộng đồng, GDMN sẽ phát tốt đáp ứng và đạt được mục tiêu phát
triển KT - XH của địa phương.
Huy động được các nguồn lực trong cộng đồng sẽ giúp khắc phục
những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng bao cấp trong một
thời gian khá dài, nên chỉ tập trung xây dựng các nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo
chính quy với vốn chủ yếu do nhà nước. Hiện nay, GDMN đang đứng trước
những thách thức lớn, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển GDMN và
ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục còn hạn chế. Kinh phí đầu tư của
Nhà nước chủ yếu mới chi lương cơ bản cho giáo viên, mặt bằng lương giáo
viên mầm non vẫn ở mức thấp; nhiều nơi, nhất là ở các vùng ngoại thành,
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, do nguồn kinh phí hạn hẹp, việc phát triển
GDMN gặp rất nhiều khó khăn.
Vấn đề đang đặt ra cho GDMN, phương hướng phát triển của GDMN
trong giai đoạn tới là tiếp tục củng cố duy trì, từng bước phát triển về quy mô
nhà trẻ, mẫu giáo và nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, kể cả số trẻ

được nuôi dưỡng ở gia đình, theo phương thức phối kết hợp giữa nhà nước và
nhân dân. GDMN được thực hiện thông qua hình thức tổ chức các nhà trẻ,
mẫu giáo; đồng thời qua việc tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học chăm
sóc, giáo dục trẻ trong xã hội.
Huy động cộng đồng tốt sẽ mang lại nhiều nguồn lực phục vụ cho mọi
hoạt động của GDMN. Huy động các nguồn lực và đa dạng hóa các nguồn lực
như: Nguồn lực vật chất, nguồn lực tinh thần; nguồn lực vừa có ý nghĩa vật

19


chất và tinh thần. Những nguồn lực này sẽ góp phần giải quyết được mâu
thuẫn, khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển GDMN. Huy động
các nguồn lực trong cộng đồng không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm và
vai trò của nhà nước, mà nhà nước càng phải tăng đầu tư ngân sách cũng như
tăng cường quản lý nhà nước đối với giáo dục nói chung và GDMN nói riêng.
Huy động các nguồn lực phát triển giáo dục mầm non sẽ tạo ra sự
công bằng, dân chủ trong hưởng thụ và trách nhiệm xây dựng giáo dục
mầm non

Thực hiện tốt công tác huy động các nguồn lực trong cộng đồng tức là
xây dựng được cộng đồng trách nhiệm của mọi lực lượng xã hội để không chỉ
tham gia mà phải cùng làm. Như vậy, huy động các nguồn lực trong cộng
đồng là giải pháp quan trọng đế thực hiện công bằng xã hội trong phát triển
GDMN. Công bằng xã hội thể hiện ở việc đa dạng hóa các hình thức học tập,
các loại hình trường, lớp, mở rộng các cơ hội cho mọi thành phần kinh tế, cho
mọi tầng lớp nhân dân chủ động và bình đẳng tham gia vào các hoạt động
GDMN. Công bằng xã hội trong GDMN chính là việc hưởng thụ các dịch vụ
chăm sóc, giáo dục, trẻ em có cơ hội được nuôi dưỡng, học tập bình đẳng như
nhau. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện ở nghĩa vụ cống hiến cho GDMN theo

khả năng thực hiện của từng người, từng cộng đồng và địa phương. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: "Sửa đổi chế độ học
phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo theo hướng
xác định đây đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa
nhà nước, xã hội và người học". Chủ trương lớn trong đường lối giáo dục của
Đảng và Nhà nước ta là dân chủ hóa giáo dục. Thực hiện dân chủ hóa GDMN
để mọi trẻ em có cơ hội được hưởng mọi quyền lợi chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục và để mọi người dân có thể thực hiện quyền làm chủ với sự nghiệp
giáo dục. Dân chủ hóa quá trình GDMN là dân chủ hóa việc thực hiện mục
tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đánh giá GDMN, thực hiện dân

20


×