Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.84 KB, 14 trang )

Tiểu luận mơn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

MỤC LỤC
TRANG
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................2
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT........................................3
1. Lược khảo về lịch sử phát triển phép biện chứng...............................................................3
1.1 Phương pháp siêu hình:....................................................................................................3
1.2 Phương pháp biện chứng:................................................................................................4
1.3 Lịch sử phát triển của phép biện chứng:........................................................................4
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:...................................................................5
2.1 Ngun lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật................................5
2.2 Ngun lý về sự phát triển...............................................................................................5
2.2.1) Khái niệm:.................................................................................................................5
2.2.2) Tính chất của sự phát triển: ...................................................................................6
3. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.........................................................6
3.1 Quy luật chuyển hố từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất và
ngược lại..................................................................................................................................7
3.2 Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)..........7
3.3 Quy luật phủ định của phủ định.....................................................................................8
PHẦN II: VẬN DỤNG NGUN LÝ “MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN” CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VÀO QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP..........................................................9
1. Quan hệ nội bộ giữa các yếu tố trong doanh nghiệp...........................................................9
1.1 Cơng việc kỹ thuật............................................................................................................9
1.2 Cơng việc thương mại.......................................................................................................9
1.3 Cơng việc tài chính.........................................................................................................10
1.4 Cơng việc an tồn trong sản xuất..................................................................................10
1.5 Cơng việc kế tốn............................................................................................................10
1.6 Cơng việc quản lý............................................................................................................11


2. Sự tác động lẫn nhau giữa các cơng việc.............................................................................11
3. Quan hệ đối với bên ngồi doanh nghiệp...........................................................................12

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Đồn Quang Thọ: Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh khơng thuộc chun ngành Triết học), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
2006.
2. Các trang web: .,
3. Phép biện chứng duy vật với quản lý doanh nghiệp , NXB Chính trị quốc gia
4. Các bài báo, tạp chí kinh tế khác.

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

1

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

LÔØI MÔÛ ÑAÀU
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ
thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng hoạt động của
thế giới tự nhiên xã hội, tư duy mà còn là công cụ sắc bén nhận thức thế giới khách quan
của con người, chỉ ra được những cách thức để định hướng đúng hoạt động cụ thể nhằm
mang lại hiệu quả, năng suất cao trong thực tiễn.
Quản lý doanh nghiệp là một quá trình kết hợp giữa chủ quan và khách quan,
không thể không có phương hướng tư duy đúng đắn mà dẫn đến thành công được, cũng

như vậy sẽ hết sức sai lầm khi sử dụng phương pháp siêu hình trong quản lý nói chung,
quản lý doanh nghiệp nói riêng. Ph.Ăngghen đã nhận định “ Phương pháp tư duy ấy mới
xem thì có vẻ hoàn toàn có thể chấp nhận được, bởi vì nó là phương pháp của cái mà
người ta gọi là lý trí lành mạnh của con người…,tuy là một người bạn đáng kính…,
nhưng chóng hay chầy nó cũng sẽ gặp phải một ranh giới mà nếu nó vượt quá thì nó trở
thành phiến diện, hạn chế, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải
quyết được”.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Phép biện chứng duy vật và vận dụng nguyên lý mối liên
hệ phổ biến của phép biện chứng vào quản lý doanh nghiệp”. Nội dung của đề tài gồm
hai phần: phần 1 lý luận chung về phép biện chứng duy vật, phần 2 vận dụng nguyên lý
mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng vào quản lý doanh nghiệp. Những vấn đề của
phép biện chứng duy vật và khoa học quản lý đều hết sức rộng, phong phú. Do đó, còn
có nhiều hạn chế, thiếu sót trong khi làm đề tài này. Rất mong được sự chỉ điểm nhận
xét quý báu của giảng viên bộ môn cũng như sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
TP.HCM, ngày 15 tháng 05 năm 2007

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

2

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Lược khảo về lịch sử phát triển phép biện chứng

1.1 Phương pháp siêu hình:
- Là phương pháp nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng với
những chỉnh thể khác nhau và giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
- Là phương pháp nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại. Nếu có sự biến đổi thì
chỉ có sự biến đổi về lượng còn nguyên nhân của sự biến đổi nằm bên ngoài đối tượng từ
đó phương pháp này dẫn đến nhận thức đối tượng có những sai lầm:
+ Chỉ nhìn thấy sự vật hiện tượng mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa các sự
vật hiện tượng.
+ Chỉ thấy sự tồn tại của những sự vật mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu
vong của chúng.
+ Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự vật ấy mà quên mất sự vận động của sự vật.
+ Chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng (chỉ thấy cá thể mà không thấy tập
thể).
- Các sai lầm trên tất yếu dẫn đến lối tư duy siêu hình cứng nhắc, A đồng nhất
tuyệt đối với A.
- Thuật ngữ siêu hình bắt nguồn từ chữ Hy Lạp là Metaphysica, với nghĩa là
“những gì sau vật lý học”. Theo Arixtốt “những gì sau vật lý học” là những hiện tượng
siêu vật lý thuộc về tinh thần, ý thức, là bản chất của sự vật, hiện tượng mà Arixtốt gọi là
“vô hình” hay “siêu hình”.
- Về thực tiễn từ nửa cuối thế kỷ thứ XV, khoa học thực nghiệm mới thực sự bắt
đầu phát triển. Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào phân tích mổ xẻ mang đến
thành tựu vĩ đại trong việc phát triển khoa học. Nhưng phương pháp nghiên cứu đó cũng
tạo ra một thói quen quan sát sự vật ở trạng thái cô lập. Đến thế kỷ thứ XVII, Bêcơn và
Lốccơ đưa ra xem xét đó từ khoa học tự nhiên sang triết học thì nó làm cho phương pháp
siêu hình trở thành phương pháp thống trị. Cuối thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX phương
pháp siêu hình không còn thích hợp nữa.
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

3


Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

1.2 Phương pháp biện chứng:
- Là phương pháp nhận thức đối tượng trong mối quan hệ nhau, ảnh hưởng nhau,
ràng buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động, biến đổi và nằm trong khuynh hướng
của sự phát triển. Đó là quá trình biến đổi về chất của các sự vật hiện tượng mà nguồn
gốc của sự biến đổi này là do sự đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
nội tại của chúng. Phương pháp này có các nội dung như sau
+ Không chỉ thấy sự vật cá biệt mà còn thấy mối liên hệ qua lại giữa chúng.
+ Không chỉ thấy sự tồn tại mà còn thấy sự hình thành và tiêu vong của sự vật.
+ Không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy trạng thái vận động biến đổi của sự
vật.
+ Không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng.
- Phương pháp biện chứng mang đến cho con người một thứ tư duy mềm dẻo và
linh hoạt trong những tư duy cần thiết: vừa là cái này vừa là cái kia, hoặc là cái này hoặc
là cái kia hoặc cả hai dẫn tới sự vật vừa là nó vừa là cái khác nó.
1.3 Lịch sử phát triển của phép biện chứng:
- Phép biện chứng sơ khai, xuất phát thời cổ đại từ chữ Hy Lạp Dialektica gắn liền
với phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platon. Khi đó phép biện chứng được hiểu là
nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý. Trước Platon thì có phép biện chứng của
Hêraclit cho rằng kết quả thế giới không xuất phát từ giá trị khoa học mà chỉ là trực kiến.
- Sau đó là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng này được khởi đầu từ Cantơ và kết thúc là Hêghen.
Tính chất duy tâm của phép biện chứng ấy thể hiện ở chỗ coi biện chứng là sự phát triển

của “ý niệm tuyệt đối”. Trong quá trình này ý niệm tuyệt đối “tự tha hóa”, nó chuyển hoá
thành giới tự nhiên và sau đó lại trở về với bản thân mình trong ý niệm tuyệt đối. Theo
Hêghen, sự phát triển biện chứng của thế giới chỉ là thể hiện sự vận động của ý niệm
tuyệt đối mà thôi.
- Do đó, phép biện chứng duy tâm chỉ có giá trị về mặt học thuật nhưng không có
giá trị lớn về mặt thực tiễn. Thành tựu của phép biện chứng duy tâm như là một phương
pháp xem xét thế giới đối lập với phương pháp siêu hình thế kỷ XVII-XVIII. Mác và
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

4

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

Ăngghen cải tạo phép biện chứng từ duy tâm thành duy vật và sáng tạo ra phép biện
chứng duy vật là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng.
- Phép biện chứng duy vật là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên xã hội và tư duy.
- Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với
phép biện chứng, giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng.
- Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư
duy triết học, là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật, những phản
ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng trong sự ràng buộc,
sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng (trích Mác Ăngghen toàn tập nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội tập 20 trang 38).
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:

Phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù. Trong đó, 2
nguyên lý có nội dung khái quát nhất còn 3 quy luật, 6 cặp phạm trù là sự cụ thể hoá các
nguyên lý.
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.
- Đối với phương pháp biện chứng người ta cho rằng các sự vật hiện tượng, các
quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập nhưng đồng thời nó vừa quyết định và tác động
qua lại lẫn nhau điều đó có nghĩa là các phương pháp biện chứng nhận thức sự vật hiện
tượng không phải trong sự cô lập nhau mà xem xét chúng trong sự liên hệ chặt chẽ với
nhau. Mặt khác, phép biện chứng duy vật còn khẳng định cơ sở của mối liên hệ giữa các
sự vật hiện tượng là do tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Như vậy, liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, tác động qua
lại chuuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát
triển của sự vật hiện tượng.
2.2 Nguyên lý về sự phát triển.
2.2.1) Khái niệm:
- Trong phép biện chứng duy vật, phát triển khái quát sự vận động nhưng là sự tiến
lên từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp. Phép biện chứng không chỉ thừa nhận sự
phát triển của thế giới mà còn
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

5

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

+ Chỉ ra cách thức của sự phát triển là quá trình biến đổi về lượng và dẫn đến sự

biến đổi về chất là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc.
+ Chỉ ra nguồn gốc sự phát triển là nằm trong bản thân các sự vật hiện tượng đó là
do quá trình giải quyết mâu thuẫn.
+ Chỉ ra khuynh hướng và kết quả của sự phát triển là quá trình diễn ra theo đường
xoáy ốc với kết quả là dường như sự vật trở lại với sự phát triển ban đầu nhưng trên cơ sở
cao hơn.
- Ngoài ra, phép biện chứng còn chỉ ra sự phát triển của thế giới không phải lúc
nào cũng diễn ra theo đường thẳng mà theo đường quanh co, phức tạp thậm chí có những
bước lùi tạm thời. Hơn nữa, sự phát triển rất khác nhau trong thế giới hiện thực.
2.2.2) Tính chất của sự phát triển: bao gồm 3 tính chất khách quan, phổ biến, đa
dạng.
a) Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc của sự phát triển nằm bên
trong của sự vật hiện tượng đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh
trong sự vận động của sự vật.
b)Tính chất phổ biến của sự phát triển:
- Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng có liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không
có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
- Tính chất phổ biến biểu hiện ở chổ nó diễn ra ở mọi lĩnh vực tự nhiên xã hội, tư
duy cũng như ở bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới.
c) Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển.
Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới, tuy nhiên ở mỗi sự vật hiện tượng
diễn ra không giống nhau là do chúng tồn tại trong những điều kiện không gian thời gian
khác nhau. Và trong quá trình phát triển của bản thân sự vật hiện tượng chịu tác động của
rất nhiều các sự vật hiện tượng khác, của rất nhiều các yếu tố, các điều kiện và chính vì
những sự tác động như vậy nên nó có thể thúc đẩy và kiềm hãm sư phát triển của sự vật
và đôi khi nó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển và thậm chí làm cho sự vật thụt
lùi.
3. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai


6

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

- Là sự cụ thể hoá nguyên lý về sự phát triển, nó biểu hiện quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật, có ý nghĩa phương pháp luận mọi hoạt động của con người để
thực hiện các quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử và quan điểm phát triển. Cụ thể về
phương diện vạch ra cách thức nguồn gốc, động lực và khuynh hướng phát triển tiến lên
của sự vật hiện tượng trong thế giới.
- Các quy luật của phép biện chứng duy vật gồm:
3.1 Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về
chất và ngược lại.
Quy luật này chỉ ra cách thức, cơ chế của sự phát triển là đi từ những biến đổi nhỏ
nhặt dần dần về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự biến đổi căn bản vế chất thông
qua bước nhảy vọt và ngược lại. Quy luật lượng chất là cơ sở phương pháp luận chung
cho mọi sự phát triển với 3 yêu cầu cơ bản sau:
+ Bước nhảy làm cho chất mới thay đổi chất cũ là tất yếu cho mọi sự phát triển.
Song phải thấy sự thay đổi vể chất chỉ diễn ra khi lượng thay đổi đến điểm nút. Chính vì
vậy, trong hoạt động của con người muốn tạo được bước nhảy phải quan tâm đến sự tích
lũy về lượng và khi lượng đã thay đổi đến điểm nút thì phải thực hiện bước nhảy. Do đó,
ở đây cần chống tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý chí cũng như chống tư tưởng không
giám thực hiện bước nhảy để tạo ra sự biến đổi về chất.
+ Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên
kết các yếu tố tạo nên sự vật. Chính vì vậy mà trong hoạt động thực tiễn của mình con

người cần phải biết tạo ra sự tác động vào phương thức liên kết các yếu tố tạo nên sự vật.
+ Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều khách quan như nhau nhưng
quy luật tự nhiên trái với quy luật xã hội. Quy luật tự nhiên tự nó giải quyết còn quy luật
xã hội có sự tham gia của con người có ý thức. Do đó bước nhảy trong lĩnh vực xã hội
được thực hiện con người không chỉ tôn trọng các điều kiện khách quan mà còn phải nỗ
lực chủ quan.
3.2 Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu
thuẫn).
- Quy luật này vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển, nó phản
ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Chính vì vậy, quy luật này
là cơ sở phương pháp luận chung nhất cho việc phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn với 3 yêu cầu cơ bản sau:

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

7

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

+ Do bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại mâu thuẫn, nhưng muốn phát hiện
ra được mâu thuẫn thì phải tìm ra những mặt những khuynh hướng trái ngược nhau tức là
tìm ra mặt đối lập, đồng thời tìm ra mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn,
phải xem xét vị trí vai trò và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Đồng thời phải
xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác

động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng có như thế chúng ta
mới hiểu đầy đủ đúng đắn về bản thân sự vật hiện tượng, đúng sự vận động phát triển và
điều kiện để giải quyết mâu thuẫn như thế nào.
+ Để thúc đẩy sự vật phát triển thì phải tôn trọng nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn
đó là đấu tranh của các mặt đối lập. Khi đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp
với trình độ phát triển mâu thuẫn đồng thời phải tìm ra phương thức, phuơng tiện, lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn.
+ Cuối cùng mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín mùi.
- Với tinh thần đó, chúng ta phải chống thái độ chủ quan nóng vội duy ý chí và
phải tích cực thúc đẩy những điều kiện khách quan làm cho các điều kiện giải quyết mâu
thuẫn đi đến chín mùi. Và cuối cùng mâu thuẫn khác nhau phải được giải quyết bằng
những phương pháp khác nhau.
3.3 Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này vạch ra khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc, thể
hiện tính chất chu kỳ trong sự phát triển. Chính vì vậy, quy luật này là cơ sở phương pháp
luận để:
+ Giúp chúng ta hiểu xu hướng của sự phát triển đó là quá trình diễn ra không
thẳng tắp mà quanh co phức tạp được diễn tả trên hình xoáy ốc. Xem phát triển là khuynh
hướng phát triển chung, tất yếu của sự vật.
+ Giúp chúng ta hiểu đầy đủ về cái mới, cái mới ra đời là hợp quy luật là cái tất
thắng song trong một lúc nào đó cái mới vừa nảy sinh thì trong một thời gian nào đó cái
cũ còn mạnh hơn cái mới. Chính vì vậy, một quan điểm chân chính về sự phát triển là con
người phải biết ủng hộ, bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển cái mới để nó nhanh chóng
khẳng định nó trong hiện thực.
+ Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa nhưng kế thừa phải có
chọn lọc, phê phán cần chống xu hướng kế thừa nguyên si rập khuôn, máy móc nhưng
cũng đồng thời chống chủ nghĩa phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô quá khứ.
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

8


Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

Từ lý luận chung về phép biện chứng duy vật, chúng ta vận dụng nguyên lý của
phép biện chứng vào trong hoạt động thực tiễn đặc biệt là trong công tác quản lý
PHẦN II: VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ “MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN” CỦA PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
- Bất kỳ một doanh nghiệp nào tồn tại đều thể hiện hai mối quan hệ tất yếu cơ bản,
đó là quan hệ đối với bên ngoài doanh nghiệp và quan hệ nội bộ giữa các yếu tố trong
doanh nghiệp. Tất nhiên để có thể hoạt động phát triển bình thường, doanh nghiệp còn có
rất nhiều mối quan hệ ngẫu nhiên, quan hệ cụ thể khác. Nhà quản lý doanh nghiệp muốn
thành công phải nắm vững và có những chính sách tác động phù hợp với hai quan hệ tất
nhiên đó.
- Để giải quyết tốt những quan hệ của doanh nghiệp đòi hỏi phải có những phương
pháp quản lý khoa học, trong đó phương pháp tổ chức công việc là hết sức quan trọng.
Doanh nghiệp được thành lập có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, có mục đích sản xuất, trao đổi hoặc lưu thông
tiền tệ, hàng hoá để tìm lợi ích chung chứ không phải để làm giàu cho một người hay một
số người. Do đó, quản lý doanh nghiệp phải phân chia ra nhiều loại công việc và chú ý
đến mối quan hệ biện chứng của các loại công việc đó.
1. Quan hệ nội bộ giữa các yếu tố trong doanh nghiệp
1.1 Công việc kỹ thuật
Đây là công việc có vai trò quyết định chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, do
đó người quản lý phải quan tâm đến công nhân kỹ thuật, thiết bị máy móc. Sự quan tâm
không chỉ đơn thuần là khai thác khả năng kỹ thuật của nhân viên mà phải trang bị các

công cụ lao động an toàn, phải đặt họ vào nhiều mối quan hệ khác (gia đình, xã hội…..)
để tạo điều kiện giúp đỡ họ an tâm tư tưởng, tập trung hoàn thành tốt công việc.
1.2 Công việc thương mại
- Thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng, thể hiện việc bán sản
phẩm, trao đổi sản phẩm của doanh nghiệp hoặc là mua vật tư, nguyên liệu để chế biến
thành sản phẩm.
- Với loại công việc này, buộc người quản lý nắm được nhu cầu, thị hiếu của
khách hàng, phải biết chỉ huy nhân viên đáp ứng tối đa nhu cầu thích đáng của đối tác, tổ
chức công việc quảng cáo và tìm cách tăng doanh số bán. Khi mua vật tư, nguyên liệu
cũng phải biết rõ những gì cần mua, những hãng nào có bán thứ đó, giá cả ra sao, loại
hàng đó có giá sắp lên hay sắp xuống.
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

9

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

1.3 Công việc tài chính
- Là khâu cơ bản rất quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại
phải có vốn, nhưng phải vừa đủ phù hợp với quy mô và mục tiêu sản xuất, không nên
thiếu hoặc quá dư.
- Vốn đối với doanh nghiệp rất quan trọng, người quản lý phải tính số vốn ban đầu
cho đủ, nếu không đủ vốn thì khi gặp hoàn cảnh không thuận lợi, doanh nghiệp sẽ lâm
nguy. Doanh nghiệp phải đi vay mượn vừa tốn tiền lãi, vừa mất tự chủ. Nếu vốn quá dư
cũng bất lợi vì có một số vốn không dùng tới thì không sinh lợi, dễ phung phí khi mua

sắm thiết bị không cần thiết…Do đó, người quản lý giải quyết mối quan hệ này phải hết
sức là nhạy bén, nắm vững hoạt động của doanh nghiệp.
1.4 Công việc an toàn trong sản xuất
- Là mối quan hệ nội tại rất cần thiết đối với mọi doanh nghiệp. Nó là mối quan
tâm không thể thiếu đối với công tác quản lý, người quản lý sản xuất. Muốn bảo đảm
công việc trong doanh nghiệp, trước hết phải xác lập quan hệ an toàn. Có hai yếu tố để
xác lập quan hệ an toàn trong sản xuất, đó là người và máy móc.
- Về người, phải lựa chọn người hợp với công việc. Nếu một người không đủ sức
khỏe mà giao cho họ một công việc nặng nhọc, hoặc không đủ trình độ, chuyên môn, ý
thức, tác phong làm việc thiếu nghiêm túc mà người quản lý lại giao cho công việc phức
tạp, điều khiển máy móc có nhiều quy trình rắc rối thì xảy ra tai nạn là tất yếu. Người
quản lý phải lưu tâm nâng cao cho thợ thạo nghề, vì thiếu kinh nghiệm thì sẽ có nhiều tai
nạn xảy ra.
- Về máy móc, phải lựa chọn loại máy móc phù hợp với năng lực của người công
nhân, phải chăm sóc, sửa chữa, bảo dưỡng máy theo định kỳ, đặt máy móc ở chỗ thích
hợp, chú ý những bộ phận dễ gây tai nạn….
1.5 Công việc kế toán
- Kế toán là tai mắt của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp có nhiều kỹ sư giỏi, kỹ
thuật hiện đại và tiền vốn đầy đủ nhưng công việc kế toán kém thì cũng dễ bị phá sản vì
doanh nghiệp sẽ không biết đi về đâu.
- Nhưng nếu người kế toán giỏi thì tránh nhiều rủi ro, vì doanh nghiệp được bộ
phận kế toán báo trước những sự cố, báo động trước những nguy cơ thất bại trong kinh
doanh để kịp thay đổi phương pháp hoạt động.

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

10

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4



Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

- Do vậy, công việc kế toán báo trước cho người quản lý biết tình trạng doanh
nghiệp bất kỳ lúc nào, đang ở đâu và sẽ đi đâu. Nó cho người quản lý biết rõ thực trạng
kinh tế trong doanh nghiệp một cách minh bạch và chính xác.
1.6 Công việc quản lý
- Là công việc quan trọng nhất, nó dự tính những việc làm, tổ chức cách thức làm,
chỉ huy các bộ phận trong doanh nghiệp, phối trí cho các bộ phận liên lạc với nhau, kiểm
soát từng bộ phận, từng công việc. Do đó, cơ quan quản lý trong doanh nghiệp giống như
bộ não trong cơ thể của con người.
Từ các công việc cơ bản đó, đòi hỏi người quản lý phải biết kết hợp chặt chẽ, phải
biết phân tích mối quan hệ biện chứng giữa những loại công việc đó, để tìm ra biện pháp
quản lý thích hợp nhằm thúc đẩy từng loại công việc phát triển tốt.
2. Sự tác động lẫn nhau giữa các công việc
- Các loại công việc đó không tồn tại độc lập, bao giờ cũng liên hệ, quan hệ và tác
động lẫn nhau với các công việc khác.
- Công việc kỹ thuật liên quan đến công việc kế toán, công việc kế toán kém tất
yếu làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ. Đặc biệt là công việc quản lý, gần như chi phối tất
cả công việc khác. Do vậy, người lãnh đạo, quản lý kém thì dù cho có nhiều công nhân,
viên chức giỏi cũng khai thác triệt để khả năng cống hiến của họ làm giàu cho doanh
nghiệp.
- Ăngghen viết: “.. phép biện chứng ở trong đầu óc người ta chỉ là sự phản ánh của
những hình thức vận động của thế giới hiện thực, những hình thức vận động của cả giới
tự nhiên lẫn lịch sử.”. Do vậy, không phải người quản lý chỉ biết xem doanh nghiệp có
bao nhiêu loại công việc, mà quan trọng là phân tích đúng nội dung quan hệ cần thiết của
các loại công việc đó.
- Tuỳ thuộc vào các yếu tố hiện thực khách quan của doanh nghiệp mà khẳng định

doanh nghiệp có những loại công việc gì, từ đó người quản lý tìm ra phương pháp quản
lý thích hợp.
Tóm lại, mọi quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp đóng vai trò quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Người quản lý giỏi là người biết phân tích, biết giải quyết
những nội dung quan hệ đó. Thậm chí, trong từng doanh nghiệp có những loại công việc,
những nội dung quan hệ riêng không giống nhau, mỗi quan hệ đều vận động, biến hoá,
nhưng người quản lý phải biết chú ý đến sự quá mức từ công việc này sang công việc
khác.
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

11

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

- C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “ Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự nhiên,
lịch sử loài người hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước nhất, chúng ta
thất một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động
qua lại trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đổi, mà tất cả đều vận động,
biến đổi, phát sinh và mất đi”. Như vậy, trước hết chúng ta thấy bức tranh tổng quát,
trong đó những chi tiết vẫn còn mờ nhạt ít nhiều, chúng ta chú ý đến sự vận động, đến sự
quá độ từ cái này sang cái khác, đến những mối quan hệ nhiều hơn là chú ý đến cái đang
vận động, đang chuyển hoá và đang liên hệ với nhau.
- Thực vậy, chính nội dung sự quá độ từ cái này sang cái khác, giúp cho người
quản lý tìm được nguyên nhân, tìm được nguồn gốc hình thành sự vật, hình thành công
việc trong doanh nghiệp một cách khách quan. Người quản lý không nên dùng chủ quan

của mình thiết lập những công việc trong doanh nghiệp, tự đặt ra những phòng, ban
không cần thiết, những tổ sản xuất không phù hợp với nhu cầu sản xuất. Chủ quan trong
quản lý là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự suy sụp của doanh nghiệp.
3. Quan hệ đối với bên ngoài doanh nghiệp
- Ngoài những quan hệ nội tại, doanh nghiệp còn có mối quan hệ với các doanh
nghiệp khác, quan hệ với thị trường. Triết lý của sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
một loại quan hệ phức tạp nó tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
- Trong xu hướng hội nhập, là thành viên của WTO, Việt Nam đang phải quyết
liệt cạnh tranh với các nước trên thế giới. Và nếu chúng ta không dẫn đầu trong cuộc
chạy đua thì sẽ thua cuộc. Đồng thời quan hệ giữa các doanh nghiệp cùng ngành là quan
hệ bên ngoài, nhưng nó góp phần cùng với sự giải quyết các quan hệ bên trong doanh
nghiệp, làm cho doanh nghiệp phát triển. Do vậy, nhà quản lý phải tìm và xác định rõ vai
trò, tác dụng nguồn gốc của sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đó để giải quyết nội
dung “cạnh tranh”.
- Hoạt động doanh nghiệp giống như trò kinh doanh tức là phải cạnh tranh sòng
phẳng, lành mạnh, thà thua cuộc sạch sẽ còn hơn thắng cuộc bẩn thỉu. Chúng ta luôn qúy
trọng một đối thủ chơi đẹp hơn là kẻ sẵn sàng làm bất kỳ điều gì để thắng cuộc. Người
quản lý doanh nghiệp đúng đắn phải xử lý mối quan hệ này một cách khách quan, bởi vì
ý nghĩa chính của sự cạnh tranh không phải để triệt hạ đối phương, mà thông qua cạnh
tranh làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người, mọi doanh nghiệp.
- Hai doanh nghiệp cùng có một phương hướng kinh doanh cạnh tranh với nhau
trong ngành, vừa thẩm thấu vào nhau, vừa tạo điều kiện, tiền đề cho nhau phát triển. Do
vậy, cạnh tranh không phải là tiêu diệt nhau mà tạo ra sự kích thích để cả hai doanh
nghiệp đều phát triển và đóng góp nhiều loại sản phẩm cho xã hội. V.I.Lênin viết: “ Sự
phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

12


Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

- Vì vậy, người quản lý doanh nghiệp nên xác định cạnh tranh không phải dành sự
ích kỷ cho mình và không có nghĩa là triệt bỏ sự cạnh tranh đó. Mà trong cạnh tranh, các
doanh nghiệp cần rút ra được lợi ích gì và mỗi doanh nghiệp đều cố gắng vươn lên bằng
sự sáng tạo và năng động của mình. Đó chính là ý nghĩa của sự cạnh tranh và nếu áp
dụng đúng thì đó là một tiến trình mang lại sự sáng tạo và sản sinh cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu sự cạnh tranh trở thành nguy cơ gây ra sự tương phản và cô lập các doanh
nghiệp thì nó sẽ mất đi ý nghĩa khuyến khích năng lực sáng tạo, thậm chí nó không
những phá hủy cả nền tảng của sự thịnh vượng chung. Do đó, chúng ta nên nhận thức
rằng chỉ cạnh tranh cho mình và nếu có ý đồ đè bẹp những người khác trong quá trình
cạnh tranh thì tất yếu dẫn đến tình trạng tự hủy hoại mình.
- Quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp còn biểu hiện ở quan hệ giữa doanh nghiệp
với thị trường. Đây là quan hệ góp phần xác định hướng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường tồn tại khách quan, do vậy người quản lý phải biết phân loại, xác định
thị trường. Từ đó biết được nhu cầu, thị hiếu, thói quen, sức tiêu thụ của khách hàng và
của những tương lai sẽ trở thành khách hàng tốt của mình: biết được cách làm ăn của các
nhà quản lý muốn cạnh tranh với mình; biết được những người trung gian giữa mình với
khách hàng. Mặc dù thị trường tồn tại khách quan nhưng luôn vận động, do vậy, cứ
khoảng 5 năm người quản lý phải nghiên cứu kỹ lại thị trường một lần, hoặc nên nghiên
cứu thị trường một cách kịp thời khi sắp tung ra thị trường sản phẩm mới. Khi muốn tăng
vốn để mở rộng doanh nghiệp, hoặc phải biết rõ lý do gì mà khách hàng đến với doanh
nghiệp đang giảm dần…

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai


13

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4


Tiểu luận môn Triết Học

GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Thu

KẾT LUẬN
Tóm lại, doanh nghiệp tồn tại và hoạt động bình thường đều thông qua hai mối
quan hệ phổ biến, khách quan đó. Mối quan hệ bên trong của doanh nghiệp bao giờ cũng
đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Còn mối quan hệ bên
ngoài của doanh nghiệp có ảnh hưởng nhất định và đôi khi mang tính quyết định nếu có
thông qua mối quan hệ bên trong của doanh nghiệp.
Giáo sư, tiến sĩ Letter C.Throw-nhà kinh tế học và quản trị học thuộc Viện Công
nghiệp kỹ thuật Matsa-chuset kết luận: “Điều quyết định cho sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp là những con người mà doanh nghiệp đang có. Đó phải là những con người
có học vấn cao, được đào tạo tốt, có đạo đức, có văn hoá và biết cách làm việc có hiệu
quả.

HVTH: Trương Thị Ngọc Mai

14

Lớp Cao Học K16 - Đêm 4




×