Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đề cương thảo luận trung cấp chính trị môn triết học 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.71 KB, 21 trang )

MÔN HỌC: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
PHẦN TRIẾT HỌC
Câu 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp
luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1 Vật chất
Theo LêNin “Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Thế giới vật chất tồn tại dưới dạng các sự vật hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng
chúng đều có thuộc tính chung: tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và loài người. Đó
là thuộc tính quan trọng nhất của vật chất để phân biệt được những hiện tượng vật chất và hiện
tượng không phải vật chất. Ví dụ: Sao hỏa là một dạng vật chất bởi vì nó tồn tại khách quan với suy
nghĩ của con người, dù chúng ta biết về nó hay không biết, thích hay không thích thì nó vẫn cứ tồn
tại.
1.2 Ý thức
Là sự phản ánh thế giới khách quan bởi bộ óc con người và được biểu hiện ra như là tri thức,
tình cảm, ý chí con người.
Về bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng ý thức là sự phản
ánh năng động, sáng tạo hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người vì:
• Ý thức là phản ánh chọn lọc, phản ánh những cái quan trọng nhất, cơ bản nhất mà con
người quan tâm.
• Ý thức phản ánh có sự cải biến. Ví dụ nhìn con chim bay thì ý thức con người mô hình
hóa và phát minh ra máy bay.
• Ý thức phản ánh vượt trước: dự báo trước sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng. Ví dụ
dự báo trời mưa từ những thông tin về nhiệt độ, độ ẩm không khí.
Ý thức luôn mang bản chất của xã hội vì ý thức là của con người mà con người là hiện thực
của một xã hội. Ví dụ ý thức về cái đẹp có thể khác nhau giữa các quốc gia, vùng miền.
Xét trên bình diện cá nhân thì ý thức của một cá nhân là những tri thức, sự hiểu biết của cá
nhân đó, là tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, ý chí của cá nhân.
1.3 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


Vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức: Vai trò này thể hiện trên bốn phương diện
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Theo chủ nghĩa duy vật mácxít, vật chất là nguồn
gốc của ý thức (quyết định nội dung của ý thức). Vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức, ý thức
là cái phản ánh cho nên là cái có sau, là cái bị quyết định. Như định nghĩa về ý thức ở trên, ý thức
là một thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt. Đó là bộ óc người.
Do vậy, không có bộ óc của con người thì không thể có ý thức. Hơn nữa ý thức tồn tại phụ thuộc
vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Do đó vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định nội dung phản ánh của ý thức. VD: Sống ở thành phố có mong
muốn mỗi ngày là đường phố thông thoáng, không bị kẹt xe. Nhưng nếu sống ở vùng đồi núi thì
không quan tâm vấn đề này vì có thể đi đường mòn.
1


Vật chất quyết định nội dung và sự biến đổi của ý thức: Bởi vì vật chất quyết định ý thức nên
vật chất thế nào thì ý thức như vậy. Ví dụ: quan điểm sống của những người nghèo khác người giàu,
người nghèo chỉ mong đủ ăn nhưng người giàu thì lại muốn ăn ngon. Ví dụ 2: Gần mực thì đen, gần
đèn thì sáng.
Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức: Vì vật chất quyết định ý thức nên khi
vật chất thay đổi thì ý thức cũng sẽ thay đổi. Ví dụ khi đời sống KTXH phát triển thì mong muốn
của con người về ăn uống, giải trí đều cao hơn.
Vật chất là điều kiện khách quan để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng con người: Vì vật chật
quyết định ý thức nên nếu không có vật chất hoặc không đủ thì sẽ không hiện thực được ý thức, lúc
đó ý thức chỉ là một giấc mơ xa vời. Ví dụ muốn xây dựng chế độ XHCN mà đất nước nghèo nàn,
lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn thì sẽ không thực hiện được. Khi lập kế hoạch cho cơ quan/đơn
vị, nếu không dựa vào điều kiện vật chất có sẵn mà đặt các yêu cầu và mục tiêu quá cao sẽ dễ dẫn
đến căn bệnh thời đại là “chủ quan duy ý chí”. Hiện nay rất nhiều dự án treo bởi vì điều kiện vật
chất không đủ đáp ứng, bác sĩ muốn chữa trị cho bệnh nhân tốt mà thiếu trang thiết bị y tế thì cũng
không thể nào chữa trị tốt được. Ý thức tác động trở lại vật chất
Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, ý thức còn có tính năng động sáng tạo nên
ý thức tác động trở lại vật chất, góp phần cải tiến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn

của con người.
Ý thức chỉ đạo cho con người trong mọi hoạt động của mình. Ý thức không phải trực tiếp
tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan,
trên cơ sở ấy con người xác định được mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn
phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện …để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất có thể diễn ra theo 2 hướng:
• Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy
hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo thế giới khách quan.
• Nếu ý thức phản ánh không đúng hay sai lầm hiện thực ở 1 mức độ nhất định thì sẽ làm
cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan, do đó sẽ kìm hãm
sự hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội.
Tuy vậy, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất dù đến đâu chăng nữa vẫn phụ thuộc
vào các điều kiện vật chất. Cho nên, xét đến cùng, vật chất luôn quyết định ý thức.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Quán triệt quan điểm khách quan: nắm bắt được quy luật, quy định khách quan, khác quan trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn
Khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng đó
để xem xét; không được lấy ý muốn chủ quan áp đặt vào sự vật, hiện tượng; phải trung thực trong
quá trình đánh giá, không “tô hồng, bôi đen”. Ví dụ: Đánh giá khen thưởng cuối năm phải dựa trên
năng lực, phẩm chất đạo đức cá nhân chứ không dựa trên mối quan hệ tiền bạc, quen biết thân
thiết.
Trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khác quan, phải dựa trên điều kiện hoàn
cảnh, cơ sở vật chất nhất định, không thể dựa trên sự áp đặt. Ví dụ trong vấn đề chi tiêu ngân sách
của cơ quan đơn vị, phải xem xét các nguồn thu vào, chi ra, các quỹ khác nhau để có định hướng
chi tiêu đúng. Không thể chi mười trong khi ngân quỹ có năm hoặc chi vào những quỹ không được
phép chi.
2


Trong hoạt động thực tiễn cần phải tôn trọng và hành động quy luật khách quan. Vì con người

không thể can thiệp hoặc thay đổi được quy luật khách quan cho nên phải cố gắng phát hiện và làm
theo các quy luật. Ví dụ kinh tế thị trường là một quy luật khách quan, thúc đẩy xã hội phát triển, là
xu hướng của nhân loại nhưng thời bao cấp chúng ta đã không công nhận nền kinh tế thị trường,
làm trái với quy luật khách quan, điều này dẫn đến nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng. Và sau này
khi chúng ta quay lại, thừa nhận nên kinh tế thị trường thì xã hội mới phát triển.
Chống thái độ chủ quan duy ý chí, vi phạm các quy luật khách quan. Bệnh chủ quan duy ý
chí là căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng
tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình
cách mạng thay thế cho sự yếu kém về tri thức khoa học. Đây là lối suy nghĩ và hành động đơn giản,
nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan; thể hiện rõ trong khi định ra những chủ trương, chính
sách và lựa chọn phương pháp tổ chức họat động thực tiễn theo hướng áp đặt, rơi vào ảo
tưởng, chủ quan. Ví dụ mục tiêu đặt ra quá cao, biện pháp không có tính khả thi…
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, bởi vì ý thức có thể tác động trở lại vật chất
Cần phải phát huy vai trò của tri thức khoa học. Vì ý thức có thể tác động lại thế giới vật
chất, cải tạo hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới cho nên để thế giới phát triển cần có sự tác
động đúng. Để làm được điều này thì cần phải có tri thức. Để nâng cao tri thức thì cần phải trau dồi,
học học không ngừng, làm chủ tri thức khoa học, phát triển tri thức lý luận. Ví dụ vấn đề tìm ra
hướng đi cho những vi khuẩn kháng thuốc.
Phát huy niềm tin, tình cảm, ý chí của con người: Bên cạnh có tri thức tốt thì con người cũng
cần phải giàu có về đời sống tinh thần, ý chí vững mạnh. Bác sĩ không thể là người tốt khi tâm
không sáng, nhà khoa học không thể tốt khi nghiên cứu những thứ chống lại xã hội loài người.
Quan tâm đến lợi ích của con người: Con người chỉ phát huy tối đa năng lực khi những lợi
ích cá nhân cơ bản được đảm bảo. Ví dụ nhân viên nhà nước không thể toàn tâm toàn ý cống hiến
cho công việc khi công việc ấy không mang lại đủ cơm, áo, gạo, tiền. Tuy nhiên lợi ích cá nhân cần
phải gắn liền với lợi ích xã hội.
Khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thụ động, ỷ lại: Ngược lại với bệnh chủ quan duy ý chí là
bệnh trông chờ, ỷ lại, trì trệ, thụ động trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không phát huy được
tính năng động của ý chí con người. Nó triệt tiêu tính năng động của ý chí con người, không chủ
động ứng phó hoặc thích nghi trước hoàn cảnh thay đổi, thụ động trước biến đổi của tự nhiên và xã
hội. Nó biến con người trở thành tự ti, bất lực trước hoàn cảnh, không có ý thức nắm bắt quy luật

khách quan và tổ chức lãnh đạo, quản lý phù hợp với quy luật khách quan, thiếu bản lĩnh hóa giải
các nguy cơ, thách thức và tranh thủ các cơ hội phát triển.
3. Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân
Liên hệ 2 quan điểm quả phương pháp luận:
Khách quan trong công việc bản thân là như thế nào?
Phát huy tính năng động sáng tạo trong công việc là như thế nào?

3


Câu 2: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân? 2.1 Nội dung của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến
1.1. Khái niệm
Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác và chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của
một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên,
xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác. Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.
1.2. Tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển
hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại
độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các
mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Vì mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện tượng.
Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay thần linh, thượng đế. Ngay cả những
vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh
sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con
người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác

động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngoài sự tác động
của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị và của những người khác. Chính con
người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu
biết các mối quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp
nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người. Chỉ có liên hệ với nhau sự vật hiện
tượng mới tồn tại, vận động, phát triển. Ví dụ: con vật thì có mối liên hệ giữa kẻ săn mồi và con
mồi: con hổ với con nai…, nếu không có mối liên như vậy thì con vật không thể tồn tại. Còn con
người thì có các quan hệ xã hội giữa người này với người khác có như vậy con người mới tồn tại,
vận động và phát triển.
Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố
cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ
thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến
đổi lẫn nhau. Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự
vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới mỗi
sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập,
biệt lập mà chúng là một thể thống nhât. Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn trong
trong tư duy, các sự vật hiện tượng cũng liện hệ tác động qua lai lẫn nhau. Không thể tìm bất cứ ở
đâu, khi nào các sự vật, hiện tượng lại tồn tại một cách cô lập tách rời. Ví dụ: Trong tự nhiên cây
xanh có mối liên hệ với môi trường (không khí, nhiệt độ…), còn có mối liên hệ với con người (con
người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…). Trong xã hội, không có người nào mà không có các
mối quan hệ xã hội như: quan hệ hàng xóm, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, các hình thái kinh
4


tếxã hội cũng có mối liên hệ với nhau, hình thái kinh tế -xã hội sau ra đời từ hình thái kinh tế-xã hội
trước (công xã nguyên thủy-chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa).
Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các sự suy đoán, các tâm tư, tình cảm, các cách suy nghĩ khác
nhau ví dụ như: nhìn vào một cô gái ta có các suy đoán cô ấy là người giàu có, cô ấy không được

tốt, cô ấy rất khó tính… Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không
có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế
giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn
đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái,
dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình.v.v.
Tính đa dạng, phong phú: svht trong thế giới rất đa dạng phong phú nên mlh giữa các svht
ấy cũng rất đa dạng phong phú. Người ta có thể phân loại các mlh căn cứ vào vị trí, vai trò của nó
hoặc phạm vi tác dụng và tính chất phức tạp của nó.
Ví dụ: Trước đây, mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ là thù địch nhưng hiện tại Mỹ là đối
tác chiến lược quan trọng của Việt Nam. Hoặc các loài cá, chim, thú đều có mối quan hệ với nước,
nhưng mối quan hệ của chim, thú với nước thì khác so với cá. Cá thì sống thường xuyên trong nước,
không có nước thì cá không tồn tại được, nhưng chim với thú thì không sống thường xuyên trong
nước được.
1.4. Vai trò của mối liên hệ
Các mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự phát triển của SVHT. Liên hệ bên trong, chủ
yếu, cơ bản giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển.
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận: Xây dựng quan điểm toàn diện-lịch sử cụ thể
Trong nhận thức, phải xem xét tất cả các mặt quan điểm toàn diện, các MLH của SV, tránh
phiến diện. Chú ý MLH cơ bản bên trong, chủ yếu để quyết định.
Ví dụ: khi khám bệnh cho BN sốt rét, để chẩn đoán ra bệnh phải xem xét các mặt dựa vào
yếu tố lâm sàng: nguyên nhân, triêu chứng bệnh, thời gian u bệnh, phát bệnh..., yếu tố cận lâm sàng,
yếu tố di truyền, dịch tể…. thì mới tìm ra đúng bệnh
Đánh giá đúng vai trò, vị trí của các MLH đối với sự phát triển của SVHT, tránh cào bằng
(triết trung). Ví dụ: Trong giai đoạn xây dựng đất nước có rất nhiều nhiệm vụ được đặt ra, nhưng
phải xác định nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế.
Xem xét toàn diện nhưng trong điều kiện lịch sử cụ thể. Phải đặt SVHT và các MLH trong
một không gian, xem xét toàn diện khác trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời gian cụ thể để xem xét,
tránh chung chung. Ví dụ: Trong điều trị bn, không chỉ tác động trên 1 mình bn mà còn phải xem
xét các MLH xung quanh bn; Nếu có 1 trận dịch tại một nơi nào đó và để dập được trận dịch này,
không chỉ 1 mình nhân viên của TTYTDP mà còn phải phối hợp tuyên truyền, giáo dục người

dân, nhà nước và nhân dân cùng làm.
Trong hoạt động thực tiễn, để cải tạo SV, phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp, lực lượng
khác nhau. Ví dụ: Khi xây dựng giải pháp phải xác định đúng nguyên nhân (MLH), có nhiều nguyên
nhân thì phải xây dựng nhiều giải pháp tương ứng.
1.6. Liên hệ vận dụng vào công tác bản thân (toàn diện và lịch sử cụ thể trong công tác là như
thế nào?)
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử
- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực,
cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở
5


lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng
chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống
Chúng ta hiện nay đều là những tân sinh viên, khi mới nhập học hầu như là không quen biết
nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy, chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng đầu tiên về ngoại
hình, tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là
người xấu hoặc tốt, dễ tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan trái với
quan điểm toàn diện. Điều có thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm. Chẳng hạn như
khi nhìn thấy một người có gương mặt ưa nhìn, ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và
muốn làm bạn, còn khi nhìn thấy một người ít nói, không hay cười thì cho là khó tính không muốn
kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không
tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ. Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè.
Ấn tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta
biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện,
mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ
nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó. Vẻ bề ngoài không nói lên được tất
cả, có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn
đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận họ trên mọi phương diện, ở

từng thời điểm, từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với
từng con người. Đối với những người bề trên như ông, bà, bố, mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần có
thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động, thái độ thoải mái, tự
nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian
khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận:
“đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu, tính cách không tốt hay vụ lợi không nên
giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người
không như xưa, chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi, có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp, kết
bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét
chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt. Khi ta học
kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài,
không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu, thì sẽ
tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết quả
cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp định hướng học
tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một cách
cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm:
Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi,
bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại, học để chung
sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
6


Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời
gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù hợp vùng

đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt năng suất, khi phát hiện
có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý thực là lí thuyết hay
cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác hơn,
học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu: “học” là tiếp thu
kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn
khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức,
mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là
tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ.
Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho
nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình
thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã nắm
vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vô
ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan… Lúng túng không biết
phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn,
nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do
học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi
kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt động.
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc kết
dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có
khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm
là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ thông đã
khiến các sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi. Đa số các em
không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại học
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học sinh, sinh viên
đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra

trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng
hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện cả về
phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác nhau nhưng luôn luôn
gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô dụng, bởi tài năng đó không
phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Con người
ta không thể sống một mình, không thể tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân
loại. Giá trị một con người được xem xét chính bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với
7


đồng loại. Người không có đức là người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài,
họ cũng chỉ vun vén để có lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích
của tập thể thì chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại
mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát vọng hành
động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì những ý định tốt cũng
khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở
nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ ràng là giá trị con người phải bao gồm cả tài và
đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao
động cao và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên, là những người đang trong quá trình phát triển
về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ
điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn
bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.
Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về về sự phát triển?
Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?

1. Khái niệm
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan
điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của
sự vật. Phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi về lượng mà còn là sự nhảy vọt về chất. Theo
quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng
chung của sự vận động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật
cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của
mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối
liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng
hoàn thiện hơn.
2. Tính chất của phát triển
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất cơ bản:
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo quan
điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá
trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó
sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức
của con người.
Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở
mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát
triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm
trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau.
8


Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời

trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của
rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật,
đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em
ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã
hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước của các
quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng
do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự
vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà
lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng có thể có những giai đoạn vận
động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo
khuynh hướng chung.
3. Nguồn gốc, cách thức và con đường của phát triển
Sự phát triển có nguồn gốc ở ngay bên trong mọi sự vật. Nó là kết quả của sự tác động qua
lại giữa các nhân tố tạo thành sự vật (QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) (phần nội
dung và ý nghĩa của câu 3)
Phát triển bao hàm cả sự thay đổi về chất, chứ không thuần túy là sự thay đổi về lượng (QL
lượng-chất) (phần nội dung và ý nghĩa của câu 4)
Phát triển không đi theo đường thẳng giản đơn, mà quanh co, phức tạp, theo đường “xoáy
ốc”, nhưng sớm hay muộn cái mới nhất định sẽ chiến thắng (QL phủ định của phủ định).
Nội dung quy luật:
• Phát triển là 1 quá trình phủ định nối tiếp nhau có tính chu kỳ
• Để hình thành 1 chu kỳ của sự phủ định phải ít nhất trải qua 2 lần phủ định. Lần 1 tạo
ra cái đối lập với nó. Đó là khâu trung gian trong quá trình phát triển. Lần 2 dường như
quay trở về cái ban đầu và trên cơ sở cao hơn.
• Phủ định của phủ định kết thúc 1 chu kì, đồng thời là điểm xuất phát cho 1 chu kì tiếp
theo
• Phát triển không theo đường thẳng mà đó là 1 quá trình quanh co, phức tạp theo đường
xoáy ốc đi lên.

VD: Hạt thóc gieo xuống đất  lúa (PĐ1)  bông lúa (PĐ 2)
Ý nghĩa phương pháp luận:
• Cần phát hiện, bảo vệ cái mới. Vì cái mới là cái yếu nếu gặp điều kiện thuận lợi sẽ phát
triển nhanh nhưng nếu gặp điều kiện không thuận lợi sẽ phát triển chậm. VD: Khi gieo
trồng cây, nếu gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, phân bón đầy đủ, cây sẽ lớn nhanh,
nhưng nếu thời tiết xấu, đất đai kém màu mỡ, phân bón không đầy đủ, cây sẽ phát triển
chậm.
• Cần có nguyên tắc kế thừa sáng tạo, chống quan điểm phủ định sạch trơn, kế thừa mù
quáng. VD: Bài học của Liên Xô: mô hình CNXH áp dụng thành công tại Liên Xô 
các nước áp dụng nguyên mẫu. Khi CNXH ở Liên Xô sụp đổ thì CNXH cũng sụp đổ ở
hàng loạt nước.
• Cần có tinh thần lạc quan khoa học, chống bi quan.
9


4. Ý nghĩa phương pháp luận: Là cơ sở lý luận để xây dựng quan điểm phát triển:
Trong nhận thức, khi xem xét, đánh giá SVHT, phải vạch ra được xu hướng biến đổi, phát
triển của chúng. Khi nhận thức sự vật không chỉ nhận thức nó trong hiện tại như nó có mà còn phải
thấy được khuynh hướng vận động, phát triển tất yếu của nó trong tương lai, từ đó dự báo các tình
huống có thể xảy ra để chủ động nhận thức giải quyết.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự
vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động
phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự
phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống con người.
Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẻ mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới luôn vận động biến đổi và phát triển. Phát triển là khó khăn, bao gồm cả sự thụt
lùi tạm thời, do vậy trong hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng
vào tương lai.
Tránh quyết định nóng vội, chủ quan duy ý chí, chưa tích lũy đủ về lượng đã muốn thực hiện
bước nhảy về chất

Tạo điều kiện và hỗ trợ cái mới ra đời và phát triển cái mới phải phù hợp với xu thế phát trển
và quy luật khách quan.
5. Liên hệ vận dụng vào công tác bản thân
Câu 4: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân 1. Nội dung quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
1.1. Vai trò của quy luật
Quy luật của mâu thuẫn là quy luật cơ bản nhất trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật và là hạt nhân của phép biện chứng bởi vì nó vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự
phát triển. Vd: để tư duy con người phát triển, phải giải quyết các mâu thuẫn như: tốt – xấu, biết –
chưa biết…
1.2. Khái niệm
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong
nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị trường có
cung và cầu, v.v. Những mặt trái ngược nhau đó phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến
trong tất cả các sự vật. VD: tốt - xấu, thiện – ác…
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc
phát triển của nhận thức.
Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất của các
mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt
này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa
chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng
nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, "sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự
10



"đồng nhất" của các mặt đó. Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của
mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh của
các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu
tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua
lại giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
1.3. Tính chất của mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến. Mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi
dạng vật chất. Vật chất tồn tại khách quan nên mâu thuẫn cung tồn tại khách quan. Trong bất kể sự
vật hiện tượng nào, ở bất cứ địa điểm nào, ở bất cứ thời gian cũng tồn tại các mặt đối lập vì vậy mâu
thuẫn có tính phổ biến. Theo Ăngghen: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã
chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự
sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hưữ cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn…Sự sống
trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng vừa là một cái khác. Như vậy,
sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và quá trình, một mâu thuẫn thường
xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái
chết xảy đến. Cũng như chúng ta thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi
mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với
sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị
hạn chế, trong những năng lực nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết trong sự tiếp nối của các
thế hệ, sự tiếp nối đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận, và được giải quyết trong
sự vận động đi lên vô tận”.
Mâu thuẫn không những có tính khách quan, tính phổ biến mà còn có tính đa dạng, phong
phú. Thế giới vật chất có vô vàn các dạng khác nhau chúng có một không gian khác nhau, thời gian
khác nhau, mối liên hệ khác nhau cho nên chúng có những mâu thuẫn khác nhau, không có một
dạng mâu thuẫn nào trùng khít lên dạng mâu thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong tự nhiên, có mâu thuẫn
trong xã hội, có mâu thuẫn trong tư duy... Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm
nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác
nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là:
mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản…Trong các lĩnh vực khác

nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú
trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
1.4. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát
triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú, đa dạng đó được quy định
một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng,
bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn thành
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các
mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất
định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. Việc phân chia mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối, tùy theo phạm vi xem
xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài, nhưng xét trong
11


mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Thí dụ: Trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội
bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các
nước khác trong ASEAN là mâu thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa
các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì vậy, để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu
thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự
vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn
nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài;
việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Thực tiễn cách
mạng nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn trong nước ta không tách rời việc
giải quyết những mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác. VD: Xét quan hệ của các nước XHCN
thì mâu thuẫn giữa VN-TQ là mâu thuẫn bên trong. Nhưng nếu xét về mặt các quốc gia độc lập về
chủ quyền thì mâu thuẫn giữa VN-TQ là mâu thuẫn bên ngoài.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia

thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản
chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó
không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nẩy sinh hay được giải quyết không làm cho sự
vật thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản. Nếu giải quyết được mâu thuẫn này thì hình thái xã hội sẽ phát triển thành
CNXH. Tuy nhiên, những mâu thuẫn không cơ bản cùng tồn tại trong XH như mâu thuẫn giữa tầng
lớp buôn bán và trí thức dù có giải quyết cũng không thay đổi nhiều. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nếu giải quyết được mâu thuẫn này thì
hình thái xã hội sẽ phát triển thành CNXH. Tuy nhiên, những mâu thuẫn không cơ bản cùng tồn tại
trong XH như mâu thuẫn giữa tầng lớp buôn bán và trí thức dù có giải quyết cũng không thay đổi
nhiều.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai
đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi
phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai
đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn
chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật
của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn
nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của
sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu
thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. VD: Mâu thuẫn chủ
yếu của xã hội VN trong giai đoạn 1930-1945 là mâu thuẫn dân tộc => giải quyết được mâu thuẫn
sẽ đi đến thắng lợi cách mạng.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai
cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Thí dụ: mâu thuẫn giữa nông dân với địa
12



chủ, giữa vô sản với tư sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược. Mâu thuẫn không đối
kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập
về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, giữa thành thị và nông thôn, v.v.. VD: Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng giữa một bên là giai cấp thống trị và một bên là giai cấp bị áp
bức, bóc lột. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và trí thức là mâu thuẫn không đối kháng vì cả 2
đều là giai cấp bị áp bức, bóc lột trong xã hội.
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng
phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối
kháng; giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập như sau: Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau
gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa
thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và
phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ
1.5. Nội dung quy luật
Mỗi sự vật là một chỉnh thể bao gồm các mặt, các yếu tố liên kết với nhau tạo thành, trong
đó có những mặt, những yếu tố có khuynh hướng ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập.
Hai mặt đối lập thì hình thành nên một mâu thuẫn.
Những mặt đối lập này vừa thống nhất lại vừa đấu tranh với nhau. Đấu tranh của các MĐL
đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải quyết, SV
chuyển hóa.
Sự vật mới ra đời có những MĐL mới, những mâu thuẫn mới, những quá trình thống nhất và
đấu tranh mới của những MĐL để đến một lúc nào đó mâu thuẫn lại được giải quyết, sự vật lại
chuyển hóa…
Như vậy, nguồn gốc của sự phát triển là do mâu thuẫn của SV. V.I.Lênin viết: "Sự phát triển
là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập"2. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập
thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể

tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất
giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn
định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát
triển. VD: Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng giúp cho việc sản xuất hàng hóa phát triển. Nhà
sản xuất muốn sản xuất nhiều hàng hóa với chi phí thấp. Người tiêu dùng lại muốn mua hàng hóa
chất lượng tốt với giá thành thấp. Từ đó, thúc đẩy các nhà sản xuất phát triển các kĩ thuật mới nhằm
sản xuất nhiều sản phẩm hơn, chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mâu thuẫn có tính tuyệt đối, khách quan, phổ biến, là nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển nên phải tôn trọng, đi sâu nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng
để nhận thức đúng bản chất của nó cũng như tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động
thực tiễn.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
13


Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động
thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn
phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những
mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V. I.
Lênin viết: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận của nó..., đó là thực chất...
của phép biện chứng".
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn,
xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh,
phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển
hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu
hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Phải tìm và giải quyết mâu thuẫn,
thừa nhận mâu thuẫn, vì mâu thuẫn là khách quan nên không ngại thừa nhận mâu thuẫn. VD: bản
thân muốn hoàn thiện, phải tìm và giải quyết mâu thuẫn của bản thân. Khi đã đi làm mà được cơ

quan cử đi học sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa học và làm.
Muốn phát hiện mâu thuẫn, phải tìm ra trong thể thống nhất (sự vật, hiện tượng, quá trình
được xác định trong thời gian, không gian cụ thể) những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau,
tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối
lập để nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động, phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, vì thế việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần
phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức phải biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương
pháp giải quyết phù hợp.
Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống, ứng với nó là hệ thống mâu thuẫn tạo nên một chỉnh
thể, khi tác động vào một mâu thuẫn có thể dẫn tới thay đổi toàn bộ hệ thống hoặc thay đổi một số
yếu tố của hệ thống. Mỗi mâu thuẫn lại có những cách giải quyết khác nhau. Phải tìm ra mâu thuẫn
cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu và tác động vào đó để đem lại hiệu quả cao. Khi giải quyết mâu thuẫn
phải đặt nó trong mối tương quan với các mâu thuẫn khác trong hệ thống, không cô lập tách rời
nhau. Đồng thời, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh,
điều kiện nhất định để tìm ra phương pháp tối ưu nhất. Nếu không nhận thức đúng đắn và tìm cách
giải quyết phù hợp sẽ làm cho mâu thuẫn càng trở nên phức tạp và khó giải quyết hơn.
VD: Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và
thực dân Pháp là mâu thuẫn cơ bản nhất. Để giải quyết mâu thuẫn này, các sĩ phu yêu nước, những
nhà cách mạng đã lựa chọn cách cách thức giải phóng dân tộc khác nhau. Có người, có phong trào
lựa chọn theo khuynh hướng phong kiến, có người lại chọn theo khuynh hướng tư sản. Tuy nhiên,
lúc này hệ tư tưởng phong kiến đã trở nên bất lực trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân
tộc, giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế lẫn chính trị, nên không đủ sức giương cao
ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Nhận thức rõ
những hạn chế của các phong trào giải phóng dân tộc trước đó, cùng với những yêu cầu của thực
tiễn, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc và nắm bắt được xu thế thời đại, Người đã
chọn con đường cách mạng vô sản bởi “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường tiến bộ, phù hợp với xu thế chung của
thời đại.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều
hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu

14


thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ
được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt
khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu
thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm
ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa
phù hợp với điều kiện cụ thể. Khi giải quyết mâu thuẫn, cần tránh 2 khuynh hướng: hoặc tuyệt đối
hóa thống nhất, sẽ dẫn đến điều hòa mâu thuẫn, phá bỏ mâu thuẫn, tuyên bố không có mâu thuẫn
làm mâu thuẫn chậm được giải quyết; hoặc tuyệt đối hóa đấu tranh, dẫn đến cực đoan, thái quá, làm
sự phát triển của sự vật, hiện tượng đi chệch hướng. Vd: giai đoạn chiến tranh, mâu thuẫn nổi bật là
mâu thuẫn giữa sống – chết. Giai đoạn hiện nay là mâu thuẫn giữa yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao
của công việc – năng lực của người lao động. VD: bệnh ung thư tùy theo giai đoạn bệnh có cách
giải quyết khác nhau và từng bệnh nhân có cách giải quyết khác nhau.
3. Liên hệ vận dụng vào công tác bản thân (xác định và phân tích >=3 mâu thuẫn: Mô tả - phân
tích – biện pháp giải quyết)
Đối với mỗi chúng ta, trong quá trình học tập và công tác của bản thân cần phải biết phân
tích những mâu thuẫn trong nhận thức, trong rèn luyện phẩm chất đạo đức. Phải phân biệt đâu là
đúng, là sai, là tiến bộ, khoa học hay lạc hậu để nâng cao nhận thức, phát triển nhân cách. Cần biết
đấu tranh phê bình và tự phê bình, tránh thái độ xuê xoa, “dĩ hòa vi quý”, không dám đấu tranh
chống lại cái lạc hậu, cái bảo thủ.
Trong công tác hàng ngày, mâu thuẫn giữa sếp với nhân viên
Mục đích: sếp dựa vào quyền lực nên giao rất nhiều công việc cho 1 nhân viên nhưng không
quan tâm hoặc cân nhắc là nhân viên đó có năng lực giả quyêt được hay không.
Cách thức: người sếp đó phải hướng dẫn, nói rõ mục đích cụ thể muốn nhân viên đó cần làm
gì để cho ra sản phẩm
Hạn chế: tuy nhiên không phải nhân viên nào cũng có khả năng nắm bắt được toàn bộ công
việc khi được giao, nó con tùy vào năng lực cũng như sự hiểu biết, trí tuệ của mỗi người. Người
nhân viên cũng không mạnh dạn từ chối khi không có khả năng giai quyết công việc trên.

Kết quả: công việc không hoàn thành, sếp và nhân viên không thoai mái trong công việc, nhung
mỗi ngày vẫn phải chạm mặt, và công việc như vậy vẫn se tai diễn nếu không thay đổi phương pháp
làm việc
Câu 5: Phân tích mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ
việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân 1. Quan điểm triết
học mácxít về thực tiễn
1.1. Khái niệm:
Thực tiễn là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất – cảm tính,
mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
1.2. Đặc điểm
Thực tiễn không phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất
– cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người sử dụng các công cụ vật chất, lực lượng vật chất
để tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của cải
vật chất như xây nhà, làm thủy lợi, đắp đê, làm ruộng, …
15


Thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử-xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt
động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người và trải qua những giai
đoạn lịch sử nhất định.
Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ
con người tiến bộ, nghĩa là làm biến đổi nó theo chiều hướng thúc đẩy xã hội phát triển. Đặc trưng
này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn.
1.3. Hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn
Hoạt động sản xuất vật chất: Hình thức hoạt động thực tiễn sớm nhất, cơ bản nhất, quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đó là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, thỏa mãn như
cầu tiêu dùng và trao đổi của con người. Ví dụ sản xuất lương thực thực phẩm, quần áo…
Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội
nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Ví dụ hình thức đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh chính trị xã hội, nó trực tiếp thúc đẩy xã hội phát triển.

Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành
trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và
xã hội nhằm xác định bản chất và qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Từ đó,
con người có thể cải tạo xã hội có kết quả hơn.
2. Lý luận
2.1. Khái niệm
Lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh mối
liên hệ, bản chất, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng và biểu đạt bằng hệ thống nguyên
lý, quy luật, phạm trù. Ví dụ trong triết học, vật chất quy định ý thức.
2.2. Đặc điểm của lý luận
Lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao và tính logic chặt chẽ.
Lý luận có cơ sở từ những tri thức kinh nghiệm thực tiễn: được hình thành từ tri thức kinh
nghiệm. Nếu không có tri thức kinh nghiệm thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận. Vì tri
thức bao gồm tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức lý luận được hệ thống và phát triển
dựa trên tri thức kinh nghiệm. Ví dụ lòng yêu nước, tinh thần yêu nước là tri thức kinh nghiệm. Chủ
nghĩa yêu nước là lý luận.
Lý luận phản ánh các bản chất, các quy luật vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
3.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận. Thực tiễn quyết định lý luận
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức, của lý luận: LL xuất phát từ TT là lấy TT
làm căn cứ nguồn gốc, làm tiền đề, làm điểm xuất phát để xây dựng lý thuyết.
• Thực tiễn cung cấp vật liệu cho nhận thức, không có thực tiễn thì không thể có nhận thức.
Bởi vì lịch sử loài người được phát triển bắt đầu từ hoạt động thực tiễn chứ không phải là
nhận thức thế giới, mà cụ thể là bằng hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, nhờ đó con
người, xh loài người xuất hiện và tồn tại. Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi
nhận thức phải trả lời. Hay nói cách khác là thực tiễn đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Ví
dụ đối mặt với bệnh HIV đặt ra nhiệm vụ nhân loại phải chế tạo loại vắc xin hoặc một cách
thức phòng chống hiệu quả cho căn bệnh này.

16





Thực tiễn rèn luyện giác quan của con người. Ví dụ thông qua hoạt động lao động sản xuất,
các cơ quan cảm giác như thị giác, thính giác…được rèn luyện phát triển với mục đích là tạo
cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.
• Thực tiễn là cơ sở để chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu quả hơn.
Quá trình hoạt động thực tiễn sẽ hoàn thiện cơ thể, các giác quan và bộ óc của con người
cũng như không ngừng chế tạo ra các phương tiện, các công cụ để “nối dài” các giác quan
của con người nhờ đó khám phá bí ẩn của TG sâu xa, đầy đủ, chính xác hơn. Ví dụ con người
phát minh ra kính thiên văn, kính hiển vi, máy vi tính, robot…nhằm hỗ trợ con người trong
sản xuất.
Thực tiễn là động lực là mục đích của nhận thức, của lý luận: Nhận thức không có mục
đích tự thân, nhận thức là để tạo ra các tri thức và sau đó áp dụng vào thực tiễn. Nhận thức của con
người bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn, để sống thì con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh,
nghĩa là con người cần phải có nhận thức. Kết quả của quá trình nhận thức là tri thức, và thực tiễn
chính là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức, tri thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi vận dụng vào
thực tiễn phục vụ con người. Ví dụ mưa bão là một thực tiễn, để có thể tồn tại thì con người cần có
kiến thức về mưa bão như mưa bão thì hay xảy ra trong những điều kiện nào, nơi nào sẽ là nơi để ở
an toàn, làm sao dự trữ lương thực cho mùa mưa bão…Ung thư là một thực tiễn, để nâng cao chất
lượng cuộc sống thì con người cần phải có tri thức về các bệnh ung thư.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, của lý luận: Tiêu chuẩn của
nhận thức không phải ở số đông, không phải ở tiền bạc và quyền lực, ở sức mạnh mà tiêu chuẩn của
nhận thức xét đến cùng chính là ở thực tiễn, chỉ có thông qua thực tiễn mới chứng được nhận thức
nào là đúng, nhận thức nào là sai và đúng sai đến mức độ nào. Ví dụ Sự phù hợp giữa LLSX và
QHSX là quy luật. Khi chúng ta áp dụng sai quy luật này thì thực tiễn sẽ thể hiện kết quả ngay, đó
là sự khủng hoảng kinh tế. Khi chúng ta cải cách, tuân thủ quy luật này, thực tế cho thấy, chúng ta
đã đạt được nhiều thành công.
Tuy nhiên thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng nghĩa là vừa có tính tuyệt đối

và vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể
là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể
hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi phát triển. Khi thực tiễn thay đổi thì nhận
thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là tri thức đã đạt được trước đây hiện nay vẫn phải kiểm
nghiệm thông qua thực tiễn.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: "Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý
luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp".
3.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Lý luận cũng có thể tác động trở lại thực tiễn theo 2 hướng: kiềm hãm hoạt động thực tiễn
nếu lý luận phản khoa học và thúc đẩy hoạt động thực tiễn nếu lý luận là khoa học. Vai trò của lý
luận khoa học là:
• Lý luận hướng dẫn, soi đường, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người: Lý luận khoa
học thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan,
biến đổi chính thực tiễn và biến đổi chính con người. Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương
pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng
17


đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác
định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp. Ví
dụ CN Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cách mạng Việt Nam.
• Giáo dục, thuyết phục, tập hợp, động viên quần chúng nhân dân cho các phong trào
thực tiễn rộng lớn: Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức
mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự
giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát. Tập
hợp, tổ chức, giác ngộ và phát động phong trào quần chúng đứng lên để làm CM. Nếu không
có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng. Ví dụ cương lĩnh, văn kiện của
Đảng chứa đựng các lý luận khoa học tập hợp lực lượng Liên minh Công-nông-trí và nhân

dân cùng xây dựng CNXH. Lênin cho rằng: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có
phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó
biến thành lực lượng vật chất".
• Lý luận đóng vai trò định hướng dự báo cho hoạt động thực tiễn: để hướng dẫn hoạt
động của con người thật sự tự giác. Nếu không có lý luận KH soi đường, dự báo dự đoán sẽ
dẫn tới hoạt động tự phát, nước đến chân mới nhảy, mất bò mới lo làm chuồng, gió chiều
nào che chiều ấy. Ví dụ dự báo thời tiết, thiên tai, mùa vụ để có biện pháp phòng tránh, canh
tác thích hợp. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những
phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không
đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế,
chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại
ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng:
một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận.
Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội
trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội
nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên
hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết
học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hoặc "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như
một mắt sáng một mắt mờ".
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu
cầu:
• Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, phải bám sát thực tiễn, phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn. Do đó, phải tìm hiểu nhu cầu của thực tiễn ở từng giai của lịch sử. Ví dụ xây dựng

một bệnh viện mới thì phải khảo sát xem tại địa phương thực sự có nhu cầu không, nếu có
thì quy mô cần bảo nhiêu giường bệnh, những chuyên khoa hoặc mảng nào cần được đầu tư
mạnh… Nếu nhận thức không xuất phát từ thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh lý thuyết suông, bệnh
18


lý thuyết suông là việc xây dựng lý thuyết dựa vào chủ quan duy ý chí, không dựa vào nhu
cầu của xã hội, khi đó lý thuyết được xây dựng không áp dụng được vào thực tiễn nào hết.
• Trong hoạt động cần thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi
với hành, tránh bệnh lý thuyết suông, giáo điều (giáo điều sách vở, giáo điều kinh nghiệm).
Nhận thức phải luôn bám sát vào thực tiễn vì thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi không
ngừng, luôn đặt ra nhu cầu khác, việc bám sát sự thay đổi của thực tiễn giúp ta có sự điều
chỉnh lý luận cho phù hợp với tình hình thực tiễn, nếu việc điều chỉnh không được thực hiện
phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh giáo điều.
• Thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận
cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước. Lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng đắn của lý luận. Trong hoạt động
thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (khuynh hướng tư tưởng
và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, coi thường hạ thấp lý luận) và bệnh giáo
điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường hạ thấp kinh
nghiệm thực tiễn hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác,
nước khác không tính tới điều kiện thực tiễn cụ thể của cơ quan, địa phương, ngành mình).
4. Liên hệ công tác bản thân:
Tất cả các hoạt động tại đơn vị phải phù hợp với thực tiễn, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn.
Khi xây dựng kế hoạch hoạt động cho một chương trình thì phải xem xét nhiều khía cạnh: nguồn
lực (nhân lực, vật lực); tính cấp thiết (hoạt động này có cần thiết cho thực tiễn không, nếu có thì
mức độ như thế nào); tính khả thi (liệu việc thực hiện theo kế hoạch là có khả thi trong điều kiện
thực tế).
Khi đánh giá một vấn đề hoặc đọc một báo cáo thì cần xem xét tính hợp lý của vấn đề ứng
với hoàn cảnh cụ thể. Nếu số liệu có những diễn biến bất thường thì cần phải kiểm tra và xác định

lý do. Vì thực tiễn luôn vận động nên khi đánh giá vấn đề cần phải bám sát vào hoàn cảnh lúc đó,
không thể dựa vào kinh nghiệm hoặc kiến thức từ sách vở.
Trong quá trình làm việc thì cần tổng hợp lại các kinh nghiệm ứng với các vấn đề cụ thể để
có thể chia sẽ cùng các đồng nghiệp. Tổng kết các hoạt động đơn vị, những thách thức, thuận lợi,
khó khăn để làm cơ sở lý luận cho việc lên kế hoạch phù hợp cho đơn vị trong năm kế tiếp.
Câu 5’: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại? Liên hệ vận dụng vào công tác
của bản thân?
1. Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất
và ngược lại
1.1. Khái niệm chất và lượng
- Chất là phạm trù triết học chỉ tính qui định khách quan vốn có của các sự vật, hiện tượng; là sự
thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó mà không phải là sự vật khác.
- Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra khi tác động qua
lại với các sự vật khác. Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo
thành chất cơ bản của sự vật. Chất nói lên sự vật là cái gì.
VD: Bản thân con người có rất nhiều thuộc tính, yếu tố khác nhau nhưng nhân cách của mỗi
người là chất căn bản, nếu mất đi thì không còn là người đó nữa.
19


Lượng là phạm trù triết học chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt
qui mô, trình độ phát triển, biểu thị đại lượng con số các thuộc tính, các yếu tố…cấu thành sự
vật. Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng về trình độ, quy mô, nhịp điệu, tốc độ nhanh
hay chậm…VD: trọng lượng, chiều dài, kích thước của cái bàn,…Như vậy lượng là khách quan,
vốn có của sự vật. Đối với những sự vật liên quan đến tình cảm, ý thức, …khi nhận thức lượng
không thể xác định bằng các đại lượng con số mà phải trừu tượng hóa bằng định tính. Ví dụ:
lòng tốt, tình yêu, trình độ giác ngộ của một giai cấp, …
1.2. Vai trò của quy luật: chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng
trên thế giới.

1.3. Phân tích nội dung quy luật
- SVHT nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng trong một giới hạn độ nhất định.
- Trong giới hạn độ, lượng thường xuyên thay đổi. Thay đổi về lượng đến một giới hạn của điểm
nút, khi đó SV sẽ thực hiện bước nhảy để tạo ra sự thay đổi về chất.
- Chất mới ra đời lại quy định cho nó một lượng mới. Quá trình thay đổi về lượng lại tiếp tục diễn
ra đến một độ nhất định khi đó lại làm cho chất mới ra đời, làm cho SV chuyển hóa…
- Cách thức của sự phát triển chính là quá trình chuyển hóa về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
và ngược lại.
Ví dụ, độ của học viên lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính là từ khi nhập học đến trước
khi thi đỗ chính trị. Trong khoảng thời gian đó, học viên có học và thi thêm được các môn học
khác nhưng chất “học viên trung cấp lý luận chính trị hành chính” chưa đổi. Khi học viên trung
cấp lý luận chính trị-hành chính thi đỗ tốt nghiệp, thì sẽ có sự thay đổi về chất diễn ra. Chất “học
viên trung cấp lý luận chính trị-hành chính” đã chuyển sang chất “người có bằng trung cấp lý
luận chính trị-hành chính”. Nghĩa là thời điểm thị đỗ tốt nghiệp của học viên trung cấp lý luận
chính trị-hành chính được gọi là điểm nút của bước chuyển sang “người có bằng trung cấp lý
luận chính trị-hành chính”.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn thay đổi về chất thì phải tự giác tích lũy về lượng. VD: Từ nhân viên muốn lên làm lãnh
đạo phải tích lũy kiến thức, kinh nghiệm,…
- Muốn thay đổi về chất cũng có thể tác động làm thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố
cấu thành SV. VD: Cơ quan, đơn vị muốn tăng chất lượng hoạt động có thể sắp xếp lại bộ máy,
cơ cấu lại nhân sự,…
- Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. VD: NV mới vào làm phải tích lũy kinh
nghiệm => thực hiện bước nhảy dần dần. Nếu NV có kinh nghiệm, uy tín, được mọi người yêu
mến => có thể thực hiện bước nhảy đột biến.
- Nhận thức sự vật phải nhận thức cả chất và lượng của nó.
- Muốn thay đổi chất của sự vật phải có sự thay đổi về lượng, cho nên không được chủ quan,
nóng vội.
- Khi tích lũy về lượng đã đủ, cần thực hiện bước nhảy tránh bảo thủ, trì trệ ngại khó.
- Trong hoạt động thực tiễn cần cần chống “tả khuynh” tức là tuyệt đối hóa bước nhảy về chất

khi chưa tích lũy đủ về lượng. Đồng thời cũng tránh khuynh hướng “hữu khuynh” tức là tuyệt
đối hóa sự tích lũy về lượng, không dám thực hiện bước nhảy về chất khi tích lũy về lượng đã
đủ.
-

20


Muốn giữ vững cho sự vật còn là nó thì phải nhận thức được giới hạn độ của nó và giữ cho sự
thay đổi về lượng không vượt quá giới hạn độ cho phép.
3. Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân
Điều dưỡng là người phải chăm sóc bệnh nhân, nên phải luôn luôn học tập và rèn luyện để nâng cao
chuyên môn và nghiệp vụ (tích lũy về lượng)  cuộc thi điều dưỡng giỏi (điểm nút) -> đạt thành
tích cao trở thành người điều dưỡng giỏi (thay đổi về chất)
-

21



×