Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đề cương thảo luận trung cấp chính trị môn Đường lối chính sách, phần văn hóa 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.22 KB, 14 trang )

CÂU HỎI THẢO LUẬN – HỌC PHẦN VI
ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ
CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
(Phần Văn hóa – Xã hội)
Câu 1) Thông qua mối quan hệ giữa con người và sự phát triển văn hóa, anh chị
hãy cho biết con người Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần hoàn thiện những
giá trị nhân cách văn hóa cốt lõi nào? Vì Sao?
Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình tương tác với hai môi trường tự nhiên và xã hội, được kế thừa,
trao dồi và tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự khác biệt giữa các cộng
đồng, quốc gia, dân tộc. Văn hóa là sự phản ánh bản chất người của con người.
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước, nhấn mạnh vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của chiến lược xây dựng,
phát triển con người. Coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những
khâu đột phá để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm thứ
3 trong số 5 quan điểm của Đảng là phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con
người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm
là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản:
yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt
chẽ, không thể tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn hóa. Về
thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát triển con người là trọng
tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát triển văn
hóa mà sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người là mục đích, mục tiêu của
phát triển văn hóa.
Xây dựng và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn hóa không ở bên ngoài mà ở
trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa mà
chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Cũng phải dùng thực


hành văn hóa mà xây dựng đời sống mới, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân. Không có con người xã hội chủ nghĩa thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội được. Do đó, kiến thiết đất nước, xây dựng nền văn hóa mới phải đi liền với
chiến lược con người, Đảng phải coi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của
Đảng. Do đó, con người Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần phải hoàn thiện những
giá trị nhân cách văn hóa cốt lõi bao gồm yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo (theo quan điểm 3 của Đảng).
Con người Việt Nam phải là những con người yêu nước. Trong xây dựng văn
hóa cần quan tâm thường xuyên việc xây đắp lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Nhờ đặc
điểm này của văn hóa Việt Nam mà chúng ta đã giữ được nước, lấy lại được nước sau
bao nhiêu lần bị kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều đến xâm lược và đô hộ; nhờ đó mà chúng
ta không bị đồng hóa qua một nghìn năm Bắc thuộc. Ngày nay cũng cần phải lấy tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc làm bàn đạp và chỗ dựa để tiến lên, phát triển. Trong
1


thế giới hội nhập, với cuộc tiếp biến văn hóa ở quy mô toàn cầu, chỉ có phát triển mới
tồn tại chính mình – một dân tộc thực sự độc lập.
Con người Việt Nam phải có lòng nhân ái. Trong quá khứ, người Việt Nam đã
biết yêu thương, đùm bọc nhau, nhất là mỗi khi có khó khăn, sóng gió, hoạn nạn. Trong
tương lai, để có một xã hội thật sự tốt đẹp như mong muốn của Bác Hồ, của Đảng và
nhân dân ta, lòng nhân ái cũng sẽ là nền tảng quan trọng nhất cho sự tốt đẹp ấy trong
đời sống xã hội.
Con người Việt Nam phải là những con người sáng tạo. Xưa nay, ta thấy con
người Việt Nam dễ thích nghi, có sáng kiến, nhưng bên cạnh đó lại có mặt bảo thủ, chưa
đi đến cùng trong công cuộc sáng tạo để phát triển. Điểm mạnh nhất của văn hóa Việt
Nam là văn hóa giữ nước. Điểm chưa mạnh là văn hóa phát triển. Thực tế đã kiểm
nghiệm điều đó. Dân tộc ta trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn đã giữ nước rất
kiên cường và thành công; mặt khác, lịch sử Việt Nam không chỉ có chiến tranh mà còn
có nhiều thời kỳ xây dựng hòa bình, nhưng đến nay vẫn là nước chưa phát triển, rất vất

vả trong quá trình phát triển. Từng con người Việt Nam phải phát triển, một dân tộc
Việt Nam phải phát triển, đó là mục tiêu quan trọng nhất của xây dựng văn hóa. Muốn
phát triển được thì phải đổi mới, phải sáng tạo, liên tục, không ngừng, nhất thiết phải
như vậy, không có cách khác.
Văn hóa là những giá trị thật, trong cuộc sống thực. Bệnh hình thức, bệnh thành
tích, sự giả dối không bao giờ tạo ra được các giá trị văn hóa, mà ngược lại nó làm hỏng
văn hóa. Con người Việt Nam phải là những con người trung thực, có tự trọng, biết xấu
hổ với cha ông, với đồng bào đồng chí và với chính mình. Con người Việt Nam yêu
nước, nhân ái, trung thực, sáng tạo… là các đặc tính rất quan trọng đã nêu trong Nghị
quyết Trung ương 9 khóa XI.
Đến nay vấn đề xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam vẫn đang
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con
người ở nước ta. Để thực hiện mục tiêu chiến lược xây dựng văn hoá, con người Việt
Nam phát triển toàn diện hiện nay, Đại hội XII chỉ rõ rằng, phải “đúc kết… hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế” trên các vấn đề cốt lõi: “nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất,
tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”.
Câu 2) Thông qua mối quan hệ giữa môi trường văn hóa và sự phát triển văn hóa,
anh chị hãy chỉ rõ cần phải phát triển đồng bộ các môi trường văn hóa nào trong
bối cảnh của đất nước ta hiện nay? Vì sao?
MTVH là môi trường sống của con người chứa đựng những giá trị văn hóa của
quá khứ và hiện tại, trong đó bao gồm các hoạt động văn hóa của con người: sáng tạo,
phân phối, bảo quản, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. MTVH được tạo nên bởi những
yếu tố mà yếu tố trung tâm chính là con người văn hóa và các quan hệ xã hội của nó.
Xây dựng MTVH là tạo ra những điều kiện để các hoạt động VH diễn ra thường
xuyên, liên tục và đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh và ngày càng tăng lên của nhân
dân. Xây dựng MTVH góp phần tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, an toàn và
bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được bảo đảm.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã xác định xây dựng môi trường
văn hoá (MTVH) vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng nền văn hóa

và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
2


Trong 4 quan điểm phát triển kinh tế - xã hội 2016 – 2020 của văn kiện đại hội
XII xác định phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo
vệ môi trường. Phương hướng, nhiệm vụ là xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Môi trường văn hóa là nơi con người sống và chịu sự tác động của nó trong quá
trình hình thành nhân cách. Xây dựng môi trường văn hóa chính là để xây dựng con
người văn hóa; xây dựng con người văn hóa, có nhân cách, đạo đức, lối sống… sẽ góp
phần làm cho môi trường văn hóa phát triển ngày càng lành mạnh hơn. Môi trường văn
hóa phải được xây dựng đồng bộ, đó là việc tạo dựng môi trường văn hóa trong hệ thống
chính trị, trong cộng đồng dân cư, ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học và mỗi
gia đình. Trong đó việc xây dựng môi trường văn hóa ở gia đình, cộng đồng xã hội rất
cần được xem trọng.
Gia đình là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống
văn hóa cho con người. Gia đình là nơi vừa phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp,
vừa vun đắp cuộc sống no ấm, hòa thuận, hạnh phúc, văn minh. Các mô hình gia đình
văn hóa tiêu biểu, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, yêu thương chăm lo
cho nhau và quan tâm đến cộng đồng…đã có tác động tích cực cần được nhân rộng.
Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục biểu dương những gia đình văn hóa, những tấm gương
hiếu thảo, lao động, vượt khó, sống có trách nhiệm trong cộng đồng. Trong lịch sử phát
triển của nhân loại, gia đình luôn là nhân tố đầu tiên trong việc xã hội hóa và giáo dục
thế hệ trẻ. Vì vậy, giáo dục gia đình gắn liền với những nội dung về giá trị đạo đức, tình
cảm và truyền thống của gia đình. Giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc

hình thành nhân cách con người, đặc biệt là trẻ em.
Các điều kiện sinh hoạt cộng đồng và môi trường xã hội là yếu tố có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển con người, giúp con người hình thành quan điểm giá
trị, nhân văn, giúp con người phát triển tài năng và làm nên thành tựu mới. Ở địa bàn
dân cư, việc triển khai xây dựng khu phố/ấp văn hóa… với các tiêu chuẩn được bổ sung
ngày càng toàn diện, phù hợp thực tiễn như xây dựng, phát triển kinh tế, giữ gìn trật tự
giao thông, trật tự đô thị, làm cho môi trường xanh sạch đẹp, ngăn ngừa tệ nạn xã hội,
phát huy dân chủ, chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật, tương trợ giúp đỡ
nhau…Nếu được chỉ đạo chặt chẽ và có sự hưởng ứng của người dân sẽ làm cho chất
lượng sống được nâng lên, làm cho phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” ngày càng thực chất và có ý nghĩa đối với cộng đồng.
Bên cạnh đó để xây dựng MTVH cần phải có một nền kinh tế phát triển bền
vững, lành mạnh, hiệu quả, trong đó những người lao động được tôn trọng, không bị
phân hóa giàu nghèo bất hợp lý, không bị lợi ích nhóm (theo nghĩa xấu) chi phối, có cơ
chế quản lý tiên tiến, đủ sức hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường. Cần có một nền
chính trị dân chủ thấm đẫm văn hóa “dân là gốc”, nói cách khác là một nền “dân trị”,
trong đó dân thật sự là chủ, làm chủ, quyền lực là của nhân dân, cán bộ là những người
hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, kính trọng và lễ phép với nhân dân; có cơ chế kiểm
soát quyền lực đủ mạnh để hạn chế một cách hiệu quả mặt trái của con ngựa bất kham.
Đó là điểm quan trọng nhất về xây dựng văn hóa chính trị. Không thực hiện thành công
điều đó thì không thể có CNXH hiện thực. Trong nền chính trị ấy, và để xây dựng nền
3


chính trị ấy, cần có Đảng là bộ tham mưu chiến lược, là một Đảng chân chính, trong
sạch, “đạo đức và văn minh”, “trí tuệ, danh dự và lương tâm” như cách nói của Hồ Chí
Minh và Lênin. Môi trường văn hóa tốt đẹp là một môi trường mà khi tiếp cận với nó,
sống trong đó, con người ta sẽ tốt hơn lên, trưởng thành, hoàn thiện và hạnh phúc hơn.
Một nền văn hóa tốt đẹp do con người tạo ra và đến lượt nó sẽ là một môi trường văn
hóa khổng lồ tác động trở lại tạo ra những con người có nhân cách tốt đẹp.

Môi trường xã hội có ý nghĩa trực tiếp tác động đến tính cách con người là giáo
dục. Một khi giáo dục còn nặng kiến thức hàn lâm, ít dạy làm người, ít dạy lao động,
kỹ năng thực hành xã hội và kỹ năng sống… người học sẽ thiếu tự tin, thiếu niềm tin
và động lực phấn đấu. Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng xây dựng môi trường giáo dục
tiên tiến, lành mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc
dân đi”. Giáo sư Trần Văn Giàu cũng đã cảnh báo: Mất nước có thể giành lại, nếu các
giá trị văn hóa bị hủy hoại, bị mai một, bị mất dần đi thì không bao giờ có thể khôi phục
và giành lại được. Muốn văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội phải
coi trọng xây dựng môi trường văn hóa trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ở gia đình,
cộng đồng… Xây dựng các quy chuẩn, hệ giá trị, các quy ước cộng đồng, phải đề cao
việc nêu gương và tuyên truyền những tấm gương tốt.
Câu 3) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước đang
thực hiện nhằm hiện thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục và đào
tạo trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
Đại hội XII của Đảng xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát
triển nguồn nhân lực là một trong những định hướng lớn để hiện thực hóa mục tiêu phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung
quan điểm của Đại hội XII là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về giáo
dục và đào tạo.
1. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực
Đại hội XII của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát, trong đó có nhiệm vụ: “Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Đây
cũng là quan điểm tổng quát, bao trùm của Đảng về giáo dục và đào tạo được xác định
ở tầm đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt
lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục và đào tạo và việc tham
gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học,

ngành học nhằm hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài
hạn phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có
trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
2. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với
những giải pháp đồng bộ”.
4


Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực
quốc gia, là nguồn nhân lực đáp ứng có tiêu chí về chất lượng cao và trình độ cao, đồng
thời là nguồn lực con người được đào tạo và sử dụng có chất lượng, hiệu quả cao với
tổng hợp các phẩm chất về nhân cách (tâm lực), năng lực thực hành (kỹ lực) và thể lực.
Những tiêu chí cơ bản của nhân lực chất lượng cao là văn hóa, văn hóa nghề nghiệp,
đạo đức, nhân cách, trách nhiệm xã hội, ý thức công dân; năng lực tư duy sáng tạo; năng
lực tri thức chuyên môn; năng lực thực hành; kỹ năng mềm, nhất là kỹ năng sống.
3. Giáo dục là quốc sách hàng dầu
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước đã luôn khẳng định giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu
của Nhà nước, được ưu tiên đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội khác. Quốc sách hàng đầu là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu
của Nhà nước, luôn dành được sự quan tâm hàng đầu, ưu tiên đặc biệt của Nhà nước
trong việc tiến hành một loạt các biện pháp và phạm vi thực hiện, nguồn ngân sách chi
cho các chính sách đó. Thực tế cho thấy, tất cả các nước phát triển hàng đầu trên thế
giới, đều là những nước có nền giáo dục hàng đầu và có hệ thống đào tạo tiên tiến, hiện
đại. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo ở các nước này đều ở mức cao, chẳng hạn ở Mỹ,

Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…
4. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài; chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học
Nhiệm vụ của giáo dục là nâng cao trình độ hiểu biết của người dân để họ đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, đào tạo những con người có trình độ,
năng lực lao động để họ có trách nhiệm phát huy năng lực lao động trong sáng tạo ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Đào tạo nhân lực bao gồm đào tạo nguồn lao
động, đào tạo đội ngũ chuyên gia và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý ngang tầm yêu cầu
nhiệm vụ phát triển đất nước. Bồi dưỡng nhân tài để đất nước có những con người tài
giỏi trên nhiều lĩnh vực là động lực quan trọng đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, phát triển bền vững. Bồi dưỡng nhân tài còn là để tạo lợi thế cạnh tranh của đất
nước trên trường quốc tế.
Chuyển mạnh mô hình phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu dựa vào số lượng
và quy mô, vốn là một thành quả của gọi đoạn vừa qua, sang chú trọng chất lượng và
hiệu quả. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Khắc phục lối dạy học “nhồi nhét kiến
thức” không chú ý đến sự phát triển tư duy, năng lực sáng tạo của người học. Học đi
đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.
5. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang phát
triển, sư nghiệp giáo dục và đào tạo cần và có điều hiện để phát triển đáp ứng được yêu
cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Cần nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả những thành
tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào phát triển giáo dục và đào tạo; đồng thời, đổi
mới và phát triển giáo dục và đào tạo cho phù hợp với sự phát triển khoa học và công
nghệ hiện đại.

5



6. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân
“Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào;
sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực” là mục tiêu tổng quát của sự nghiệp phát triển giáo dục và
đào tạo nước nhà trong những năm tới.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đòi hỏi hướng các hoạt động
văn hóa giáo dục đào tạo và các hoạt động khác vào việc xây dụng con người phát triển
về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật; làm
cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người phát triển vô tư hoàn thiện nhân cách;
làm cho yếu tố con người thực sự trở thành nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và
bền vững của đất nước.
7. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn cốt
lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các
chính sách, cơ chế và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục. Đổi mới ở tất cả các
cấp học và trình độ đào tạo ở cả trung ương và địa phương, ở cả mối quan hệ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và
hiệu quả giáo dục đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của
các tầng lớp nhân dân.
Đổi mới phải đảm bảo tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ,
khả thi, có cơ sở khoa học; vừa củng cố, phát huy các thành tựu và điển hình đổi mới,
vừa kiên quyết xử lý những lệch lạc, những việc làm trái quy luật; khắc phục cơ bản
những yếu kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội; phát triển, nhân rộng các nhân
tố tích cực và những mô hình, điển hình mới. Đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ

trình phù hợp với thực tiễn đất nước, địa phương.
8. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Bản chất xã hội học tập là một môi trường giác dục trong đó mọi người đều có
được điều kiện, cơ hội học tập, với thiết chế giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng
với điều kiện học của từng người, từng tổ chức. Xã hội học tập là một môi trường trong
đó mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp xã hội đều tự giác học hành, cả xã hội trở thành
một trường học lớn, mỗi người dân là một học trò với nhu cầu học luôn được đáp ứng.
Xã hội học tập là nơi đào tạo nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng với nhiều trình
độ, nhiều năng lực khác nhau, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập quốc tế
trong một thị trường lao động luôn biến đổi, phát triển dưới sự tác động của tiến bộ
khoa học và công nghệ. Trong xã hội học tập, học là con đường làm tăng trưởng trí tuệ,
giá trị đạo đức, tinh thần, thể chất, thẩm mỹ…; học để làm việc, để sáng tạo, để làm
người, để sống tốt hơn, thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Học trong nhà trường và
học trong cuộc sống xã hội.

6


9. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Đổi mới
căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự
chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”.
Công tác quản lý giáo dục - đào tạo là một yếu tố rất quan trọng đối với việc
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Trong công tác quản lý cần coi trọng quản lý
chất lượng, thực hiện mục tiêu: “Kỷ cương nghiêm - Chất lượng thực - Hiệu quả cao”
trong mọi hoạt động của ngành, từ việc dạy của thầy đến việc học của trò; từ việc quản
lý chuyên môn, nhân sự đến việc quản lý tài chính, cơ sở vật chất, từng bước khắc phục
sự chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các trường học.
10. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo

dục và đào tạo
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo
theo từng cấp học và trình độ đào tạo”.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và
trình độ đào tạo. Đặc biệt coi trọng việc hình thành và phát triển đội ngũ: đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp; mẫu mực,
chuyên môn giỏi, phong cách tốt, tâm huyết và trách nhiệm với nghề. Đối với cán bộ
quản lý giáo dục, phải lựa chọn được những người vừa công tâm, vừa có kiến thức và
tinh thần trách nhiệm cao, những yếu tố tạo nên bản lĩnh của người cán bộ quản lý.
11. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn
xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Đại hội XII của Đảng chỉ ra: “Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự
tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và
đào tạo”.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân
sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú
trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt
động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học
phí.
Đẩy mạnh xã hội hóa trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học;
khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến
khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của
người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo.
12. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ,
đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên
cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản

lý”. Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư nâng
cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo
dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục.
Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục.

7


Câu 4) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước đang
thực hiện nhằm hiện thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển khoa học và
công nghệ trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
1. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu có nghĩa là chủ trương, chính sách
phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa
vào khoa học và công nghệ và thực hiện bằng khoa học công nghệ. Chỉ có phát triển
khoa học công nghệ, chúng ta mới phát triển được kinh tế - xã hội, giữ vững được độc
lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức. Phát triển lực lượng
sản xuất xét đến cùng là tác động vào nhân tố động nhất, cách mạng nhất trong hệ thống
các nhân tố hợp thành của kinh tế - đó là một định đề tất yếu mà lý luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử đã khái quát.
2. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ cần được ưu tiên tập trung đầu tư
trước một bước
Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là
một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các
ngành, các cấp”. Hoạt động khoa học và công nghệ không chỉ là nhiệm vụ của các nhà
khoa học, các nhà quản lý khoa học mà là công việc của mọi ngành, mọi cấp, mọi người.
Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều đòi hỏi phải có nội dung khoa học công nghệ để

nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Phát triển kinh tế - xã hội dựa vào khoa học
và công nghệ, phát triển khoa học và công nghệ định hướng vào thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố tăng cường quốc phòng và an ninh. Bảo đảm sự gắn
kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo; giữa khoa học và công nghệ;
giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật.
3. Phát triển khoa học và công nghệ đạt trình độ tiên tiến trong một số lĩnh vực
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Đến năm 2020, khoa học và
công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến
năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới”.
Mục tiêu này đã khái quát và chỉ rõ ba nội dung trọng tâm về trình độ phát triển
khoa học và công nghệ nước nhà. Trong đó mục tiêu thứ nhất là: Phát triển khoa học và
công nghệ đạt trình độ tiên tiến trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh; phát
triển tiềm lực khoa học và công nghệ đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Mục tiêu thứ hai là: Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Mục tiêu thứ ba là: Hình thành đồng bộ đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ
có trình độ cao, tâm huyết, trung thực, tận tụy.
4. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động, khoa học
và công nghệ
Nội dung, yêu cầu, biện pháp có tính đột phá trong giải pháp này là tập trung ưu
tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ
chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.

8


Vấn đề cần quan tâm là đổi mới cơ chế xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách
đối với hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với đặc thù của lĩnh vực khoa học và
công nghệ và nhu cầu phát triển của quốc gia, ngành, địa phương.

5. Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định là: “Phát huy
và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển
một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công
nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.
Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học
cấp quốc gia theo mô hình tiên tiến của thế giới. Từng bước hình thành và phát triển
viện hoặc trung tâm nghiên cứu tại các vùng kinh tế trọng điểm để phát huy tiềm năng,
lợi thế của từng vùng.
Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ; hỗ trợ các doanh
nghiệp thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển.
6. Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Tăng cường
hợp tác về khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ cao phải là hướng ưu tiên trong hội
nhập quốc tế”.
Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ để tranh thủ nguồn lực và tri thức
của các quốc gia tiên tiến; đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ nghiên
cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng và cùng có lợi trong thời
gian dài hạn. Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao,
phải là hướng ưu tiên trong hợp tác quốc tế.
Câu 5) Vai trò của chính sách xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện
nay? Trong các chính sách xã hội cần thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cấp
bách hiện nay, theo anh chị chính sách nào là chìa khóa then chốt? Vì sao?
Chính sách xã hội là chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội của đời sống
con người, bao hàm cả việc giải quyết các khía cạnh xã hội trong quá trình sản xuất,
trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, trong lĩnh vực kinh tế.
Chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của sự phát triển xã hội nếu đó là những
chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc công bằng, dân chủ và nhân đạo. Trong
sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng với đổi mới tư
duy về kinh tế, Đảng từng bước đổi mới việc thực hiện chính sách xã hội với chủ trương

tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Hơn 20 năm thực hiện
đường lối đổi mới, những thành tựu về xã hội và con người là minh chứng hùng hồn
cho năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính sách xã hội.
Trước hết, trong giải quyết việc làm cho người lao động:
Việc làm là vấn đề mang tầm chiến lược quốc gia, đảm bảo cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản của Đảng
và Nhà nước ta, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội, các doanh nghiệp, của mỗi người lao động. Quan điểm giải quyết việc làm
của Đảng được thể chế hoá bằng pháp luật: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi
người có khả năng lao động, đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước,
của các doanh nghiệp và toàn xã hội”. Theo đó, Đảng và Chính phủ đã đề ra nhiều chủ
trương, chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội có tác động trực tiếp đến

9


việc tạo và giải quyết việc làm cho người lao động, coi giải quyết việc làm vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Thứ hai, trong lãnh đạo thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo
Đói nghèo là vấn đề kinh tế, xã hội sâu sắc, xoá đói, giảm nghèo là một trong
những vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài, là một chính sách quan trọng của Đảng
và Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt từ năm
1986, khởi đầu công cuộc đổi mới, một mặt Đảng khuyến khích mọi người trong các
thành phần kinh tế làm giàu hợp pháp, mặt khác tích cực chỉ đạo thực hiện xoá đói,
giảm nghèo trong cả nước.
Thứ ba, trong lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công
Chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý của dân tộc
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy, từ trước tới nay, trong

bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước cũng luôn luôn xác định chính sách đối với
thương binh, liệt sĩ và người có công với Tổ quốc là một trong những chính sách lớn có
vị trí rất quan trọng trong chiến lược con người. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, Đảng
và Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với
thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Thứ tư, trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được Đảng chú trọng nên đạt kết quả tốt,
góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5
tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công
bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Mạng lưới y tế được mở rộng, đặc biệt là y tế cơ
sở. Việc phòng, chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy
dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới 25% năm 2005… Tuổi thọ bình quân
của dân số nước ta từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 67,8 năm 2000, 71,5 tuổi năm 2005 và
72 tuổi năm 2007.
Thứ năm, trong thực hiện chính sách an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc
gia hướng vào bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã hội trong các trường
hợp rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc bị mất thu nhập, hoặc phải tăng chi phí đột xuất do
nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là “rủi ro xã hội”.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm phát
triển hệ thống an sinh xã hội với những chính sách cụ thể nhằm phòng ngừa và khắc
phục rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác cho mọi người, không ngừng
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thực hiện chính sách an sinh xã hội phù
hợp với kinh tế thị trường, tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận các chính sách an sinh xã
hội, nhất là bảo hiểm xã hội (bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự
nguyện, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp), giảm nghèo và hoà nhập xã hội nhóm
yếu thế (trợ giúp xã hội) …, chính là thực hiện công bằng xã hội, hướng vào phát triển
con người, tạo động lực tăng trưởng và phát triển bền vững, đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đầu tư cho chính sách an sinh xã hội cũng chính là đầu tư cho con người,
đầu tư cho phát triển.

Chính sách xóa đói giảm nghèo là chìa khóa then chốt trong việc giải quyết các vấn
đề xã hội mang tính cấp bách hiện nay ở nước ta?
10


Ngày nay đói nghèo đang trở thành một vấn đề cấp bách không chỉ riêng của việt
nam mà còn của nhiều quốc trong khu vực và trên toàn thế giới. Muốn thực hiện phát
triển bền vững không thể không giải quyết vấn đề đói nghèo.
Dưới tác động của công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế- cũng như những tiến bộ
khoa học, kỷ thuật, công nghệ, nền kinh tế nước ta đã đạt được sự tăng trưởng tương
đối cao và khá ổn định. Tuy nhiên, do quy mô dân số lớn, nhịp độ gia tăng dân số nhanh,
sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động phân theo ngành
kinh tế (42,2% năm 2016 so với 24,4% công nghiệp và 33,4% dịch vụ nguồn TCTK), trình
độ sản xuất thấp, năng xuất lao động và thu nhập chưa cao, vì vậy Việt nam về cơ bản
vẫn thuộc nhóm nước nghèo của thế giới (tỷ trọng GDP của nông nghiệp năm 2016
chiếm 16,3% so với 32,7% của công nghiệp và 40,9% dịch vụ).
Hiện tại vẫn còn khoảng 6.7% hộ nghèo (1.642.489 hộ - 862/QĐ-LĐTBXN
4/7/2018), 5.32% cận nghèo (1.304.680 hộ). Thu nhập bình quân trên đầu người thấp
(2.385$ năm 2017). Người nghèo sống tập trung chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn (12,09% vùng núi Tây Bắc, 9.15% Bắc Trung Bộ, 9,07% vùng núi
Đông Bắc, 8.07% Tây Nguyên, 6.52% duyên hải miền trung, 5.6% đồng bằng sông Cửu
Long, 2.86% ĐB sông Hồng và 0.79% Đông Nam Bộ).
Giảm nghèo bề n vững là một trong những biện pháp cơ bản để bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xóa đói,
giảm nghèo vừa nâng cao chấ t lươ ̣ng nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc; vừa góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; giảm bớt chênh lệch
thu nhâ ̣p giữa các nhóm dân cư; vừa thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang hướng tới, dù mới chỉ ở thời kỳ quá độ.
Câu 6) Từ lý luận dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, anh (chị) hãy phân tích
những quan điểm của Đảng về công tác dân tộc? Chính sách dân tộc trong giai

đoạn hiện nay cần tập trung hướng đến giải quyết những vấn đề cốt lõi nào? Vì
sao?
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mac-Lenin (SGK vàng trang 226)
Tình hình dân tộc ở nước ta hiện nay (SGK vàng trang 228)
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số chiếm 14%
dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới), cùng cư
trú, tồn tại và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam, đã sớm hình thành các đặc điểm cơ
bản:
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam chung sống đoàn kết, hoà hợp
Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng
đều, nhưng không có sự phân chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng,
phong phú, thống nhất; Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc
biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái
Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình trạng du canh,
du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến phức tạp. Tỉ lệ hộ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi cao hơn so với bình quân chung cả nước, khoảng cách chênh lệch về
mức sống, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, giữa các vùng ngày
càng gia tăng; chất lượng, hiệu quả về giáo dục đào tạo còn thấp, công tác chăm sóc sức
khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn, một số bản sắc tốt đẹp trong
11


văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị mai một, một số tập quán lạc hậu, mê tín dị
đoan có xu hướng phát triển.
Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu,
tỉ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học thấp.
Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống, trình
độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong thực hiện

chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, phá
hoại truyền thống đoàn kết và thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, gây mất
ổn định chính trị, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
nước ta. Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là
vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới đất nước. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định
kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với
lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã
hội.
Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong
giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở
trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh - quốc phòng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh làm điểm tương đồng; tập hợp, đoàn kết mọi người vào một mặt trận chung,
tăng cường đối thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn

trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Luôn tôn trọng lẫn nhau về lợi ích, truyền thống, văn
hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc; dân tộc có trình độ phát triển cao
phải có trách nhiệm giúp đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp, vùng kinh tế - xã hội
phát triển phải giúp đỡ vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhằm đảm bảo các dân
tộc có điều kiện phát triển toàn diện, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả nước.
Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc; tránh tư tưởng kỳ thị
dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương và tương trợ của dân tộc
khác.

12


Năm quan điểm nêu trên vừa cơ bản, vừa có giá trị lâu dài trong công tác dân tộc
ở nước ta, đòi hỏi phải nắm vững và quán triệt thực hiện chặt chẽ, nhất quán trong giải
quyết vấn đề dân tộc, nhất là các cơ sở có nhiều dân tộc thiểu số.
Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách dân tộc,
đoàn kết dân tộc như sau:
Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới.
Giúp đồng bào các dân tộc khắc phục tình trạng thiếu đất sản xuất, nhà ở tạm bợ, thiếu
nước sinh hoạt, nâng cấp cơ sở hạ tầng, định canh, định cư, xây dựng khu kinh tế mới
ở khu vực biên giới, xoá nghèo nhanh và bền vững.
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng dân
tộc thiểu số. Kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng,
đẩy mạnh phát triển đảng viên; nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của bộ máy chính
quyền các cấp, vai trò tập hợp quần chúng của mặt trận và các đoàn thể. Kiên quyết
khắc phục tình trạng cán bộ quan liêu, xa dân; thực hiện tốt phương châm “gần dân,
hiểu dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững
chắc ở vùng các dân tộc thiểu số, phát huy sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng đập tan mọi âm

mưu và hành động lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch; tăng cường công
tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm nóng” trên
các địa bàn chiến lược, trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thực hiện tốt
chủ trương xây dựng phát triển các khu kinh tế - quốc phòng ở khu vực biên giới.
Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối
với các vùng, các dân tộc để động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường,
tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng
chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng đời sống ở khu dân
cư, xây dựng bản làng văn hoá.
Câu 7) Vì sao tôn giáo còn tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội? Để bảo đảm thực hiện
tốt chính sách tôn giáo, chúng ta cần tuân thủ những nguyên tắc nào?
Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế
độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự
nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được.
Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu
vào trong tiềm thức của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là
một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu
vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận
nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không
thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính
trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những
biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm
còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ
13



nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã hội
của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng nhiều vào
các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có
đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã
hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo
trong cuộc sống của mỗi người dân.
Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ
quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích
khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con
người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã
làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở
một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý
thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát
huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt
khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư,
và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như một hiện tượng xã hội khách quan.
Nguyên tắc của chính sách đối với tôn giáo (Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Vấn đề tôn giáo và chính
sách tôn giáo” được ban hành kèm theo Hướng dẫn số 43-HD/BTGTW ngày 01 tháng 9 năm 2017 của Ban Tuyên giáo Trung
ương)

Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo cũng như giữa các
tôn giáo khác nhau.

Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân.
Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ hiến pháp
và pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ
gìn độc lập chủ quyền quốc gia.
Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của tôn giáo được tôn trọng và phát huy.
Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo làm mất trật tự an toàn xã hội, phương
hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức lối sống, văn hóa
của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân đều bị
xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín dị đoan bị phê phán và loại bỏ.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ
chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần
chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

14



×