Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.51 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG TRÂN CHÂU

GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
:
834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HỒ VIỆT HẠNH

HÀ NỘI, Năm 2018
1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết
định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Chất lượng này phụ thuộc vào
đào tạo nghề. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI khi đánh
giá về giáo dục và đào tạo (trong đó có đào tạo nghề) nhấn mạnh những hạn


chế yếu kém của công tác này, đó là “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn
còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Hiện
nay hầu hết các chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học cũ, chưa có
đổi mới; đào tạo không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất
lượng giáo dục giảm, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0.
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng khẳng định trong ba
đột phá chiến lược phát triển trong những năm tới của Việt Nam là cải cách
hành chính, xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước khi nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực có ý nghĩa quan trọng, quyết định.
Đào tạo nghề cho thanh niên nói đang là vấn đề xã hội mà các quốc gia
đều quan tâm. Chính sách đào tạo nghề là chính sách lớn, có ý nghĩa là đòn
bẩy đối với mỗi nền kinh tế. Có thể nói, hiệu quả của việc đào tạo nghề gắn
liền với sự quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam,
vấn đề đào tạo nghề cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Trong chiến lược

2


nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung thì nguồn lực ở độ tuổi thanh
niên có vai trò và giữ vị trí trung tâm. Bước sang thế kỷ XXI, với những cơ
hội và thách thức, trên cơ sở nhìn nhận sâu sắc những ưu điểm và những biểu
hiện phức tạp của thanh niên hiện nay, Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng đã
xác định đối với thế hệ trẻ cần phải “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống, văn hóa, sức
khỏe, nghề nghiệp giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo,

phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quận Ngũ Hành Sơn là một trong các quận nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm của thành phố Đà Nẵng, là miền đất đầy tiềm năng về phát triển
kinh tế. Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển của cả thành
phố, quận Ngũ Hành Sơn có những bước chuyển mạnh mẽ về nhiều mặt, đặc
biệt là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt nhiều thành tựu quan trọng thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội, chính trị ổn định. Trong những thành tựu đó có
vấn đề đào tạo cho người lao động nói chung, thanh niên nói riêng.

Tuy nhiên, hiện nay công tác đào tạo nghề cho thanh niên còn nhiều
bất cập và khó khăn, thiếu định hướng ngành nghề cụ thể, khó khăn trong tiếp
cận việc làm, quan hệ cung cầu trong thị trường lao động cho thanh niên đang
mất cân đối... luôn được xã hội quan tâm. Do thị trường việc làm tại địa
phương còn nhiều yếu kém và nếu tiếp tục ở lại địa phương thì sẽ thất nghiệp
và thiếu việc nên phần lớn thanh niên trên địa bàn đã rời quê hương đi làm ăn

xa, nguyên nhân là do quá trình thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp nhằm thực hiện công tác giải tỏa mặt bằng, phục vụ
các dự án về hạ tầng, dân sinh trên địa bàn và các nhà máy, xí nghiệp hiện
nay đang đầu tư, áp dụng các công nghệ kỹ thuật, công nghệ thông tin tiên
tiến nên sử dụng ít lao động; bên cạnh đó là trình độ học vấn; kỹ năng nghề
nghiệp, và tác phong, ý thức kỷ luật còn có nhiều bất cập chưa đáp ứng các
3


điều kiện của doanh nghiệp. Mặt khác, một bộ phận thanh niên ở địa phương
này không có việc làm do trình độ học vấn và tay nghề chuyên môn còn thấp,
chưa thực sự thay đổi suy nghĩ, tập quán sống, chưa thích ứng với yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong khi đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn chưa coi

thanh niên trong xã là lực lượng lao động chủ chốt, nên chưa nhiệt tình và tin
cậy để phổ biến nghề mới, đào tạo nghề, tư vấn nghề và hỗ trợ các kỹ năng
nghề cho thanh niên còn hạn chế. Do đó, tỷ lệ thiếu việc làm và tình trạng
thất nghiệp của thanh niên có xu hướng ngày càng tăng, mức thu nhập thấp
đã dẫn tới con đường thanh niên phải tự tìm kiếm việc làm mới, không ít
trường hợp bị lừa gạt hoặc phải làm những công việc ở mức lương thấp hoặc
những việc làm trái với pháp luật, đạo đức của xã hội: mại dâm, trộm cắp,
cướp giật, lừa đảo, buôn bán ma túy mà mục đích chỉ vì cuộc sống sinh tồn
thiếu việc làm và thất nghiệp. Như vậy, căn cứ vào những cơ sở trên, rõ ràng
rằng đào tạo nghề giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng đang kéo theo hàng loạt những vấn đề xã hội cấp bách
cần được giải quyết
Xuất phát từ nhận định trên, Tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề

tài “Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh ni ên trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” là yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính
sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu cho thấy những vấn đề liên quan đến đào
tạo nghề, giải quyết việc làm… đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau. ..ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau:
Tác giả Phan Chính Thức đã nghiên cứu về “Những giải pháp phát
4


triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong đó có đề xuất những khái niệm, cơ sở lý luận
mới của đào tạo nghề, về lịch sử đào tạo nghề và giải pháp phát triển đào tạo
nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Viết Sự trong công trình về “Giáo dục nghề nghiệp –
những vấn đề và giải pháp”, đã phân tích, làm rõ những quy định về phát
triển nghề nghiệp, hoạt động giáo dục nghề nghiệp... qua đó, tác giả đã tìm ra
được những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trên, đề đề xuất các
giải pháp hữu hiệu cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Nhóm tác giả Mạc Văn Tiến, Đỗ Minh Cương với tác phẩm: Phát
triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, đã hệ thống hóa
các vấn đề liên quan đến phát triển thị trường lao động kỹ thuật, những nội
dung được đề cập trong nghiên cứu là những vấn đề cần thiết, cấp bách về
công tác giáo dục nghề nghiệp, đồng thời tác giả cũng đánh giá đối tượng lao
động kỹ thuật cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để đảm bảo hiệu quả đầu
tư cho giáo dục và dạy nghề. Đổi mới chương trình giảng dạy, tăng cường
đầu tư thiết bị, công nghệ phù hợp với thiết bị, công nghệ của sản xuất, nâng
cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên;

Nhìn chung, những công trình và bài viết nói trên đã tiếp cận nghiên
cứu vấn đề đào tạo nghề, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến người lao
động nói chung và đến vấn đề việc làm, tạo việc làm cho thanh niên ở nhiều
góc độ, nhiều địa phương vấn đề tác động của nhiều lĩnh vực khác nhau và
gợi mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới rất bổ ích.
Hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu nội
dung đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn , thành
phố Đà Nẵng. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã học tập kết hợp và chọn
5


lọc những vấn đề được nghiên cứu của các công trình khoa học đã có, vận
dụng các hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm vốn có của bản thân đã và đang
công tác trong lĩnh vực có liên quan đến đào tạo cho thanh niên , tác giả đã

khảo sát tình hình lao động thanh niên trên địa bàn toàn quận, từ đó rút ra bài
học và kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề

cho thanh niên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam để có cơ sở khoa học đánh giá thực
trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên quận Ngũ Hành Sơn
và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho thanh niên ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ tổng hợp những vấn đề lý luận chung về chính
sách đào tạo nghề cho thanh niên.
Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho th anh niên
tại quận Ngũ Hành Sơn,Thành phố Đà Nẵng
Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện đào tạo nghề cho thanh niên ở Quận Ngũ Hành Sơn nói riêng và
Thành phố Đà Nẵng nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam, cụ thể là nghiên
cứu giải pháp và công cụ chính sách đào tạo nghề cho thanh niên dưới góc độ
6


khoa học chính sách công.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.

Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến nay và đề ra
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
thanh niên ở nước ta trong thời gian tới.
Thời gian: Tháng 6 - 8.2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước... về đào tạo nghề cho thanh

niên
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
khái quát hóa các tài liệu sẵn có từ các nguồn tài liệu chính thức, từ các công
trình nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trước đây, các bài viết, tạp chí,

sách báo, internet,.. từ các báo cáo của cơ quan chức năng Quận Ngũ Hành
Sơn về các vấn đề có liên quan đến đào tạo nghề cho thanh niên ; nghiên cứu
chính sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Ý nghĩa lý luận của luận văn thể hiện ở chỗ các kết quả, kết luận rút ra
từ việc nghiên cứu đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề
lý luận về thực hiện chính sách công, thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
7



thanh niên ở Việt Nam nói chung và quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thể hiện ở chỗ đã đề xuất các giải pháp thiết thực, các kinh nghiệm
góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
thanh niên tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách đào tạo nghề cho thanh

niên.
Chương 2: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên từ thực
tiễn tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách đào
tạo nghề cho thanh niên ở nước ta hiện nay.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐẠO TẠO NGHỀ

CHO THANH NIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm đào tạo nghề

1.1.1. Khái niệm Nghề
Có khá nhiều diễn đạt về khái niệm nghề. Theo tác giả hiểu “Nghề là
một hình thức được thể hiện bằng những kiến thức lý thuyết đã học và thực
hành để hoàn thành những công việc nhất định.


Ngoài ra “Nghề”còn là một hoạt động lao động trong đó, khi được
đào tạo, người học có được kiến thức, kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm
đáp ứng được nhu cầu của con người.
Danh mục về diễn giải khái niệm nghề có thể rất dài, nhưng tựu trung
lại, nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc.
Nghề nghiệp như một cơ thể sống, có sinh trưởng có phát triển và chết đi.
Bên cạnh đó, rất nhiều nghề đã có thời kỳ gần như không thể thiếu trong đời
sống xã hội trước đây nay đã mất đi, từ những nghề hoàn toàn thủ công, lao
động chân tay (như nghề đóng cối xay lúa tồn tại hàng vài thế kỷ, nhưng khi
máy xay sát được đưa vào hoạt động thì nghề này không còn nữa) hoặc sử
dụng công nghệ ở trình độ thấp (như nghề trực tổng đài điện thoại tại các cơ
quan để nối đến các máy lẻ đã mất đi nhiều năm nay khi công nghệ viễn
thông phát triển).
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn khác nhau. Mỗi chuyên môn là kiến
thức, kỹ nẵng trong một lĩnh vực cụ thể và nhất định, nó được hiểu như là
một lĩnh vực lao động sản xuất nhỏ hẹp, con người bằng năng lực thể chất và
tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công
cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh
9


vẽ…)
Từ các cách hiểu trên cho thấy nghề là kết quả của sự phân công l ao
động xã hội, xã hội phát triển thì ngành nghề cũng thay đổi theo.Và dưới góc
độ đào tạo, nghề là toàn bộ các kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm
nghề nghiệp và các phẩm chất khác.
Muốn trở thành một nghề thì ít nhất cũng phải trải qua đào tạo, ch o dù
là đào tạo dài hạn, bài bản; hoặc hướng dẫn kèm cặp. Xuất phát từ quan niệm
như vậy, có tác giả phân loại nghề thành hai nhóm là nghề qua đào tạo và

nghề xã hội. Nghề đào tạo là nghề mà muốn nắm vững nó, con người phải có
trình độ văn hóa nhất định, được đào tạo hệ thống, bằng nhiều hình thức và
được nhận bằng hoặc chứng chỉ. Các nghề được đào tạo được phân biệt với
nhau qua các yêu cầu về nội dung chương trình, mức độ chuyên môn và thời
gian cần thiết để đào tạo. Nghề xã hội là nghề được hình thành một cách tự
phát theo nhu cầu của đời sống xã hội, thường được đào tạo với các chương
trình đào tạo ngắn hạn, cũng có thể thực hiện thông qua hướng dẫn, kèm cặp
hoặc truyền nghề.
Trong hệ thống nghề đào tạo có hai dạng: đào tạo lao động kỹ thuật hệ
thực hành và đào tạo lao động chuyên môn, hệ kiến thức hàn lâm.
Lao động chuyên môn, hệ kiến thức hàn lâm bao gồm chủ yếu là lao
động qua đào tạo ở cấp trình độ đại học, sau đại học, đào tạo thuộc hệ đào tạo
nặng hơn về kiến thức hàn lâm, kiến thức lý thuyết và làm các công việc như:
nghiên cứu khoa học, phân tích – thống kê kinh tế, giảng viên các trường đại
học (không bao gồm các giảng viên kỹ thuật hệ thực hành), nhà quản lý,
chuyên gia thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau…
Lao động kỹ thuật hệ thực hành là lao động đã được đào tạo qua các
cấp trình độ nghề kỹ thuật (dạy nghề), trung cấp kỹ thuật, cao đẳng kỹ thuật

10


Luận văn đầy đủ ở file: Luận văn Full

















×