Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRIỆU THỊ THANH HƯƠNG

NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
LƯU TƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRIỆU THỊ THANH HƯƠNG

NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
LƯU TƯƠNG
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. DƯƠNG THU HẰNG

THÁI NGUYÊN - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Nghiên cứu truyện thơ Nôm
Tày Lưu Tương” dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Dương Thu Hằng là kết quả
nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn

Triệu Thị Thanh Hương

i


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam được hoàn thành tại Đại học
Sư phạm Thái Nguyên. Có được luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc tới PGS.TS. Dương Thu Hằng, người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp
đỡ tôi với những chỉ dẫn khoa học quý báu trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn “Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương”.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên,
Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên, Trung tâm học liệu - Đại học Thái Nguyên, Thư viện Quốc
gia Việt Nam đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt
những kiến thức khoa học chuyên ngành Văn học Việt Nam cho bản thân tôi trong
thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi
trong thời gian thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh nhất
song do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi

những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô
giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 7 năm 2018

ii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 1
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 10
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 10
7. Bố cục của luận văn ....................................................................................... 11
NỘI DUNG ....................................................................................................... 12
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA
TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM LƯU TƯƠNG ................................ 12
1.1.

Khái quát về văn hóa Tày ...................................................................... 12

1.1.1. Đặc điểm tự nhiên ................................................................................. 12
1.1.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội ..................................................................... 13

1.2.

Truyện thơ Nôm Tày ............................................................................. 17

1.2.1. Khái quát chung..................................................................................... 17
1.2.2. Quá trình phát triển của truyện thơ Nôm Tày ....................................... 20
1.3.

Truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương .......................................................... 21

1.3.1. Vấn đề văn bản ...................................................................................... 21
1.3.2. Tóm tắt cốt truyện ................................................................................. 27
Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
LƯU TƯƠNG ....................................................................................... 30
2.1.

Ca ngợi tài trí và sức mạnh của người anh hùng ................................... 30

2.1.1. Ca ngợi tài trí của người anh hùng ........................................................ 30

iii


2.1.2. Ca ngợi sức mạnh của người anh hùng ................................................. 34
2.2.

Lưu giữ giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc Tày ........... 39

2.2.1. Niềm tin vào mẹ Hoa............................................................................. 39
2.2.2. Niềm tin vào thế giới siêu hình ............................................................. 41

2.2.3. Truyền thống sống tương thân, tương ái ............................................... 45
2.3.

Quan niệm tình yêu và hạnh phúc lứa đôi bao dung, phóng khoáng ......... 50

2.3.1. Tình yêu vượt không gian, thời gian với công chúa Long cung ................ 50
2.3.2. Tình yêu ân nghĩa nơi trần thế với công chúa con vua Sở......................... 54
Chương 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
LƯU TƯƠNG ......................................................................................... 58

3.1.

Kết cấu ................................................................................................... 58

3.1.1. Mở lời - một sáng tạo mới ..................................................................... 59
3.1.2. Truyện lồng truyện ................................................................................ 60
3.1.3. Sự kết hợp tự sự - trữ tình ..................................................................... 64
3.2.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật............................................................... 71

3.2.1. Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương ................... 71
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.... 73
3.3.

Ngôn ngữ dân tộc Tày qua truyện thơ Nôm Lưu Tương....................... 80

3.3.1. Hệ thống từ ngữ, hình ảnh mang đậm bản sắc văn hóa Tày ................. 80
3.3.2. Sự hòa điệu giữa tiếng Tày và tiếng Kinh ............................................. 87
KẾT LUẬN....................................................................................................... 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 96

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc Tày, truyện thơ Nôm Tày là thể
loại xuất hiện khá muộn nhưng để lại giá trị quan trọng cần được bảo lưu và trao
truyền cho thế hệ sau. Trước nguy cơ mai một những nét đẹp văn hóa truyền thống
trong thời kỳ hội nhập, việc sưu tầm, phục dựng, công bố và nghiên cứu, giới thiệu
các truyện thơ Nôm Tày còn đang lưu truyền và có nguy cơ thất lạc là một việc
làm có ý nghĩa.
Văn bản truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương do Nông Phúc Tước và Bế Sĩ Uông
sưu tầm, biên dịch (NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2013) là một trong những tác
phẩm thể hiện được sự đam mê, yêu thích và trách nhiệm đối với vốn di sản truyền
thống của các trí thức Tày hiện đại. Trải qua rất nhiều thử thách, khó khăn, các tác
giả đã quyết tâm hoàn thiện được tác phẩm để giới thiệu tới người đọc. Giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm này nếu được làm rõ sẽ góp phần
khẳng định rõ hơn vị trí của thể loại độc đáo trong kho tàng văn học, văn hóa Tày.
Là một người con dân tộc Tày của quê hương Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn - nơi
đã lưu truyền truyện thơ Nôm Lưu Tương, chúng tôi mong muốn góp phần giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc nghiên cứu và giới thiệu tác
phẩm đến đông đảo bạn đọc. Đặc biệt chúng tôi hy vọng có thể giới thiệu tác
phẩm này cho giáo viên và học sinh các trường phổ thông trong các giờ dạy văn
học địa phương trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu
truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về truyện thơ

Năm 1983, tác giả Võ Quang Nhơn trong cuốn Văn học dân gian các dân tộc
ít người ở Việt Nam [35] đã đánh giá cao vị trí của truyện thơ Nôm trong văn học
dân tộc các dân tộc ít người ở Việt Nam. Sách gồm bảy chương, trong đó ông đã
dành hẳn một chương để nói về truyện thơ - thể loại được coi là “một dấu nối

1


giữa văn học truyền miệng và văn học thành văn” và “sự phân biệt giàu nghèo và
theo đó là sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp” là một trong những tiền đề
để truyện thơ ra đời [35, tr.393]. Về đề tài của truyện thơ, tác giả cho rằng chúng
rất phong phú, “chúng đề cập đến nhiều mặt trong hiện thực xã hội của các dân
tộc anh em: hoặc thân phận những đứa trẻ mồ côi; hoặc cuộc sống cực nhục của
những người lao động nghèo khổ; hoặc khát vọng lập công cứu nước trả thù nhà
của các chàng trai; hoặc các mốc lịch sử lớn trong đời sống các dân tộc... Đặc
biệt là đề tài về cuộc đấu tranh cho tự do yêu đương, cho quyền sống của người
phụ nữ trong lòng xã hội cũ là một đề tài khá phổ biến. Đó là khát vọng dân chủ
thiết tha, mãnh liệt của quần chúng trong lòng xã hội phong kiến mà quyền sống
con người bị chà đạp, bóp nghẹt nặng nề, được phản ánh vào trong nền văn học
truyền thống các dân tộc anh em” [35, tr.395-396].
Trên Tạp chí văn học năm 1997, số 7, Lê Trường Phát có bài viết “Về mô
hình cốt truyện của truyện thơ các dân tộc thiểu số” [39]. Tác giả nhận xét: Ở
truyện thơ Nôm của người Việt “mọi người hầu như đã nhất trí rằng phần lớn cốt
truyện của thể loại này được xây dựng theo mô hình “kết thúc có hậu” gồm ba
chặng: Gặp gỡ - Tai biến - Đoàn tụ. Nói “phần lớn” bởi lẽ mô hình cốt truyện này
chỉ áp dụng với những tác phẩm mà đề tài chủ đạo là tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên,
đây là đề tài chủ yếu, cơ bản của thể loại” [39, tr.52]. Ở truyện thơ các dân tộc
thiểu số, với 20 tác phẩm (của 05 dân tộc: Tày, Thái, Mường, H’mông, Chăm) đã
được dịch sang tiếng Việt tính đến năm 1997, Lê Trường Phát nhận thấy loại tác
phẩm thể hiện đề tài tình yêu có kết thúc bi kịch (kết thúc không có hậu) chiếm số

lượng áp đảo. Trong số 20 tác phẩm có tới 13 tác phẩm thuộc kiểu kết thúc bi
kịch. Ông khẳng định: Ở truyện thơ các dân tộc thiểu số, “kiểu kết thúc bi kịch
mới phổ biến và tiêu biểu” [39, tr.54]. Nhưng “riêng ở nhóm truyện thơ Tày Nùng, tình hình ngược lại: kiểu “kết thúc có hậu” chiếm tỉ lệ lấn át” [39, tr.54]. Sở
dĩ có hiện tượng này, “chính là do vai trò tham gia sáng tạo tác phẩm của các
Nho sĩ, thầy đồ người Việt miền xuôi lên; họ mang theo ảnh hưởng của truyện
Nôm Việt vào truyện thơ Tày - Nùng. “Kết thúc có hậu” là một cách để dân gian

2


tấn công (tất nhiên trong mơ ước) vào lễ giáo phong kiến (mà thực chất là tín điều
Nho giáo) trong lĩnh vực tình yêu và hôn nhân” [39, tr.54].
Tác giả Phan Đăng Nhật, năm 2004 có bài Truyện thơ, in trong cuốn sách
Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại của Vũ Anh
Tuấn [57]. Khi phân loại truyện thơ, ông đưa ra hai tiêu chí phân loại: Phân loại
truyện thơ theo phương thức diễn xướng, nguồn gốc tác phẩm. Truyện thơ được
chia làm 04 nhóm:
- Nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình thơ ca dân gian các dân tộc.
- Nhóm truyện thơ thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức của truyện
thơ Nôm Kinh.
Phân loại truyện thơ theo tiêu chí đề tài, theo cách này, truyện thơ được ông
chia làm 03 loại:
- Truyện thơ về tình yêu.
- Truyện thơ về người nghèo khổ.
- Truyện thơ về chính nghĩa.
Về vấn đề hình thành truyện thơ, Phan Đăng Nhật cho rằng “truyện thơ ra
đời do nhu cầu lịch sử - xã hội của thời đại của nó. Lúc bấy giờ trong xã hội các
dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa tình yêu chân

chính của đôi lứa với đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng nhiều khi tàn bạo của gia đình và
xã hội; mâu thuẫn giữa kẻ nghèo khó và kẻ giàu sang; mâu thuẫn giữa chính
nghĩa và phi nghĩa. Lúc này vấn đề thân phận của con người được đặt ra và đòi
hỏi phải đáp ứng thoả đáng” [57, tr.401].
2.2. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu về truyện thơ Tày
Đầu tiên, chúng ta biết đến 08 tác phẩm truyện thơ Tày (truyện Nam Kim Thị Đan, Lưu Đài - Hán Xuân, Kim Quế, Chim sáo, Trần Châu, Đính Quân,
Quảng Tân - Ngọc Lương, Vượt biển) trong bài “Mấy ý nghĩ về truyện thơ cổ Tày
- Nùng”, viết giới thiệu cho hai tập Truyện thơ Tày - Nùng, xuất bản năm 1964, do

3


nhà thơ Nông Quốc Chấn giới thiệu [11]. Bài viết đã có những nhận xét quan
trọng về những nét đặc biệt trong nền văn học cổ điển Tày - Nùng, về hai nội dung
chính của tám truyện thơ trên (một là, tính cách anh hùng, chí khí dũng cảm, tinh
thần vượt mọi khó khăn gian khổ để vươn lên tới đích; hai là, thiết tha với quyền
sống con người lao động, yêu quý chính nghĩa và điều thiện, căm thù phi nghĩa và
tội ác, về những yếu tố tiêu cực (triết lý duy tâm không tưởng và tính giai cấp mơ
hồ). Ngoài ra bài viết còn có những nhận xét quan trọng về hình thức nghệ thuật
của truyện thơ như: cách bố cục câu chuyện, bút pháp mô tả, thể thơ và lời thơ.
Tác giả Lục Văn Pảo, năm 1992, trong Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 đã có
bài viết “Truyện Nôm Tày” [36]. Tác giả đã đưa ra những lý lẽ thuyết phục rằng
truyện thơ Tày là sản phẩm song trùng: Một mặt là sản phẩm của một loại hình
thức văn học dân tộc ra đời, song cũng là sản phẩm được sinh ra bởi chữ Nôm.
Không có chữ Nôm Tày thì không có truyện thơ Tày tồn tại như ngày nay. Tác giả
đã đưa ra một danh mục truyện thơ Nôm Tày được sưu tầm trong nhiều năm, gồm
có 47 truyện (Trong đó có 39 truyện thuộc nhóm truyện do người Tày sáng tác, 06
truyện bắt nguồn từ các truyện Nôm Kinh, 2 truyện có nguồn gốc từ truyện dân
gian Trung Quốc). Quả thực, đây là số lượng tác phẩm có quy mô đồ sộ mà ít dân
tộc nào sánh được. Tuy nhiên danh mục này, còn có thể tiếp tục bổ sung. Bài viết

đã khẳng định: “Xét về nội dung, những truyện thơ này phản ánh cuộc sống của
người Tày khá phong phú, đa dạng. Việc tìm hiểu tư tưởng xã hội người Tày trong
lịch sử, nhất là bộ phận phong tục tập quán, nếp sống đã qua thì kho tàng này
dường như chiếm địa vị độc tôn nếu không muốn nói là duy nhất...” [36, tr.20].
Năm 2003, nhóm tác giả Triều Ân, An Định, Hoàng Quyết, Hoàng Thị Cành,
do Triều Ân chủ biên trong Chữ Nôm Tày và truyện thơ [6], có đưa ra những bằng
chứng nhằm giải thích sự kiện: “Truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ?”. Nhóm tác
giả cho rằng “Suy nghĩ tìm tòi truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ, ta thấy có nét
chung là xuất hiện từ sau khi có văn tự Nôm Tày (là thế kỉ thứ V); đi vào cụ thể
từng pho truyện ta sẽ thấy sự xuất hiện khác nhau về thời điểm ta cần đọc xem
xét nội dung truyện cũng như bối cảnh lịch sử, tương quan lịch sử của truyện

4


đó” [6, tr.32-33]. Nhóm tác giả đã phân loại nguồn gốc truyện thơ Tày từ trước
năm 1945, và “tổng quát lại, ta biết truyện thơ Nôm Tày bắt nguồn từ xã hội
người Tày là chủ yếu (trừ truyện Sơn Bá - Chúc Anh Đài gốc Trung Quốc hoặc có
một vài truyện mượn tích hoặc truyện của người Việt để Tày hóa như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa...). Trong truyện thơ Nôm Tày, dù có mượn tên
nhân vật (như vua nước ngoài) mượn tên đất nước dưới miền xuôi hoặc dưới âm
phủ, ta hãy quên những tên rất thật ấy đi để thấy giá trị hiện thực, nhân đạo... của
truyện. Tên nhà vua, tên đất, lúc này chỉ còn có giá trị ước lệ, vay mượn “cho có
chuyện” mà thôi” [6, tr.35-36]. Nhóm tác giả đã giới thiệu 05 truyện thơ rất phổ
biến và được hâm mộ trong dân tộc Tày, đó là Nàng Kim, Nàng Hán, Nàng
Quyển, Nàng Ngọc Long, Nàng Ngọc Dong và có những lời nhận xét, phân tích về
nội dung, nghệ thuật của 05 truyện thơ một cách xác đáng với tư cách là những
người am hiểu truyện thơ Nôm Tày. Sau đây là một vài lời nhận xét chung nhất
cho 05 truyện thơ này: “Qua 05 truyện thơ về các “Nàng”, ta dễ nhận thấy một
điều là các nhân vật nữ thuộc tuyến chính nghĩa đều là những người phúc hậu,
người tốt, hiền lành. Dù tác giả (khuyết danh, dân gian) có xây dựng các nàng có

nguồn gốc từ đâu, là người trần thế hay tiên nữ giáng trần, đều nhằm mục đích
gây được cảm tình từ đầu cho người đọc, người nghe và “thông qua các nhân vật
“Nàng” truyện thơ ca ngợi tự do, nhất là tự do luyến ái, tự do hôn nhân... Ở họ
tình yêu nào cũng trong sáng thuỷ chung, tình phu thê nào cũng trọn vẹn, tình mẫu
tử nào cũng thiết tha sâu sắc... Họ là những người có đạo đức, tôn trọng chính
nghĩa, lễ nghĩa, tu nhân tích đức...” [6, tr.88-89].
Tiếp tục, trong công trình Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại năm 2004 [7],
Triều Ân có nói lại vài nét về truyện thơ Nôm và tác phẩm Thị Đan. Trong phần
truyện thơ Nôm Tày, tác giả nhắc lại thời điểm ra đời truyện thơ Tày, phân loại
nguồn gốc truyện thơ Nôm Tày cùng một vài đặc điểm nghệ thuật truyện thơ Nôm
Tày và giới thiệu ba thể loại với ba tác phẩm: Lượn cùng tác phẩm “Hồng nhan tứ
quý”; khúc hát then và tác phẩm “Khảm hải”; truyện thơ Nôm và tác phẩm “Thị
Đan”. Trong phần tác phẩm Thị Đan, Triều Ân đã kể lại nội dung câu chuyện,

5


cùng với những lời nhận xét về nhân vật, giá trị nội dung của truyện: “Truyện thơ
Nôm “Thị Đan” có tính nhân dân lại có tính chiến đấu nữa. Tác phẩm đã nêu lên
được quan niệm, ước vọng về luyến ái theo nhân sinh quan của nhân gian. Truyện
thơ mang nội dung tố cáo chế độ phong kiến cũ hà khắc đã tỏa chiết tình cảm trai
gái đồng thời mong muốn một luyến ái tự do, một hôn nhân nhân đạo” [7, tr.40].
Tiếp đó, tác giả đưa ra những nét chung về nội dung ba áng thơ, đó là nỗi đau đời
của kiếp người xưa, một trong những nỗi đau là người phụ nữ với tập tục cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy; nét chung thứ hai về nội dung là mơ ước và hy vọng của
người xưa, mà một trong những mơ ước đó là “muốn có một tình yêu trong sáng
thuỷ chung trong một chế độ nào đó bênh vực, bảo vệ cuộc sống con người với tất
cả lòng nhân đạo, bênh vực tự do luyến ái, tự do hôn nhân” [7, tr.46]; nét chung
cuối cùng là những mặt tiêu cực về nội dung, cả ba thể loại đều có chung quan
niệm về cuộc sống nhân sinh, “quan niệm mọi sự an bài đều do Bụt Cả, do trời,

do số phận” [7, tr.50].
Trong Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn Sự tương đồng và khác biệt về
nội dung giữa truyện thơ Tày và truyện thơ Thái, năm 2009 [42], Triệu Thị
Phượng đã so sánh truyện thơ Tày với truyện thơ Thái và chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt về đề tài, chủ đề, tư tưởng - tình cảm - thái độ của nhân vật giữa
truyện thơ Tày và truyện thơ Thái. Công trình đã phần nào cho chúng ta hiểu thêm
về mối quan hệ văn hóa giữa hai dân tộc Tày và Thái.
Năm 2006, trong Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Tìm hiểu truyện thơ Tày Nhân
Lăng về phương diện thi pháp kết cấu cốt truyện và nhân vật, [53], Đỗ Thị Hùng
Thúy đã nêu một luận điểm đáng chú ý: “...Qua việc tìm hiểu thi pháp kết cấu cốt
truyện thơ Nhân Lăng chúng tôi nhận thấy: Truyện thơ Nhân Lăng là sự lựa chọn,
lắp ghép các môtíp khác nhau từ những truyện cổ khác nhau về người mồ côi của
người dân tộc Tày để tạo nên một kết cấu cốt truyện mới..." [53].
Một công trình có đóng góp không nhỏ vào việc nghiên cứu truyện thơ Tày,
đó là Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại năm
2004 của tác giả Vũ Anh Tuấn [57]. Tác giả đã nghiên cứu truyện thơ Tày từ

6


nguồn gốc thể loại, quá trình phát triển cho đến việc tìm hiểu các phương diện của
thi pháp thể loại (thi pháp cấu trúc, thi pháp nhân vật và đặc điểm thi pháp lời văn
nghệ thuật). Về nguồn gốc của truyện thơ Tày, tác giả phân tích cả nguồn gốc nội
sinh trong quá trình phát triển văn hóa tộc người và nguồn gốc ngoại sinh trong
quá trình tiếp biến văn hóa tộc người. Về quá trình phát triển, tác giả nêu ra ba
thời kì như sau:
Thời kì đầu tiên là thời kì có số lượng áp đảo của loại truyện thơ về đề tài
tình yêu, trong đó “số lượng truyện thơ tình yêu kiểu trữ tình - tự sự nghiêng về
đặc điểm trữ tình giàu chất thơ biểu hiện tâm trạng tiêu biểu hơn là các truyện
thơ trữ tình nghiêng về đặc điểm tự sự” [57, tr.71]. Loại truyện thơ này kế thừa

truyền thống trữ tình của dân ca. Thời kì này vào khoảng trước thế kỷ thứ XVII
[57, tr.110].
Thời kì thứ hai là “sự hình thành và phát triển chủ yếu những truyện thơ về
sự nghèo khổ. Trong đó, phần lớn là những truyện cổ tích sinh hoạt được kể lại
bằng thơ” [57, tr.72]. Ở thời kì này, “truyện thơ tình yêu tiếp tục phát triển nâng
cao, nhưng đây là thời điểm ý thức cá nhân về quyền sống đã trở thành khát vọng
cháy bỏng trong một thời đại phong kiến tỏa chiết mạnh mẽ. Do đó, màu sắc lãng
mạn nhạt dần để thay vào đó tính phản kháng quyết liệt đến mức không còn kết
thúc có hậu ở những truyện mang đậm bản sắc tộc người” [57, tr.72]. Thời kì này
là từ thế kỷ VXII trở đi [57, tr.114].
Thời kì thứ ba là thời kì “nở rộ khuynh hướng truyện thơ đề tài chính nghĩa
có cách kết thúc thiên về thuyết giáo đạo đức. Đây cũng là thời kì chữ Nôm Tày đã
hoàn chỉnh, thời kì giao lưu Tày - Kinh có tính đột biến và cũng là thời kì bùng nổ
đấu tranh giai cấp, cả cộng đồng Tày trực tiếp tham gia vào làn sóng nông dân
khởi nghĩa” [57, tr.72-73]. Ở thời kì này, truyện thơ Tày “được mang một hình
thức tồn tại mới: thành văn. Người tiếp nhận truyện thơ Tày đã có thể hưởng thụ
bằng những cách thức khác nhau: đọc, ngâm, kể, hát". Ở thời kì này, “truyện thơ
Nôm Tày đã được hoàn thiện và thật sự trở thành điểm nối giữa văn học dân gian
với văn học thành văn” [57, tr.73]. Thời kì này, theo tác giả, có lẽ bắt đầu từ giữa
thế kỷ XVIII trở đi [57, tr.117].

7


Có thể thấy, chuyên khảo Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển và
thi pháp thể loại của tác giả Vũ Anh Tuấn là một chuyên khảo có giá trị khoa học,
nghiên cứu một cách có hệ thống và công phu về truyện thơ Tày. Truyện thơ của
dân tộc Thái, dân tộc Mường cũng phong phú không kém và cũng đã được công
bố, sưu tầm không ít, nhưng cho đến nay giới nghiên cứu văn học dân gian các
dân tộc thiểu số nước ta chưa có được những công trình tương tự về chúng như

cuốn sách của nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn.
2.3. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu về truyện thơ Nôm Lưu Tương
Đối với truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương do Nông Phúc Tước và Bế Sĩ Uông
sưu tầm, biên dịch (NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2013) đến nay chúng tôi chưa
tìm thấy một công trình nghiên cứu cụ thể nào. Duy chỉ có bài viết Nét đặc trưng
văn hóa trong truyện thơ Nôm Tày đăng trong Tạp chí Văn học nghệ thuật số 394,
tháng 4/2017 của tác giả Cao Thị Hảo [17] có đoạn viết về Lưu Tương như sau: đó
là lòng mến khách, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó
khăn là một trong những nét đẹp truyền thống của người Tày. Trong các tác phẩm
truyện thơ Nôm, ta thường gặp sự tương thân tương ái giữa người với người.
Trong Lưu Tương, khi vua Sở chạy giặc Phàn, bị lạc ở trong rừng phải vào một
nhà dân xin được giúp đỡ:
Vua vào đứng dưới chân thang gác
Chắp tay xin cô bác chủ nhà
Chủ nhà đã chân tình nói lời cảm thông:
Ai đã lìa gia chương đều thấu
Dẫu nghèo đói chẳng chối khách nhờ
Mời ông hãy lên nhà ngồi nghỉ
Chủ nhà lên tiếng giục vợ con:
Cơm nguội liệu có còn hay hết
Nếu hết thì bắc bếp nấu ngay
[57, tr.162]

8


Lời nói, cử chỉ của ông chủ nhà đối với vua Sở thể hiện tình cảm, việc làm
của người dân nơi rừng sâu bản vắng, luôn sẵn lòng giúp đỡ người hoạn nạn. Đó
cũng là tấm lòng, cử chỉ thường thấy trong sự ứng xử giữa người với người ở đồng
bào dân tộc Tày xưa nay.

Như vậy, nhìn lại việc nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày, có thể thấy một bề
dày lịch sử đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu chuyên biệt và hệ thống về truyện Lưu Tương. Do vậy, với tư cách là một
người Tày sống ở Bắc Kạn - nơi tác phẩm đã và đang được lưu truyền, chúng tôi
lựa chọn Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương là đề tài nghiên cứu với
mong muốn góp phần nhỏ bé của mình trong việc bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa cổ truyền của dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, người viết hi vọng có thể làm rõ được những giá trị
nổi bật về nội dung và nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương, nhằm giới
thiệu đến đông đảo bạn đọc về một truyện thơ tiêu biểu của dân tộc Tày được lưu
truyền ở tỉnh Bắc Kạn hiện còn ít người biết đến. Qua đó, góp phần bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Tày trong thời kỳ hội nhập
và phát triển hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến khái niệm truyện
thơ Nôm Tày, quá trình hình thành và phát triển truyện thơ Nôm Tày, giới thiệu
những vấn đề về tác phẩm Lưu Tương: văn bản, biên dịch, quá trình xuất bản…
- Làm rõ những giá trị của tác phẩm trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là văn bản truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là vấn đề văn bản, giá trị nội dung và
giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương (NXB Văn hóa dân tộc, Hà

9



Nội 2013). Trong chừng mực có thể, luận văn sẽ đặt tác phẩm trong tương quan so
sánh với tác phẩm khác cùng thể loại truyện Nôm Tày.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, người viết vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp đi vào tiếp cận tác phẩm ở
phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này thực hiện khi so sánh
truyện Lưu Tương với những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày khác để tìm ra nét
tương đồng và khác biệt. Ngoài ra, người viết cũng đối chiếu, so sánh bản dịch
giữa bản tiếng Tày với bản tiếng Việt để thấy được bản dịch đã dịch sát ý chưa.
Từ đó có thể làm rõ hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Phương pháp tổng hợp: Đây là phương pháp cơ bản giúp người viết đưa ra
được những nhận định khái quát, khoa học. Sử dụng phương pháp này khi xử lí
kết quả thống kê, phân tích để đi đến những đánh giá toàn diện, tạo chiều sâu cho
luận văn.
Ngoài ra, luận văn của chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu khác
như: hệ thống, thống kê, liên ngành…
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của
truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương trong một hệ thống hoàn chỉnh. Kết quả nghiên
cứu của đề tài sẽ cung cấp một tư liệu hữu ích cho người học, người nghiên cứu
nói riêng và người đọc, nhất là người đọc dân tộc Tày, nói chung.
- Luận văn cũng chỉ ra một số điểm tương đồng và khác biệt của Lưu Tương
với các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày khác, góp phần làm phong phú hơn thành
tựu nghiên cứu về thể loại truyện thơ Nôm Tày nói riêng, “túi khôn” của người
Tày nói chung.

10



7. Bố cục của luận văn
Luận văn của chúng tôi, ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham
khảo, phần Nội dung của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1. Khái quát chung một số vấn đề về văn hóa Tày và truyện thơ
Nôm Lưu Tương.
Chương 2: Giá trị nội dung của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương.

11


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ VĂN HÓA TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM LƯU TƯƠNG
1.1. Khái quát về văn hóa Tày
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Dân tộc Tày là dân tộc có số dân đông đứng ở vị trí thứ hai, thứ ba sau dân
tộc Kinh (dân tộc Việt), là cư dân bản địa, giữ vai trò chủ thể từ nhiều ngàn năm
nay ở khu vực Đông Bắc Việt Nam. Đồng bào Tày được phân bố ở khắp các tỉnh,
thành trong cả nước, nhưng tập trung chủ yếu nhất ở các tỉnh thuộc Việt Bắc như:
Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, kể cả
vùng ngoại vi tiếp giáp với các tỉnh trên. Sống ở địa bàn chiến lược quan trọng,
vùng biên giới, ngoài việc xây dựng và bảo tồn các yếu tố văn hóa truyền thống
trong sáng, lành mạnh, mang tính đặc trưng của dân tộc, đồng bào Tày cũng đã
sớm tự ý thức được sự sinh tồn và phát triển của mình. Dựng cờ xướng nghĩa,
chống áp bức, chống ngoại xâm, bảo vệ biên cương Tổ quốc trở thành truyền
thống quý báu của dân tộc. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, dân
tộc Tày đã sớm hòa nhập vào khối cộng đồng thống nhất quốc gia dân tộc Việt

Nam để cùng nhau trường tồn, giữ gìn bảo vệ non sông gấm vóc đất nước.
Đồng bào Tày chủ yếu cư trú ở vùng Việt Bắc, đây là địa bàn có điều kiện tự
nhiên khá đa dạng và phong phú. Là vùng núi, nơi có những cánh rừng bạt ngàn
bao phủ, cung cấp cho người dân nhiều nguồn lợi như gỗ để xây dựng nhà cửa, là
nguồn lương thực phong phú như măng, nấm hương, mộc nhĩ, củ mài, mật ong,
các loại rau rừng… Ngoài ra Việt Bắc còn có rất nhiều chim muông, thú quý. Tất
cả đã làm phong phú thêm cho nền kinh tế tự cung tự cấp, cải thiện đời sống của
con ngươi nơi đây.
Là vùng núi nhưng Việt Bắc còn được bao bọc bởi nhiều sông, suối, ao, hồ.
Ta có thể kể đến các con sông lớn như sông Cầu, sông Kì Cùng, sông Thương,
sông Lô, sông Bằng Giang,… Chính những con sông này đã cung cấp nguồn nước

12


phục vụ cho nông nghiệp, cung cấp lượng tôm, cá dồi dào. Hơn nữa, đây còn là
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng đã tạo nhiều cảm hứng cho các nhà thơ, nhà
văn, họa sĩ, nhạc sĩ sáng tác, sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị nghệ thuật.
Nằm trên vùng núi Việt Bắc nên vùng đồng bào Tày giàu đẹp, có nhiều tiềm
năng để phát triển nông nghiệp và chăn nuôi, có nhiều lâm thổ sản quý giá và
những nguồn lợi vô tận về khoáng sản như thiếc, kẽm, boxit, đồng, vàng, apatit,…
Ngoài ra, ở vùng này khí hậu, đất đai khá phong phú tạo nên sự đa dạng về thực
vật và động vật, hình thành nhiều loại cây trồng, vật nuôi.
Nhờ sự đa dạng, phong phú của điều kiện tự nhiên, hơn nữa vùng Việt Bắc
lại tiếp giáp với đất nước Trung Quốc nơi có nền văn hóa lâu đời bởi vậy người
Tày cũng có điều kiện tiếp xúc với sự đa dạng của các nền văn hóa khác nhau.
Dân tộc Tày đã xây dựng nên nền văn hóa truyền thống mang đặc trưng tộc người
và đặc trưng miền núi sâu sắc, làm đa dạng và phong phú nền văn hóa truyền
thống Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội

1.1.2.1. Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất là toàn bộ cơ sở vật chất được sử dụng trong cuộc sống,
được xem như một nhu cầu của cuộc sống do chính con người sáng tạo ra trong
hoạt động thực tiễn. Trong văn hóa vật chất, nhà cửa là đề tài quan trọng và phức
tạp nhất. Bởi lẽ nó là một tổ hợp về sinh hoạt văn hóa của cư dân.
Nhìn chung nhà của dân tộc Tày chủ yếu là nhà sàn. Nhà sàn của dân tộc
Tày chủ yếu gồm ba bộ phận chính: nóc, sườn và tường vách. Sườn và nóc là hai
bộ phận liên kết với nhau tạo thành ngôi nhà. Bộ phận sườn ngôi nhà không những
là bộ phận quan trọng mà nó còn thể hiện kết cấu về trình độ kỹ thuật, những đặc
điểm địa phương dân tộc người và sự chuyển biến của các kiểu dạng trong lịch sử.
Bộ sườn của ngôi nhà bao gồm các vì kèo. Mỗi một vì kèo, chúng ta biết được các
kiểu dạng của nhà. Đồng bào Tày cũng phân loại nhà sàn dân gian theo hàng cột
và đặt cho mỗi một kiểu dạng một cái tên, phản ánh trình độ phát triển của từng
kiểu dạng như: kiểu vì bốn và sáu hàng cột, kiểu vì năm và kiểu vì sáu hàng cột…

13


Quá trình chuyển biến của các kiểu dạng đó của ngôi nhà gắn liền với quá trình
chuyển biến trong đời sống kinh tế xã hội của đồng bào. Tuy nhiên tùy thuộc vào
những đặc điểm có tính đặc trưng tộc người ở các địa phương mà các ngôi nhà
được xây dựng theo những đặc trưng riêng biệt theo những quan điểm thẩm mĩ
của từng vùng. Trong ngôi nhà sàn, từ cách bố trí không gian thờ cúng tổ tiên, nơi
tiếp khách, bếp núc cho tới buồng ngủ của mỗi thành viên trong gia đình đều thể
hiện rõ phong tục, tập quán, nền nếp của đồng bào Tày.
Bên cạnh nhà cửa thì trang phục chính là một yếu tố tạo nên vẻ đẹp văn hóa
đặc sắc cho dân tộc Tày, bởi trang phục chính là một hiện tượng lịch sử. Nó phản
ánh điều kiện sản xuất, trình độ phát triển, kinh tế xã hội, phong tục, tập quán của
mỗi dân tộc và những tác động của môi trường sinh sống, sự trao đổi, tiếp thu các
yếu tố trong khu vực lịch sử văn hóa. Trang phục đầu tiên của người Tày là khố và

váy (đàn ông dùng khố, đàn bà dùng váy). Cùng với khố và váy thì áo ra đời đánh
dấu bước phát triển quan trọng về trang phục. Với người Tày, áo là nơi chứa đựng
linh hồn sống của con người. Mỗi khi đau ốm, áo người ốm được đem đi xem bói
hoặc để cúng, người Tày gọi là “slửa khoăn” (áo linh hồn). Một thời gian sau, đàn
ông Tày cũng dần vứt bỏ khố và chuyển sang dùng quần. Đó là chiếc quần lửng hay
còn gọi là quần cộc, dài tới đầu gối, hay quá một chút ít. Quần lửng bằng vải dệt
màu trắng hay nhuộm chàm, cách đây vài chục năm trở về trước rất thịnh hành
trong giới đàn ông người Tày, nay lác đác vẫn còn. Ngày nay, ở người Tày phụ nữ
vẫn còn mặc váy dài, áo ngắn hoặc dài đến đầu gối, thắt lưng ngoài áo, đầu chít
khăn, vai quàng khăn, đeo đồ trang sức ở tay, cổ, tai… Với nam giới thì mặc áo
ngắn, quần cộc, đầu quấn khăn, lưng đeo dao hoặc kiếm. Đó cũng là những trang
phục rất ấn tượng và đẹp mắt khác xa hoàn toàn các trang phục của các dân tộc
khác. Ngày nay, trang phục truyền thống Tày vẫn phổ biến nhất là trong các ngày lễ
cổ truyền, trong ngày thường, họ mặc trang phục gần như người Kinh. Điều đó,
chứng tỏ rằng: cùng với sự phát triển của kinh tế thì hiện nay về trang phục của
người Tày cũng có xu thế hội nhập. Giờ đây người Tày đã dần thay đổi trang phục
truyền thống bằng những bộ quần áo tiện dụng hơn. Chính vì vậy, việc giữ gìn trang
phục của người Tày là điều hết sức quan trọng và cần thiết.

14


Văn hóa vật chất của đồng bào Tày còn thể hiện trong vấn đề ẩm thực. Nguồn
lương thực chính là những sản vật tự nhiên, tự cung tự cấp: gạo, ngô, khoai, sắn,
tôm, cá,… hoặc các loài gia súc, gia cầm như: trâu, bò, gà, vịt… Người Tày có hai
hình thức tổ chức ăn uống là ăn uống thường ngày và ăn uống vào dịp lễ tết. Tết lớn
nhất trong năm là tết tháng Giêng (tết Nguyên Đán) thường có những món ăn
truyền thống như: bánh gio (pẻng đắng), bánh bỏng (khẩu sli), chè lam, bánh chưng.
Tiếp đến là tết Thanh minh (tảo mộ) vào ngày mồng ba tháng ba âm lịch. Món ăn
chủ yếu trong tết này là xôi đỏ đen được làm bằng lá cẩm, bánh lá ngải, bánh trứng

kiến, thịt gà, thịt vịt… Đến tháng năm âm lịch là tết Đoan ngọ, món ăn là bánh gio,
rượu nếp… Tết lớn thứ hai trong năm là người Tày coi trọng là tết Rằm tháng bảy.
Đầy không chỉ là ngày xá tội vong nhân, thờ cúng tổ tiên mà còn là ngày gia đình,
dòng họ đoàn tụ, sum họp; con cái thể hiện lòng biết ơn, tình cảm hiếu thuận đối với
cha mẹ… Ngày này, họ thường ăn các món vịt quay, lợn quay lá mác mật, bánh củ
chuối, bánh gai… Văn hóa dân tộc Tày chịu ảnh hưởng của các tộc lân cận như
Hoa, Việt... (xuất phát từ một tộc người ở Trung Hoa, nhưng lại có quan hệ máu
thịt với tộc người Việt). Qua quá trình lịch sử, đặc biệt trong thời kì tự chủ, triều
đình có quan tâm đến việc học hành của cư dân Tày. Nhà Mạc khi chạy lên đóng
đô ở Cao Bằng, ra sức đào tạo tầng lớp nho sĩ. Quan lại người Việt chạy lên đây bị
Tày hóa. Do vậy tầng lớp trí thức nho học Tày hình thành, văn hóa Việt đã ảnh
hưởng lớn tới văn hóa Tày. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gần giống với
người Việt, nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín ngưỡng vật linh
vốn có từ lâu đời trong dân gian. Việc chế biến món ăn một mặt có những sáng
tạo, một mặt tiếp thu từ kĩ thuật chế biến của tộc người Hoa, Việt... Họ chế biến
ngô một cách tinh tế. Thức ăn chính là gạo tẻ nhưng việc chế biến các món ăn từ
gạo nếp lại càng được chú trọng. Trong ngày tết cốm, các loại xôi màu là món ăn
hấp dẫn. Thịt lợn, vịt quay thường được làm cầu kì...
Nói đến văn hóa vật chất truyền thống, ngoài nhà cửa, trang phục, ăn uống
không thể không đề cập đến phương tiện sinh hoạt vật chất truyền thống khác, gắn
với các hình thái kinh tế tạo nên cuộc sống vật chất của người Tày như: dụng cụ

15


sinh hoạt gia đình (chum, vại, ống tre nứa, điêng, xoỏng…); dụng cụ để sản xuất
(cày, bừa, lỏng, liềm, cuốc, bai…); dụng cụ sản xuất thủ công nghiệp gia đình
(máy kéo sợi, khung dệt vải…); dụng cụ đánh bắt cá, sản vật tự nhiên (súng kíp,
cung, nỏ, vợt, chài…).
Có thể nói văn hóa vật chất của người Tày khá phong phú, đa dạng, vừa độc

đáo thể hiện những nét riêng của tộc người. Đó cũng là nét đẹp trong con người
Tày nói riêng và người Việt Nam nói chung.
1.1.2.2. Văn hóa tinh thần
Khi tìm hiểu văn hóa tinh thần của một cộng đồng dân tộc người bản địa có quá
trình lịch sử lâu dài, bền vững, phong phú, phức tạp và tương đối phát triển như cộng
đồng Tày để sát với thực tiễn nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn phần
tìm hiểu văn hóa tinh thần của người Tày ở một số vấn đề như: tín ngưỡng, phong
tục, ngôn ngữ. Sau đây là một số vấn đề văn hóa tinh thần của người Tày mà chúng
tôi đã tìm hiểu được qua thực tiễn và qua các tài liệu liên quan:
Trước hết là vấn đề tín ngưỡng - phong tục. Giống như các dân tộc khác, dân
tộc Tày cũng có tục thờ các vị thần: thần tổ tiên, thần bếp, thần thổ công… ngoài
ra theo số phận mà tục thờ đá, thờ mô đất, thờ gốc cây… và còn nhiều hình thức
thờ thần nữa. Tất cả đều xuất phát từ tín ngưỡng tô tem giáo và sự phát triển một ý
niệm tôn giáo bản địa trong tâm thức của người Tày. Chính vì vậy mà tín ngưỡng
dân gian, các phong tục tập quán Tày cũng hết sức đa dạng trên nhiều phương
diện: cưới xin, sinh đẻ, ma chay, cúng giỗ… Đặc biệt đám cưới Tày có các nghi
thức như: lễ dạm hỏi, lễ mỉnh hom (mừng lá số hợp nhau), lễ kha cáy (xem chân
gà), lễ sên tết, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức và sau cùng là lễ “tẻo lòi” hay còn gọi
là lễ “slam nâư” (lại mặt nhà gái của vợ chồng mới cưới). Trong việc hiếu (đám
tang), người Tày cũng có một tổ chức gọi là Phường làng. Người Tày coi việc báo
hiếu cha mẹ là vô cùng hệ trọng. Con cái phải lo việc an nghỉ cuối cùng cho cha
mẹ mình hết sức chu đáo thì mới được cộng đồng yêu quý, nể phục vì sự “trọn
đạo”. Một đám ma diễn ra nhiều ngày (khoảng từ 3 đến 7 ngày) khá tốn kém và
nhiều nghi lễ phức tạp hơn so với đám cưới.

16


Ngoài ra trong phong tục tập quán Tày cho đến nay vẫn còn nhiều nét đẹp
chứa chan tình người. Đối với người Tày mất lòng tin là một sai lầm không thể tha

thứ. Tuy nhiên cũng như tại gia đình các dân tộc Việt Nam, người Tày có phong
cách nhu mì, giản dị, quý mến bạn bè và đặc biệt rất hiếu khách. Đó cũng là những
yếu tố quyết định sự hình thành những thuần phong mỹ tục ngàn năm của đồng
bào Tày.
Bên cạnh phong tục tập quán, tín ngưỡng thì ngôn ngữ Tày cũng là thứ của
cải vô cùng quý báu của cộng đồng dân tộc. Hàng ngàn năm nay, bên cạnh việc sử
dụng tiếng Kinh và có khi sử dụng trong giao tiếp bằng một vài thứ tiếng của các
dân tộc khác, đồng bào Tày vẫn giữ gìn và ngày càng góp phần làm cho tiếng Tày
giàu đẹp. Tuy nhiên, để biểu thị các khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa
học… thì tiếng Tày phải vay mượn từ tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng Kinh (Việt).
Sự vay mượn được hình thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật,
điều đó đã làm cho tiếng Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt. Hiện nay,
đã có một loạt các nhà thơ, nhà văn sáng tác văn học bằng tiếng Tày, thậm chí đã
có trí thức Tày dịch trọn vẹn thiên Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du sang
tiếng Tày… Có thể khẳng định, ngôn ngữ Tày là thứ ngôn ngữ riêng của người
Tày, ngôn ngữ làm giàu có thêm kho tàng văn hóa dân tộc.
1.2. Truyện thơ Nôm Tày
1.2.1. Khái quát chung
Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng bao gồm nhiều dân tộc. Bên cạnh dân
tộc Việt là dân tộc chủ thể, còn có các dân tộc thiểu số khác sống rải rác trên mọi
miền đất nước. Các dân tộc có khác nhau, đều chung nguồn gốc Bách Việt. Từ
những buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay, các dân tộc thiểu số đã có nhiều
đóng góp đáng kể trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng truyền thống
lịch sử, văn hoá của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, ngoài tính chung, mỗi dân tộc đều có
văn hoá riêng, có ngôn ngữ, phong tục tập quán, cũng như văn học nghệ thuật
riêng. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những thành tựu độc đáo với

17



những sắc thái riêng biệt. Diện mạo của văn học dân gian Việt Nam được nhìn
nhận đầy đủ, chính xác hơn trên mối quan hệ tổng thể với văn học dân gian các
dân tộc thiểu số. Đó là một nền văn học dân gian thống nhất, đa dạng. Cho nên,
việc nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian các dân tộc thiểu số là cần thiết, thể
hiện rõ đường lối dân tộc, đường lối văn hóa và văn nghệ của Đảng ta, đó là bình
đẳng dân tộc, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhằm góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa
Việt Nam vừa thống nhất vừa đa dạng.
Nói đến nền văn học dân gian dân tộc Tày, không thể không nói đến truyện
thơ. Đây là một thể loại phổ biến và tiêu biểu trong sáng tác văn học của dân tộc
Tày và là một phần không nhỏ tạo nên diện mạo truyện thơ của các dân tộc thiểu
số nói chung. Truyện thơ Nôm của dân tộc Tày gắn bó mật thiết với đời sống tinh
thần của người Tày, là niềm tự hào của họ. Cho đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học quan tâm, nghiên cứu về truyện thơ Tày.
Đến với truyện thơ Nôm Tày, chúng tôi thực sự bị cuốn hút bởi những vấn đề
mà các tác phẩm văn học dân gian đó đặt ra, mặc dù nó dường như rất cũ như trong
các thể loại văn học dân gian khác cũng và đã thể hiện, song nó cũng rất thân thuộc,
gần gũi bởi những vấn đề có tính chất thời đại, mang màu sắc dân tộc, gần gũi với đại
chúng nhân dân... Về hình thức thể loại, truyện thơ Nôm Tày thường là những
truyện cổ tích dân gian được thể hiện bằng lối văn vần, thể thất ngôn trường thiên,
gieo vần ở tiếng thứ năm và thứ bảy mỗi câu. Nội dung cốt truyện rõ ràng, mạch
lạc, có nhân vật chính diện, có nhân vật phản diện, và đều nổi bật ở các chủ đề, nội
dung như: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, chính nghĩa thắng gian tà, nghĩa nhân
thắng cường bạo, ca ngợi tình yêu chung thủy, son sắt... Đề cao những nhân vật chính
diện có tài trí, đạo đức, vì nước vì dân. Phê phán, đả kích hoặc trừng trị những nhân
vật phản diện gian ác, cường quyền, nhũng nhiễu dân lành,...
Hầu hết các truyện thơ Nôm Tày đều khuyết danh, không ghi niên đại sáng tác,
cũng không thấy ghi niên đại sao chép, hoặc không rõ được sao chép từ đâu. Theo
quan điểm của các nhà nghiên cứu thì truyện thơ Nôm Tày thường được chia ra


18


làm hai loại. Loại thứ nhất gồm những truyện có kết cấu đơn giản, nhiều yếu tố
thần thoại, chủ đề Tiên, Phật được đề cao, như các truyện: Lưu Đài - Hán Xuân, Kim
Quế, Nam Kim - Thị Đan. Loại thứ hai gồm những truyện có nội dung xã hội phức
tạp hơn, có nhiều tình tiết mang tính chất tiểu thuyết, như các truyện: Đính Quân,
Quảng Tân - Ngọc Nương, Tần Chu, Lý Thế Khanh, Lưu Tương,...
Sự ra đời của truyện thơ Nôm Tày sức phù hợp với điều kiện và yêu
cầu phản ánh xã hội đương thời, bởi khả năng nhận thức nghệ thuật của thể loại
này rất lớn. Truyện thơ Nôm Tày chứa đựng đa dạng các tính cách, hoàn cảnh, sự
kiện, số phận, chi tiết về xã hội và đời sống nội tâm của con người. Tuy nhiên,
truyện thơ Nôm Tày còn một vài lĩnh vực chưa thoát hẳn ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa cổ đại, nhưng rõ ràng đã đánh dấu một bước tiến dài về mặt thể loại,
ngôn từ, khẳng định sức mạnh của chữ Nôm Tày - Nùng về phương diện diễn đạt,
nhất là diễn đạt tư tưởng, tình cảm, cảm xúc... của nhiều loại nhân vật khác nhau
một cách tinh tế.
Có thể khẳng định rằng, ra đời khi nền văn học viết đã phát triển, truyện thơ
Nôm Tày được xem là sự tích hợp hoàn hảo giữa văn học truyền miệng và văn học
thành văn. Các yếu tố của văn học dân gian Tày như: thành ngữ, tục ngữ, ca dao,
truyền thuyết, điển tích, điển cố và các loại hình văn học dân gian khác như: Then,
Sli, Lượn được kết hợp nhuần nhuyễn tạo nên sức hấp dẫn riêng của truyện thơ
Nôm Tày. Đặc biệt, nhiều giá trị văn hóa vật chất tộc người Tày như văn hóa nhà
ở, đất ở, trang trí, kiến trúc, vật nuôi, nhạc cụ,... được tái hiện cụ thể và sinh động.
Không chỉ là tác phẩm văn học, truyện thơ Nôm Tày còn là một hình thức
sinh hoạt văn hóa - văn nghệ vừa cổ truyền vừa hiện đại. Tuy đã có sự tiếp thu,
giao thoa, ảnh hưởng của nhiều tầng văn hóa như: Văn hóa Việt, văn hóa Hán...
nhưng yếu tố văn hóa Tày vẫn thể hiện vô cùng sâu đậm trong quan niệm về cuộc
sống, về con người và thế giới vạn vật… Từ góc nhìn văn hóa tộc người, truyện

thơ Nôm Tày là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa tinh thần đáng trân trọng của
người Tày. Trong tác phẩm “Chữ Nôm Tày và truyện thơ” nhà nghiên cứu, sưu
tầm văn hóa dân gian Hoàng Triều Ân đã khẳng định:“Ngày nay người Tày còn

19


×